Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước

Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước

Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế trên thế giới, du lịch đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa – xã hội của con người.Du lịch không những là một ngành kinh tế góp phần nâng cao đời sống vật chất mà còn giúp con người có điều kiện giao lưu văn hóa giữa các quốc gia vùng miền.Chính vì vậy ngày nay du lịch đã nằm trong chiến lược phát triển của quốc gia, trở thành nền kinh tế quan trọng có đóng góp lớn trong sự phát triển của các nước.Những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam đã chứng kiến nhiều dấu ấn đặc biệt trong xây dựng thể chế chính sách, tạo điều kiện thuận lợi phát triển du lịch. Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã xác định phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp ngày càng lớn cho nền kinh tế đất nước. Với định hướng quan trọng này, nhiều chính sách hỗ trợ mới được hình thành để khắc phục khó khăn, khai thác tốt tiềm năng cũng như phát huy lợi thế để ngành du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Phát triển du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch là trách nhiệm của hệ thống chính trị, các ngành, các cấp, của toàn xã hội.

Tỉnh Quảng Nam đã thực hiện tốt các chính sách phát triển du lịch của Trung ương đồng thời trên cơ sở đó đã có những cơ chế, chính sách để thúc đẩy phát triển du lịch phù hợp nên du lịch Quảng Nam đã có bước phát triển vượt bậc với những con số ấn tượng. Nếu như năm 2007, lượng khách đến Quảng Nam khoảng 2 triệu lượt, thì năm 2018 con số này đã lên tới 6 triệu 350 ngàn lượt, tăng gấp 3,32 lần; tốc độ tăng bình quân giai đoạn từ 2007 đến 2018 đạt trên 19%/ năm.

Huyện Tiên Phước là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Quảng Nam cách thành phố Tam Kỳ 25 km, là một huyện bán sơn địa chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng duyên hải với vùng núi phía tây của tỉnh Quảng Nam, có địa hình đồi núi thấp, dạng bát úp với sông suối xen kẽ, các trang trại trong những cánh rừng thưa, những thắng cảnh vẫn còn hoang sơ nét tự nhiên vốn có, với những ngôi nhà, khu vườn, ngõ đá, làng quê đặc trưng của vùng trung du Quảng Nam, với những vùng cây ăn quả đặc sản, tạo nên cảnh quan thơ mộng phù hợp với loại hình du lịch sinh thái nông thôn, du lịch trang trại, du lịch khám phá trải nghiệm, du lịch nghỉ dưỡng… Về văn hóa Tiên Phước cũng có những tài nguyên du lịch văn hóa đặc trưng.Những điều kiện về nguồn lực, tài nguyên trên là một thuận lợi để Tiên Phước có thể đầu tư phát triển du lịch.Ngoài ra, du lịch huyện Tiên Phước còn được hỗ trợ bởi các chiến lược và chính sách khuyến khích phát triển du lịch liên quan ở các cấp.Đặc biệt là chính sách của tỉnh Quảng Nam về hỗ trợ, tạo điều kiện phát triển du lịch miền núi phía tây và hải đảo tỉnh Quảng Nam đến 2020.Nhằm tập trung huy động mọi nguồn lực đầu tư phát triển toàn diện kinh tế, văn hóa, xã hội khu vực miền núi. Với những lợi thế đó huyện Tiên Phước thời gian qua du lịch Tiên Phước đã có những bước phát triển và đạt được một số kết quả khá tích cực. Tuy nhiên, so với tiềm năng du lịch của huyện Tiên Phước thì những kết quả đạt được của ngành du lịch Tiên Phước vẫn chưa được như mong muốn, khai thác cơ hội và tiềm năng chưa thực sự hiệu quả. Chưa có Chương trình, Đề án dài hạn với sự đầu tư đúng mức để phát triển du lịch và bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể, di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc nghệ thuật; chưa hình thành được sản phẩm du lịch cụ thể, phong phú; dịch vụ du lịch chưa bài bản, thiếu tính chuyên nghiệp. Vệ sinh môi trường ở các điểm đến chưa được quan tâm.Chưa huy động các thành phần kinh tế, nhân dân tham gia hoạt động dịch vụ du lịch; các điểm đến chưa hình thành.Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch không nhiều, các dịch vụ vui chơi, giải trí còn hạn chế; hệ thống các dịch vụ phục vụ du lịch còn thô sơ, chưa đảm bảo tiện nghi và an toàn cho du khách. Trên đây là những vấn đề tồ tại, hạn chế, khó khăn nhiều năm qua của du lịch huyện Tiên Phước. Nguyên nhân của những tồn tại hạn chế này là do nhiêu yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng nhất là thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện có những tồn tại, hạn chế trong quá trình triển khái đó là: Xây dựng kế hoạch, chương trình, đề án thực hiện chính sách chưa sát với thực tế, chưa có những định hướng phù hợp, có tính đài hạn; việc vận dụng, kết hợp và lồng ghép các chính sách trong quá trình thực hiện còn nhiều bất cập; công tác quy hoạch, định hướng, quản bá xúc tiến đầu tư chưa được quan tâm đúng mức; thực hiện quản lý nhà nước, phân công, phân cấp, bố trí con người trong quá trình thực hiện chính sách còn nhiều hạn chế… Từ những vấn đề nêu trên việc thực hiện chính sách, pháp luật về du lịch một cách cụ thể, khoa học, hiệu lực, hiệu quả đi vào thực tế cuộc sống góp phần phát triển du lịch huyện Tiên Phước là vấn đề quan trọng cần phải quan tâm.

Vì vậy, nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học để tìm ra những giải pháp tối ưu trong quá trình thực hiện chính sách, phát pháp luật về du lịch của các cấp, các ngành một cách khoa học, sáng tạo, hiệu quả nhằm tranh thủ,vận dụng, phát huy hết tiềm năng du lịch huyện Tiên Phước là một việc làm hết sức cần thiết và cấp bách. Từ những lý do đó, tác giả luận văn đã lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận về chính sách phát triển du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch để có cơ sở phân tích đánh giá một cách khoa học về chu trình chính sách và thực hiện chính sách.Từ đó xác định những tiềm năng, thế mạnh của du lịch huyện Tiên Phước, đánh giá thực trạng, nguyên nhân trong quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước. Xác định cơ hội và thách thức, qua đó đề xuất giải pháp tối ưu và phù hợp nhất trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước góp phần phát triển du lịch bền vững trên địa bàn huyện Tiên Phước.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa phân tích làm rõ cơ sở lý luận về du lịch, chính sách phát triển du lịch, quy trình thực hiện chính sách.Đánh giá quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện, nghiên cứu tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch huyện Tiên Phước.Phân tích, khảo sát, đánh giá tiềm hiểu những thế mạnh cũng như hạn chế, tồn tại cần giải quyết. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp trong quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Chính sách phát triển du lịch được thực hiện trên địa bàn huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Không gian: Trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

– Thời gian: Các số liệu phục vụ để đánh giá được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2017; các định hướng và giải pháp thực hiện đề xuất trong luận văn được thực hiện trong giai đoạn từ nay đến năm 2030.

– Nội dung nghiên cứu: Tổng quan về quá trình thực hiện các chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên cơ sở lý luận về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước Việt Nam về du lịch và phát triển du lịch. Chính sách phát triển du lịch của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh Quảng Nam và huyện Tiên Phước.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài vận dụng tổng hợp những phương pháp: Thống kê – so sánh, phân tích – tổng hợp, khảo sát thực địa, tổng kết, đánh giá thực tiễn. Trên cơ sở đó đưa ra các phân tích, giải pháp, ý kiến của tác giả.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Hệ thống hóa các vấn đề về thực hiện chính sách phát triển du lịch từ thực tiễn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu những vấn đề liên quan đến phát triển du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Quảng Nam nói chung, ở huyện Tiên Phước nói riêng. Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện. Đề ra những chính sách, giải pháp để phát huy những lợi thế, khắc phục những hạn chế, tồn tại góp phần thúc đẩy du lịch huyện Tiên Phước phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài mục lục, mỡ đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu 3 chương.

Chương 1: Cơ sở khoa học về thực hiện chính sách phát triển du lịch.

Chương 2: Thực trạng về thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước.

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp thực hiện chính sách phát triển du lịch huyện Tiên Phước giai đoạn 2020 – 2025 và định hướng đến 2030.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

    1. 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
    2. 1.1.1. Khái niệm du lịch, phát triển du lịch

1.1.1.1. Khái niệm về du lịch

Thuật ngữ du lịch xuất phát từ tiếng Hy Lạp: Tonos nghĩa là “Đi một vòng” Thuật ngữ này được đưa vào hệ ngữ La tinh thành Turnur và sau đó thành Tour trong tiếng Pháp với nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Trong tiếng Việt, du lịch là một từ gốc Hán – Việt, tạm dịch và hiểu là đi trải nghiệm, đichơi, đi du ngoạn.Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế, xã hội phổ biến ở mọi quốc gia.Tuy nhiên, do bối cảnh về không gian, thời gian khác nhau hoặc dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Theo nghĩa chung nhất, “Du lịch” được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một tập thể, một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian nhất định đến một nơi nào đó để nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, du ngoạn, khám phá hay chữa bệnh. Chúng ta đề cập một số định nghĩa thông dụng:

– Liên Hiệp Quốc (1963) định nghĩa về du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tếbắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họvới mục đích hoà bình. Nơi họ đến ở, lưu trú, sinh hoạt không phải là nơi làm việc của họ”.

– Luật du lịch năm 2017 củaViệt Nam định nghĩa: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người (Cá nhân, nhóm người) ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu nghỉ dưỡng,tham quan, vui chơi, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với nhiều mục đích hợp pháp khác”[15].

Với các cách tiếp cận như vậy, định nghĩa về du lịch hiện nay bao gồm hai thành tố, đó là:

Thứ nhất, du lịch là một nhu cầu, hiện tượng xã hội: sự di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao hiểu biết, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ nào đó.

Thứ hai, đó là một ngành hay hoạt động kinh doanh sinh lời: Cung cấp, giới thiệu các sản phẩm, dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian rảnh rỗi, thư giãn của cá nhân hay nhóm người ngoài nơi cư trú với mục đích nâng cao nhận thức, hiểu biết, khám phá về thế giới xung quanh,phục hồi sức khoẻ. Cách tiếp cận, cách hiểu về du lịch như vậy có ý nghĩa quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển đúng đắn về du lịch.Cho đến nay, không ít người, kể cả những người đang làm việc trong ngành du lịch cũng có cách hiểu phiến diện về du lịch thiên về góc độ xã hội hoặc kinh tế. Do đó, họ chỉ tập trung vào thỏa mãn nhu cầu tinh thần, sức khỏe mà bỏ qua lợi ích quan trọng của kinh tế hoặc đề cao lợi nhuận bằng việc khai thác triệt để tài nguyên thiên nhiên và các giá trị văn hóa. Chỉ có thể hiểu khái niệm du lịch một cách đầy đủ như vậy, chúng ta mới xác định được rằng phát triển du lịch không chỉ là trách nhiệm của nhà nước hay của một cá nhân, tổ chức nào mà là trách nhiệm chung của toàn xã hội.

1.1.1.2. Khái niệm về phát triển du lịch

Phát triển du lịch bền vững theo Luật du lịch 2017 là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế – xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai.Phát triển du lịch có thể được nhận thức đầy đủ với 5 nội dung sau[15]:

Thứ nhất, là sự tăng trưởng. Những chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện sự tăng trưởng là: Mức gia tăng lượng khách du lịch; Mức tăng thu nhập từ du lịch; Mức tăng quy mô cơ sởvật chất kỹ thuật; số lượng việc làm tăng thêm từ phát triển du lịch.

Thứ hai, mức độ thay đổi phương thức, cách thức tiến hành các hoạt động du lịch theo hướng ngày càng tiến bộ, hiện đại và hiệu quả đem lại từ các hoạt động, các chính sách về du lịch đó. Cụ thể là những sản phẩm du lịch, những hướng phát triển hiệu quả có tốc độ phát triển nhanh, những công nghệ, phương thức phục vụ hiện đại có năng suất cao được chú trọng phát triển; cơ sở hạ tầng cho phát triển du lịch được đầu tư có hiệu quả bảo đảm sự phát triển có tính bền vững cao.

Thứ ba,chất lượng vàmức độ tham gia của khách du lịch, người dân và các cấp chính quyền địa phương cũng như các doanh nghiệp du lịch, ccoong ty lữ hành du lịch và quá trình phát triển ngày càng tự giác, tích cực trên cơ sở tinh thần cộng đồng trách nhiệm và sự hài hòa vềlợi ích của các bên tham gia.

Thứ tư, Xây dựng và phát triển ngànhdu lịch hiện tại không làm tổn hại, tác động tiêu cực đến khả năng hưởng thụ du lịch, hưởng thụ môi trường sống của các thế hệ tương lai.

Thứ năm, phát triển du lịch phải bảo đảm sự hài hoà giữa 3 mục tiêu: kinh tế – xã hội và môi trường. Về kinh tế phải bảo đảm duy trì, phát huy nhịp tăng trưởng theo thời gian, không gian và sự tăng trưởng phát triển phải dựa trên cơ sở hiệu quả tăng năng suất lao động chứ không phải chỉ dựa trên sự gia tăng của các yếu tố đầu vào. Về mặt xã hội, ít nhất phải được hiểu trên cơ sở quan điểm toàn diện và bình đẳng giữa những người, giữa các bên tham gia vào quá trình hoạt động du lịch không phải chỉ là thu nhập và trên tất cả các phương diện khác. Về mặt môi trường, chứa đựng tư tưởng cơ bản sau: các quyết định khai thác tài nguyên du lịch đặc biệt là tài nguyên thiên nhiên phải bảo tồn, tái sinh các hệ sinh thái, bảo đảm chất lượng môi trường cho hiện tại và cho tương lai; bảo đảm sự phối hợp giữa các hoạt động kinh doanh du lịch với các hoạt động kinh tế, xã hội khác v.v..

Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam

1.1.2. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển du lịch.

* Khái niệm chính sách.

Theo Bách khoa từ điển Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [28,tr.475].

Tác giả Smith cho rằng “khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không hành động” cũng như 11 “hành động” và nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá trình hoạch định chính sách”.

Cụm từ “chính sách” khi gắn thực hiện chức năng, vai trò của nhà nước (khu vực công) được gọi là chính sách công.Thuật ngữ “chính sách” sử dụng trong đề tài này được hiểu là chính sách công.Theo đó, chủ thể chính sách, mục đích tác động và vấn đề chính sách hướng tới đều gắn với chủ thể ban hành là Nhà nước.

Theo thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến lược sử dụng nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép mỗi Chính phủ đảm nhiệm vai trò, vị trí của Nhà nước đối với cuộc sống của nhân dân.

* Chính sách phát triển du lịch[15]

Chính sách phát triển du lịch: Theo luật du lịch 2017 là Nhà nước có chính sách huy động mọi nguồn lực cho phát triển du lịch để bảo đảm du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch được hưởng mức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cao nhất khi Nhà nước ban hành, áp dụng các chính sách về ưu đãi và hỗ trợ đầu tư.

Nhà nước ưu tiên bố trí kinh phí cho các hoạt động sau đây: Điều tra, đánh giá, bảo vệ, tôn tạo, phát triển giá trị tài nguyên du lịch;Lập quy hoạch về du lịch; Xúc tiến du lịch, xây dựng thương hiệu du lịch quốc gia, địa phương;Xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển du lịch.

Nhà nước có chính sách khuyến khích, hỗ trợ cho các hoạt động sau đây: Đầu tư phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ du lịch chất lượng cao; Nghiên cứu, định hướng phát triển sản phẩm du lịch; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch; Đầu tư phát triển sản phẩm du lịch mới có tác động tích cực tới môi trường, thu hút sự tham gia của cộng đồng dân cư; đầu tư phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng, du lịch văn hóa và sản phẩm du lịch đặc thù khác; Ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại phục vụ quản lý và phát triển du lịch; Phát triển du lịch tại nơi có tiềm năng du lịch; Sử dụng nhân lực du lịch tại địa phương; Đầu tư hình thành khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn; Hệ thống cửa hàng miễn thuế, trung tâm mua sắm phục vụ khách du lịch.

Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thuận lợi về đi lại, cư trú, thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh, hải quan, hoàn thuế giá trị gia tăng và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp khác cho khách du lịch.

1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách, quy trình thực hiện chính sách.

1.1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách:

Khái niệm thực hiện chính sách hay “thực thi chính sách” hoặc “tiến hành thực hiện chính sách”, thực chất cùng nội hàm; thông thường, là giai đoạn sau quá trình hoạch định và trước quá trình đánh giá chính sách công. Theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất các hoạt động được thiết kế để các chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp” [28, tr.4]. Tác giả William Dunn cho rằng: “Các hành động chính sách công có hai mục đích chính: điều chỉnh và phân bổ” [6].

Về cơ bản, coi thực hiện chính sách (công) – một khâu trong chu trình chính sách để đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội. Đây là quá trình xây dựng và ban hành các văn bản, chương trình, dự án,… nhằm hiện thực hóa, cụ thể hóa các nội dung chính sách để đạt được mục tiêu, chỉ tiêu, kế hoạch đặc ra. Có thể thấy, thành công của chính sách chủ yếu phụ thuộc vào việc tổ chức thực thi chính sách đó trên thực tế.Đó là từng bước thực hiện mục tiêu của chính sách, khẳng định tính phù hợp, đúng đắng của chính sách công và giúp cho chính sách công ngày một hoàn thiện hơn.

Nghiên cứu trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn phân tích chu trình thực hiện chính sách công gồm những nội dung sau: Thứ nhất, xây dựng kế hoạch, đề án, chương trình triển khai thực hiện chính sách; Thứ hai, tuyên truyền, phổ biến, chính sách; Thứ ba, phân công, tổ chức phối hợp thực hiện chính sách; Thứ tư, duy trì hoạt động thực hiện chính sách; Thứ năm, điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi chính sách; Thứ sáu, theo dõi, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện chính sách; Thứ bảy, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách.

1.1.3.2. Quy trình thực hiện chính sách.

Hệ thống chính sách hay một chính sách khi được thực hiện bao giờ cũng hướng tới giải quyết một hay nhiều vấn đề nào đó đang diễn ra, sẽ diễn ra trong đời sống xã hội để đạt được những mục tiêu, chỉ tiêu, mục đích hoặc là một kế hoạch nhất định. Trong chu trình chính sách, tổ chức thực hiện chính sách là quá trình kết nối các khâu. Về cơ bản, việc thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình, chu trình đưa chính sách vào thực tế đời sống xã hội theo một hoặc nhiều quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch bền vững đối với những đối tượng, phạm vi cụ thể trong một không gian, thời gian nhất định. Theo đó, chu trình thực hiện chính sách gồm bước sau đây:

* Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Kế hoạch triển khai chính sách được thực hiện trước khi chính sách đi vào thực tế cuộc sống.Các Chủ thể triển khai thực thi chính phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện chính sách. Kế hoạch, chương trình triển khai thực hiện chính sách gồm những nội dung về tổ chức bộ máy, điều hành thực hiện; cung cấp các nguồn vật lực; thời gian, không gian triển khai thực hiện; tổ chức kiểm tra thực hiện chính sách; cơ chế về tổ chức, điều hành thực hiện; quy định trách nhiệm, quyền hạn của người thực hiện chính sách và các chủ thể tham gia.

* Phổ biến, tuyên truyền chính sách

Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa lớn với cơ quan nhà nước và các đối tượng thực thi chính sách: Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách… để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Giúp cho mỗi chủ thể có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức, đánh giá được đầy đủ tính chất, qui mô, tầm quan trọng của chính sách với đời sống xã hội.Từ đó chủ động tìm kiếm các giải pháp, phương án thích hợp cho việc thực hiện chương trình, mục tiêu, chỉ tiêu chính sách và triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách được giao.

* Phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Để quá trình thực hiện chính sách có hiệu quả thì không thể mỗi chủ thể độc lập thực hiện được mà phải tiến hành phân công, phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, các cấp chính quyền địa phương. Trong thực tế thường hay phân công cơ quan chủ trì và các cơ quan phối hợp thực hiện một chính sách cụ thể nào đó. Chính sách có thể tác động đến lợi ích của một bộ phận dân cư, nhưng kết quả tác động lại liên quan đến nhiều yếu tố, quá trình thuộc các bộ phận khác nhau, nên cần phải phối hợp chúng lại để đạt yêu cầu quản lý. Hoạt động phân công, phối hợp cần được thực hiện theo tiến trình, có kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách.

* Duy trì chính sách

Để chính sách tồn tại và tiếp tục thực hiện thì hoạt động duy trì chính sách phải được thực hiện một cách nghiêm túc, trách nhiệm của các chủ thể tham gia.Muốn vậy phải có sự cộng đồng trách nhiệm của cả người tổ chức, người thực thi và môi trường tồn tại.Đối với các chủ thể là Nhà nước thì phải thường xuyên quan tâm tuyên truyền, vận động, định hướng cho các đối tượng thực hiện chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực hiện.Trong quá trình thực hiện có sự tác động tiêu cự từ môi trường bên ngoài hoặc bên trong ảnh hưởng đến chính sách thì các chỉ thể, cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách.Bên cạnh đó, chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tế cuộc sống và hoàn cảnh mới. Trong một chừng mực nào đó, để đảm bảo lợi ích chung của xã hội, các cơ quan Nhà nước có thể kết hợp sử dụng biện pháp hành chính để duy trì chính sách. Những hoạt động đồng bộ trên đây sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì chính sách trong đời sống xã hội.

* Điều chỉnh chính sách

Chính sách được điều chỉnhbởi chủ thể có thẩm quyền để chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu phát triển, yêu cầu quản lý và tình hình thực tế.Chủ thể nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh bổ sung chính sách. Tuy nhiên trên thực tế việc điều chỉnh chính sách rất linh hoạt, miễn là không làm cho chính sách thay đổi mục tiêu, chỉ tiêu đạt được. Cần phải tuân thủ một nguyên tắc khi điều chỉnh, bổ sung chính sách là: Điều chỉnh các biển pháp, giải pháp để chính sách tiếp tục tồn tại và thực hiện tốt hơn mục tiêu, hoặc bổ sung, hoàn chỉnh mục tiêu theo yêu cầu thực tế; chứ không cho phép điều chỉnh mà làm thay đổi mục tiêu – nghĩa là làm thay đổi chính sách, thì coi như chính sách đó bị thất bại.

* Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Đều kiện về thực hiện chính sách của mỗi địa, mỗi vùng không giống nhau, cũng như khả năng, trình độ tổ chức thực hiện chính sách của các chủ thể không đồng đều, do vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách. Kiểm tra là biện pháp chủ yếu để chủ thể thực hiện chính sách và đối tượng thực thi chính sách tập trung thực hiện các mục tiêu chính sách; đồng thời, chú ý những nội dung ưu tiên trong quá trình thực thi chính sách. Căn cứ kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đã được phê duyệt các tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện hoạt động kiểm tra có hiệu quả. Bên cạnh đó kiểm tra cũng để kịp thời bổ sung, hoàn thiện chính sách, giúp cho việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách.

*Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Tổng kết, đánh giá là quá trình xem xét, đánh giá, thống kê, kết luận về toàn bộ quy trình thực hiện chính sách của các đối tượng thực thi chính sách.Được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở.Qua đánh giá để rút kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách, đồng thời tìm ra những giải pháp khắc phục những hạn chế trong quá trình triển khai, thực hiện, đề xuất điều chỉnh những nội dung không phù hợp với yêu cầu phát triển, không phù hợp với thực tế xã hội. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các chủ thể thực hiện chính sách. Tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện chính sách là thước đo đánh giá kết quả thực thi của các đối tượng về khả năng, tinh thần hưởng ứng với mục tiêu chính sách và ý thức chấp hành những qui định về cơ chế, biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu chính sách trong từng điều kiện về không gian và thời gian.

    1. 1.2. Chủ thể vàchu trình thực hiện chính sách phát triển du lịch ở nước ta hiện nay

1.2.1. Các chủ thể tham gia thực hiện chính sách phát triển du lịch.

– Quốc hội: Xem xét các dự án chính sách phát triển du lịch mà Chính phủ trình, triển khai hiện thực hóa thành Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội – cơ quan thường trực của Quốc hội.

– Chính phủ: Ban hành chính sách và tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch ở cấp Trung ương. Chính phủ ban hành Nghị định cụ thể hóa Luật của Quốc hội.

– Bộ, cơ quan ngang Bộ: Là cơ quan thực thuộc của Chính phủ, được phân công, phụ trách, chịu trách nhiệm thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh cụ thể hóa các chính sách do Quốc hội và Chính phủ ban hành, triên khai có liên quan đến phát triển du lịch.

– Hội đồng nhân dân các cấp: cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, với trách nhiệm, quyền hạn xem xét các kế hoạch, chương trình chính sách trong đó có chính sách phát triển du lịch mà Ủy ban nhân dân cùng cấp trình.

– Ủy ban nhân dân các cấp: là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, với vị trí, chức năng, nhiệm vụ Ủy ban nhân dân các cấp ban hành chính sách và tổ chức thực hiện chính sách phát triển du lịch ở địa phương. Ủy ban nhân dân ban hành Chương trình, Đề án, kế hoạch cụ thể hóa Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp mình.

– Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp: tham mưu cho Ủy ban nhân dân các cấp để thực hiệncác đề án, chương trình, kế hoạch phát triển du lịch của UBND giao.

– Chủ thể tham gia phối hợp: Là các tổ chức chính trị – xã hội, Các hiệp hội nghề nghiệp – xã hội du lịch,Hiệp hội Du lịch Việt Nam tham gia vận động nhân dân tham gia vào thực hiện chính sách phát triển du lịch và thực hiện chính sách phát triển du lịch.

1.2.2. Chu trình thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam

* Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch:

– Kế hoạch nội dung tổ chức, điều hành gồm những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp thực hiện chính sách, nhân sự tham gia, cùng với đó là xác định cơ chế phối hợp, giữa các cơ quan, các cấp, trong thực thi chính sách phát triển du lịch.

– Kế hoạch nguồn vật lực gồm dự kiến về trang thiết bị kỹ thuật, các nguồn lực tài chính, kiến trúc,cơ sở vật chất, các vật tư… cho việc thực hiện chính sách phát triển du lịch.

– Kế hoạch thời gian dự kiến về thời gian tiến hành các bước. Mỗi bước đều phải được xác định thời và hoàn thành mục tiêu đề ra từng bước.

– Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc là những dự kiến về hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.

*Tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển du lịch.

Sau kế hoạch triển khai thực hiện chính sách, các cơ quan nhà nước tổ chức tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách một cách tích cực.Giúp cho cán bộ, công chức, viên chức, đối tượng thực hiện chính sách nhận thức được rõ ràng, đầy đủ ý nghĩa, tính chất, nội dung chính sách đối với đời sống xã hội và con người.

*Phân công, tổ chức phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch.

Để chính sách phát triển du lịch được triển khai vào thực tế cần có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan, các cấp chính quyền địa phương. Cụ thể ở là Quốc hội với Chính phủ; giữa Chính phủ với chính quyền địa phương cấp tỉnh;giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Tổng cục Du lịch) với các Bộ, cơ quan ngang bộ khác; giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (hay Sở Du lịch) các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giữa Ủy ban nhân dân các cấp; giữa Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch với các cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện…

* Duy trì chính sách phát triển du lịch:

Phải có sự quyết tâm chung từ các chủ thể thực hiện chính sách thì chính sách mới có thể được duy trì thực hiện. Vì vậy, nếu chính sách phát triển du lịch gặp khó khăn, vướng mắc thì các chủ thể ban hành và thực hiện chính sách phải có những công cụ, phương thức, giải pháp cải thiện nhằm giữ ổn định môi trường, ổn định đối tượng và các điều kiện khác để cho việc thực hiện chính sách được tiếp tục triển khai. Thực tế có nhiều chính sách ban hành đúng nhưng trong quá trình thực hiện, duy trì và phát triển chính sách đưa ra không đúng thì hiệu quả thấp…

* Điều chỉnh, bổ sung chính sách phát triển du lịch:

Trong quá trình thực hiện chính sách, việc điều chỉnh chính sách nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển và điều kiện thực tế của xã hội, điều chỉnh những tình huống phát sinh không lường trước được như thiên tai, khủng hoảng kinh tế, xu hướng của thế giới, khu vực… thì chính sách phát triển du lịch cần được điều chỉnh. Việc điều chỉnh, bổ sung chính sách là của cơ quan ban hành chính sách, nhưng trên thực tếdiễn ra ở Việt Nam hiện nay thi điều chỉnh chính sách phát triển du lịch rất linh hoạt nhưng không làm thay đổi mục tiêu cần đạt đến của chính sách.

* Kiểm tra, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển du lịch:

Do nhiều yếu tố khác nhau như: điều kiện về chính trị, văn hóa, xã hội,kinh tế, phong tục tập quán; trình độ, nghiệp vụ, năng lực chuyên môn, của cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước không đồng đều, môi trương thực hiện chính sách… ở mỗi địa phương, đơn vị, khu vực không giống nhau nên trong quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức kiểm tra, theo dõi, đôn đốc để qua đó, các cá nhân,cơ quan có trách nhiệm hơn trong nhiệm vụ.

* Tổng kết rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách phát triển du lịch.

Tổng kết là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình thực thi chính sách theo chức năng, nhiệm vụ của mình được giao từ Tung ương đến địa phương. Ngoài ra, vai trò của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp,… cũng cần được tham gia. Trên cơ sở các mục tiêu, nhiệm vụ các chủ thể cơ quan nhà nước, các địa phương tổ chức tổng kết, đánh giánhững kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân tác động đến thực hiện chính sách phát triển du lịch để có giải pháp thực hiện tốt hơn trong thời gian đến. Ngoài ra,còn đánh giá các đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và giản tiếp từ chính sách.

    1. 1.3. Yếu tố tác động đến thực hiện chính sách phát triển du lịch Việt Nam hiện nay

Quá trình tổ chức thực thi chính sách phát triển du lịch diễn ra trong thời gian dài và có liên quan đến nhiều tổ chức cá nhân, vì thế kết quả tổ chức thực thi chính sách cũng sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Nắm chắc được các yếu tố tác động, người chỉ đạo điều hành có thể thúc đẩy những yếu tố tác động tích cực, ngăn chặn, hạn chế các yếu tố tác động tiêu cực đến việc tổ chức thực thi chính sách phát triển du lịch. Đồng thời có thể tạo lập môi trường thuận lợi cho các yếu tố đó vận động phù hợp với yêu cầu định hướng.Có thể phân loại yếu tố tác động đến thực hiện chính sách là chủ quan và khác quan. Chủ quan là yếu tố tác động từ bên ngoài độc lập với ý muốn chủ thể quản lý, ít tạo ra những biến động bất thường, do đó không gây được sự chú ý của các nhà quản lý, nhưng tác động của chúng đến quá trình thực thi chính sách lại rất lớn vì cơ chế tác động giữa chúng với các vấn đề chính sách được hình thành trên cơ sở quy luật. Đối với các yếu tố khách quan từ bên ngoài, chủ thể ban hành và thực hiện chính sách không thể điều chỉnh tính khách quan của nó mà tìm giải pháp điều chỉnh các phương thức hoạt động quản lý, điều hành, hối hợp cho phù hợp với quy luật vận động trong điều kiện phù hợp với kinh tế – xã hội, không gian, thời gian. Các yếu tố liên quan đến chủ thể trong quá trình tổ chức thực thi chính sách như: cán bộ, công chức, cơ quan hành chính nhà nước, người dân, doanh nghiệp… có ý nghĩa quan trọng chủ động chi phối toàn bộ quá trình và được coi như là yếu tố chủ quan ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thực hiện chính sách phát triển du lịch như sau:

1.3.1. Bản thân của chính sách phát triển du lịch:

Mỗi chính sách phát triển du lịch có tác động trực tiếp đến giải quyết vấn đề bằng chính sách và tổ chức thực thi chính sách phụ thuộc vào tính chất và vấn đề của chính sách phát triển du lịch ở một hoặc nhiều lĩnh vực nào đó. Nếu chính sách phát triển du lịch áp dung trong phạm vi hẹp, liên quan đến ít đối tượng thì công tác tổ chức thực hiện chính sách sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi hơn so với các chính sách có phạm vi rộng, đối tượng tác động lớn. Tính cấp bách, tính xã hội của vấn đề chính sách tác động rất lớn đến kết quả trong quá trình tổ chức thực thi chính sách.

Hiện nay, ở Việt Nam văn bản chính sách về phát triển du lịch và quản lý du lịch là khá toàn diện và đầy đủ, điều chỉnh mọi hoạt động của hoạt động du lịch từ trung ương đến các địa phương đều có những cơ chế, chính sách phát triển và quản lý du lịch vì vậy bản thân của mỗi chính sách phát triển du lịch phải có những giải pháp thực hiện chính sách để phát huy hiệu quả chính sách góp phần phát triển du lịch bền vững.

1.3.2. Môi trường thực thi chính sách phát triển du lịch:

Yếu tố môi trường thực thi chính sách phát triển du lịch luôn chứa đựng toàn bộ các thành phần vật chất và phi vật chất tham gia thực hiện chính sách như các nhóm lợi ích có được từ thực hiện chính sách phát triển du lịch trong xã hội; các điều kiện về vật chất kỹ thuật trong xã hội; điều kiện phát triển… Tuy nhiên, cũng xác định môi trường là yếu tố liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh chính trị… Chính vì vậy, điều kiện tự nhiên và tài nguyên du lịch được xem là yếu tố đầu tiên cho phát triển du lịch, hay nói cách khác, dựa vào các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, người làm công tác quản lý du lịch mới có thể dựa vào đó để đưa ra được các quy hoạch, định hướng phát triển du lịch một cách chính xác, mang tính lâu dài, để từ đó đưa ra các quyết định mang tính chất định hướng tới quản lý du lịch.

Tình hình phát triển kinh tế – xã hội, an ninh chính trị của địa phương, đơn vị, vùng, lãnh thổ là nhân tố quan trọng tác động tới sự phát triển bền vững của du lịch và quản lý nhà nước về lĩnh vực du lịch. Khi một địa phương ổn định, chính sách phát triển du lịch phù hợp, linh hoạt, môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng sẽ là điều kiện tốt cho các nhà đầu tư, tổ chức, doanh nghiệp, cũng như khách du lịch tham gia vào các hoạt động du lịch, từ đó, thực hiện chính sách du lịch diễn ra một cách thuận lợi.

1.3.3. Chủ thể thực hiện chính sách phát triển du lịch:

Chủ thể bên trong thực hiện chính sách phát triển du lịch được thực hiện và quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Thực hiện chính sách theo lãnh thổ (từng địa phương) được quản lý bởi cấp cao nhất là Ủy Ban nhân dân tỉnh tiếp theo là Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch (hoặc Sở VHTTDL); Ủy Ban nhân dân các quận, huyện, thị xã, thành phố gồm các phòng, ban cụ thể thực hiện các nhiệm vụ, chức năng được quy định rõ ràng. Thực hiện chính sách theo ngành, cơ quan của tỉnh chịu sự quản lý và chi phối bởi Tổng Cục du lịch, Bộ Văn hóa – Thể thao -Du lịch. Để công tác thực hiện chính sách phát triển du lịch phát huy được hiệu quả cao nhất thì yếu tố chủ thể bên trong rất quan trọng cần có cơ cấu tổ chức và bộ máy phù hợp, phân cấp chức năng nhiệm vụ cụ thể, phối hợp đồng bộ trong quá trình thực hiên. Vì vậy số lượng và chất lượng nguồn nhân lực có yếu tố quyết định đến quá trình thực thi chính sách. Năng lực thực thi của bộ máy quản lý nhà nước là thước đo cho quá trình thực thi chính sách. Đây là yêu cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ công chức để thực hiện đưa chính sách vào thực tế cuộc sống.

Chủ thể bên ngoài là người dân và doanh nghiệp tham gia thực hiện chính sách phát triển du lịch.Cần tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của người dân vì đây là yếu tố có vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định sự thành bại của một chính sách. Mục tiêu chính sách không thể chỉ do cơ quan nhà nước, mà có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Trên thực tế cơ quan nhà nước chỉ đạo, điều hành công tác tổ chức thực thi chính sách, còn các tầng lớp nhân dân là những đối tượng thực hiện chính sách.Muốn chính sách được triển khai thực hiện tốt vào đời sống xã hội cần có sự đồng tình ủng hộ của người dân.Bên cạnh đó, doanh nghiệp du lịch có yếu tố quan trọng để đưa chính sách vào thực tế, vậy liên kết giữa các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước sẽ tạo nên môi trường, cơ chế kinh doanh thuận lợi, công bằng. Chính quyền các cấp phải là “cầu nối” gắn kết các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch với thị trường liên vùng, khu vực và trên thế giới đồng thời, chính quyền các cấp phải xây dựng được các mối quan hệ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm giới thiệu cơ chế, chính sách của từng địa phương, đất nước nhằm thu hút đầu tư xây dựng kết cấu, cơ sở hạ tầng – cơ sở vật chất du lịch, quảng bá du lịch thông qua việc tổ chức các cuộc hội thảo, các đoàn tham quan kết hợp trao đổi kinh nghiệm với các địa phương, trong và ngoài nước

    1. 1.4. Kinh nghiệm thực hiện chính sách phát triển du lịch ở các địa phương tỉnh Quảng Nam

1.4.1. Kinh nghiệm thực hiện trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Thời gian qua, du lịch Quảng Nam đã có bước phát triển vượt bậc với những con số ấn tượng. Nếu như năm 2007, lượng khách đến Quảng Nam khoảng 2 triệu lượt, thì 10 năm sau, con số này đã lên tới 5 triệu 350 ngàn lượt, tăng gấp 2,54 lần. Từ 19 doanh nghiệp lữ hành, tổ chức các tour, tuyến du lịch vào năm 2007, đến nay con số này đã là 91, tăng bình quân trên 29%/ năm. Sự tăng trưởng còn ở con số ước tính thu nhập mà ngành Du lịch xứ Quảng đã mang lại cho xã hội, với mức tăng gấp 5,7 lần so với thời điểm 10 năm trước, tốc độ tăng bình quân giai đoạn từ 2007 đến 2017 đạt trên 19%/ năm. Các điểm đến như Hội An, Mỹ Sơn hay Cù Lao Chàm thu hút lượng lớn khách du lịch, các sản phẩm du lịch lân cận các di sản này đã được xây dựng trên cơ sở phát triển các làng nghề gắn với du lịch, góp phần giảm áp lực đáng kể cho các điểm đến vào mùa cao điểm. Hạ tầng phục vụ du lịch được chú trọng, tỉnh Quảng Nam đã đầu tư một số tuyến đường đến các khu, điểm du lịch từ nguồn hỗ trợ vốn hạ tầng du lịch của Chính phủ, nguồn trái phiếu Chính phủ, nguồn vốn địa phương. Các công trình trọng điểm như: Quần thể Tượng đài Mẹ Việt Nam Anh hùng, cầu Cửa Đại và tuyến đường ven biển nối Đà Nẵng – Hội An với vùng Đông Quảng Nam là cơ hội lớn để thu hút đầu tư, thúc đẩy phát triển khu nghỉ dưỡng cao cấp, vui chơi giải trí dọc ven biển Duy Xuyên, Thăng Bình, Tam Kỳ, Núi Thành. Những dự án du lịch chất lượng cao đã và đang được đầu tư. Vinpearl Nam Hội An, dự án HOIANA quy mô đầu tư 4 tỷ USD đã bắt đầu định hình cho vùng Đông Nam Quảng Nam một diện mạo mới. Du lịch Quảng Nam luôn tạo ra sự hấp dẫn thu hút du khách lưu trú và tham quan. Đạt được những kết quả quan trọng đó tỉnh Quảng Nam đã thực hiện tốt các chính sách phát triển du lịch của trung ương, đồng thời đã ban hành nhiều chính sách phát huy tìm năng, thế mạnh của địa phương khuyến kích du lịch phát triển bền vững.Tỉnh Quảng Nam xác định pháttriểndulịchthànhngànhkinhtếmũinhọn; xây dựng QuảngNamtrởthànhmộttrongnhữngtrungtâmdulịchlớncủacảnước.Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 27/12/2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam về phát triển du lịch Quảng Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2025.Nghị quyết về phát triển du lịch Quảng Nam đến 2015, tầm nhìn 2020; Nghị quyết về quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Quảng Nam đến năm 2015, định hướng 2020.Quyết định UBND tỉnh về ban hành quy chế chính sách hỗ trợ phát triển du lịch miền núi và hải đảo tỉnh Quảng Nam đến 2020.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\NGUYEN HUNG ANH\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *