Thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn

Thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn

Thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đã có biết bao thế hệ anh hùng hi sinh, cống hiến hết sức lực, tinh thần, trí tuệ và tài sản để giành lại tự do, độc lập cho dân tộc. Trong số họ, có biết bao người đã ngã xuống, những người còn lại may mắn được trở về với quê hương nhưng chịu trên mình những thương tật, căn bệnh quái ác, ký ức đau thương không thể xoá mờ. Kế thừa và phát huy đạo lý, truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta từ ngàn đời nay, trong suốt quá trình lịch sử cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm, ưu ái đặc biệt đối với những thương, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng thông qua việc ban hành và thực hiện chính sách ưu đãi. Thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng được xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng bên cạnh việc phát triển kinh tế, giữ vững an ninh – quốc phòng,… Pháp lệnh và các quy định về chế độ chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng luôn được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn, tình hình đất nước ở mỗi thời kỳ. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương khoá XI tại phần định hướng chính sách xã hội năm 2012 – 2020 nêu rõ quan điểm: “Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và đảm bảo an sinh xã hội là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Trong suốt mấy chục năm qua, công tác thực hiện chính sách đối với NCCVCM luôn được các địa phương trên cả nước triển khai rộng rãi, nhận được sự đồng tình, hưởng ứng tích cực của nhân dân và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên thực tế vẫn còn tồn đọng hàng nghìn hồ sơ chưa được giải quyết, xảy ra tình trạng khai man, giả mạo hồ sơ trục lợi chính sách dẫn đến bức xúc gay gắt từ phía nhân dân, một số chương trình, chính sách thực hiện ở địa phương chưa thực sự hiệu quả,… Đây là một vấn đề cấp thiết cần được giải quyết kịp thời, nhanh chóng.

Thành phố Đà Nẵng là một trong 5 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được lựa chọn triển khai thí điểm giải quyết hồ sơ NCCVCM tồn đọng và cũng là một trong những thành phố đi đầu trong việc thực hiện chính sách đối với NCCVCM.

Cùng với quận Ngũ Hành Sơn và quận Liên Chiểu, Sơn Trà là 1 trong 3 quận, huyện của thành phố Đà Nẵng có số đông NCCVCM sinh sống nhất. Với số lượng hơn 4000 NCCVCM đã đặt ra những khó khăn trong công tác quản lý, thực hiện chính sách NCCVCM đối với Đảng bộ, chính quyền quận Sơn Trà. Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, nỗ lực thực hiện của tất cả các cấp, ngành, đoàn thể và sự tham gia, hưởng ứng tích cực của các tổ chức, người dân sinh sống trên địa bàn, trong những năm qua, quận Sơn Trà đã triển khai thực hiện tốt chính sách của Trung ương, các chính sách bổ sung, hỗ trợ, đặc thù của thành phố (trợ cấp hằng tháng đối với người có công giúp đỡ cách mạng đang hưởng trợ cấp hằng tháng, thương binh, người hưởng chính sách như thương binh có tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% đang hưởng trợ cấp hằng tháng thuộc hộ cận nghèo trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; quy định về trợ cấp thường xuyên, đột xuất đối với người có công với cách mạng mắc bệnh hiểm nghèo có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng;…), các chương trình “5 không” không có cơ hội đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma tuý, không có giết người cướp của “3 có” bao gồm có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn hoá văn minh đô thị “4 an” bao gồm: An ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm, an sinh xã hội. Những thành tích đáng ghi nhận trong thực hiện chính sách NCCVCM của quận Sơn Trà đã góp phần vào thành tựu to lớn trong công tác thực hiện chính sách người có công, an sinh xã hội của thành phố Đà Nẵng. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, do một số nguyên nhân, tổ chức thực hiện chính sách NCCVCM trên địa bàn quận Sơn Trà còn gặp phải những vướng mắc, hạn chế như: Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách chưa được thực hiện rộng rãi trong Nhân dân. Nhận thức của một số người dân về chính sách chưa được đầy đủ, nên còn nhiều thắc mắc về chính sách. Một số văn bản hướng dẫn chậm, thiếu đồng bộ hoặc chưa rõ ràng. Thủ tục xét, công nhận còn rườm rà, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho các đối tượng. Việc triển khai thực hiện nhiều lúc còn chủ quan, thiếu chặt chẽ trong quá trình xét duyệt, thẩm định nên việc xác định các đối tượng được hưởng chế độ chính sách còn chưa đúng… những tồn tại hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, nếu không có những giải pháp kịp thời để khắc phục, hoàn thiện, sẽ ảnh hưởng đến chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Nhằm đề xuất biện pháp tiếp cận những cơ sở chính sách mới trong công tác thực hiện chính sách với người có công, nâng cao chất lượng hiệu quả đồng thời hạn chế những khuyết điểm.

Xuất phát từ những lý do trên, nên tác giả quyết định lấy tên đề tài: “Thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng; phân tích đánh giá thực trạng thực hiện chính sách chính sách đối với người có công với cách mạng tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng; từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, làm rõ cơ sở lý luận về chính sách công và chính sách đối với người có công với cách mạng, về việc thực hiện chính sách NCCVCM.

– Thứ hai, phân tích thực trạng thực hiện chính sách, quy trình thực hiện chính sách công trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (trong đó tập trung tìm hiểu việc thực hiện một số chương trình, kế hoạch lớn đối với NCCVCM mà UBND quận Sơn Trà triển khai thực hiện trên địa bàn Quận).

Thứ ba, đánh giá, đưa ra đề xuất, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách NCCVCM trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Quá trình thực hiện chính sách người có công với cách mạng

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: Trong giới hạn của luận văn chỉ tập trung vào giai đoạn tổ chức thực hiện chính sách trợ cấp thường xuyên, chính sách nhà ở, chính sách chăm sóc sức khoẻ, mai táng… đối với người có công với cách mạng và đánh giá kết quả thực thi.

– Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 1/2019.

– Không gian: Quận Sơn Trà – Thành phố Đà Nẵng

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận được luận văn sử dụng là phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm chỉ đạo Đảng và Nhà nước ta để nghiên cứu về thực hiện chính sách người có công với cách mạng.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích tài liệu có sẵn: là những tài liệu thu thập được từ những kế hoạch, báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các tài liệu khác có liên quan đến đề tài) thông qua việc phân tích – tổng hợp, xử lý số liệu, thống kê – so sánh để xây dựng cơ sở lý luận cho Chương 1, một số nội dung ở Chương 2 và xây dựng nhóm giải pháp tại Chương 3.

Phương pháp khảo sát thực địa kết hợp phỏng vấn sâu: tiến hành khảo sát tại Phòng Lao động – Thương binh & xã hội quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵ

ng, thông qua đó tìm hiểu việc quản lý đối tượng NCCVCM, thực trạng việc thực hiện chính sách NCCVCM trên địa bàn quận. Kết hợp phỏng vấn Trưởng phòng, Chuyên viên phụ trách mảng người có công; phỏng vấn sâu các cá nhân thuộc diện chính sách, gia đình có thân nhân hưởng chế độ chính sách người có công,… để nắm bắt rõ, hiểu sâu hơn từng bước trong việc tổ chức thực hiện chính sách, đặc điểm tâm lý đối tượng người có công với cách mạng và một số khó khăn, vướng mắc khi triển khai thực hiện chính sách NCCVCM trên địa bàn quận.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận liên quan đến các vấn đề về chính sách, chính sách công, chính sách đối với NCCVCM ở nước ta hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách người có công với cách mạng; nhằm tiếp tục duy trì, phát huy những ưu điểm, cách làm mới, hay mang lại hiệu quả thiết thực; đồng thời khắc phục những tồn tại, hạn chế, đề ra các giải pháp để tổ chức thực hiện tốt hơn chính sách đối với người có công trên địa bàn quận Sơn Trà thành phố Đà Nẵng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Chương 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng trên địa bàn quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG

1.1. Người có công

1.1.1. Khái niệm

Ở mỗi thời kỳ, chế độ khác nhau thì chính sách người có công cũng khác nhau. Nhưng suy cho cùng thì chính sách ưu đãi đối với người có công là sự ghi nhận những công lao của họ cho đất nước, là những chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn đến những người đã hy sinh, những người đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.

Trước đây, tại Thông tư số 16-TBXH ngày 11/10/1977 của Bộ Thương binh Xã hội (nay là Bộ LĐ-TB&XH) về hướng dẫn thi hành Quyết định số 208-CP ngày 20/7/1977 của Hội đồng Chính phủ về chế độ đãi ngộ đối với những người và gia đình có công với cách mạng có quy định:

“Những người và gia đình NCCVCM là những người trực tiếp giúp đỡ cách mạng khi chưa giành được chính quyền, hoặc trong vùng bị địch kìm kẹp, khủng bố gắt gao; sự giúp đỡ này nếu bị lộ sẽ gây nguy hiểm cho người giúp đỡ cách mạng về tính mạng, tài sản như bị địch bắt bớ, tù đày, sát hại, triệt phá nhà cửa,v.v…

NCCVCM được hưởng chế độ đãi ngộ là người trực tiếp giúp đỡ cách mạng, được đứng tên trong quyết định khen thưởng.

– Tại Điều 1, Pháp lệnh 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của lệnh ưu đãi NCCVCM số 35/2007/PL-UBTVQH11 quy định NCCVCM bao gồm:

+ Người hoạt động cách mạng từ trước ngày 1/1/1945

+ Người hoạt động cách mạng từ ngày 1/1/1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

+ Liệt sĩ

+ Bà mẹ Việt Nam anh hùng

+ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân

+ Anh hùng Lao động trong thời kỳ kháng chiến

+ Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh

+ Bệnh binh

+ Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học

+ Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt, tù đày

+ Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế

+ Người có công giúp đỡ cách mạng

(Khái niệm cụ thể của từng loại đối tượng kể trên được định nghĩa rõ ràng, cụ thể tại Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11)

Thuật ngữ “người có công” theo một số công trình đã nêu khái niệm “người có công” theo 2 nghĩa sau:

Theo nghĩa rộng: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất nước. Họ là người có những thành tích đóng góp hoặc những cống hiến xuất sắc phục vụ vì lợi ích của đất nước, của dân tộc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật”. Ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản của người có công, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích dân tộc. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước [30, tr.11-12].

Theo nghĩa hẹp: “Người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc trong thời kỳ trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật”. Ở khái niệm này, người có công bao gồm người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời mình hoặc một phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp cho sự nghiệp cách mạng [30, tr.15].

Tóm lại, có thể hiểu một cách đơn giản: NCCVCM là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác,… đã đóng góp công lao hoặc hy sinh tính mạng, hi sinh một phần thân thể trong thời kỳ cách mạng tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế,…được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận.

1.1.2. Đặc điểm, nhu cầu người có công với cách mạng

– Đặc điểm

Trong suốt chiều dài những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước, NCCVCM là những người hầu hết đều trải qua chiến tranh, họ luôn nhớ về những người cùng hoạt động cách mạng, những đồng đội đã anh dũng hy sinh; có ý thức tự hào về quá khứ cống hiến của mình cho cách mạng, có tinh thần trách nhiệm giữ gìn những phẩm chất và truyền thống cách mạng; phần lớn họ tuổi đã cao, sức khỏe bị suy giảm nhiều do bị thương tật, bệnh tật; họ có nhiều công lao, đóng góp cho cách mạng, cho đất nước.

Khi hòa bình lập lại, NCCVCM tiếp tục có nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, họ luôn trăn trở trước vận mệnh của đất nước; họ tình nguyện tham gia vào các hoạt động đi tìm đồng đội, các hoạt động xã hội ở địa phương; là tấm gương cho gia đình, dòng họ, con cháu noi theo; họ nhạy cảm với các chính sách, chế độ của Đảng và Nhà nước. Có thể nói rằng họ là những người có uy tín, là lực lượng trụ cột có tiếng nói quan trọng trong cộng đồng dân cư, trong đời sống xã hội để vận động nhân dân hưởng ứng thực hiện các chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, do sống trong môi trường, điều kiện kinh tế thị trường, đối với những người có hoàn cảnh khó khăn, đôi lúc họ cũng có tâm trạng mặc cảm, cảm thấy mình bị thiệt thòi, thua thiệt, mất mát hơn so với những người xung quanh.

Đối với các thương, bệnh binh thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Hiện nay số còn sống ít, tuổi cao, ít đòi hỏi quyền lợi cá nhân; nhưng đời sống tinh thần, nhu cầu về thông tin thời sự lại khá cao, họ thích tìm hiểu và tham gia bình luận tình hình thời sự trong nước và thế giới; muốn thường xuyên gặp gỡ bạn bè để trao đổi thông tin và ôn lại kỷ niệm, quá khứ hào hùng của dân tộc.

Đối với thân nhân liệt sỹ và người có công với cách mạng: sự mất mát người thân là sự đau đớn lớn nhất đối với những người cha, người mẹ, người vợ, người con liệt sỹ mà không gì có thể bù đắp được. Họ rất muốn được sự quan tâm chia sẻ, động viên nhất là vào các dịp ngày lễ, ngày tết bởi họ cũng mong muốn có được sự đầm ấm hạnh phúc trong những ngày này. Nhìn chung người có công có những đặc điểm khác nhau đòi hỏi công tác chăm sóc cũng khác nhau và phải tìm hiểu kỹ đặc điểm, nhu cầu của họ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để đưa ra những giải pháp chăm sóc, hỗ trợ phù hợp, đem lại hiệu quả cao, nhằm bù đắp phần nào những hy sinh cống hiến to lớn của người có công với cách mạng.

– Nhu cầu

Ở mỗi thời đại, nhu cầu của mỗi con người rất khác nhau. Nhu cầu của con người thường rất đa dạng, phong phú, tùy thuộc vào hoàn cảnh sống, nhận thức, văn hóa, vị trí xã hội, điều kiện kinh tế của mỗi người. Để tồn tại, con người cần phải được đáp ứng những nhu cầu cơ bản thiết yếu nhất cho sự sống như ăn mặc, nhà ở, ngủ nghỉ, y tế… Để phát triển, con người cần những nhu cầu cao hơn như sự an toàn, được học hành, được tôn trọng, yêu thương… Sự vận động và phát triển của xã hội loài người cuối cùng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, càng nhiều của con người. Đồng thời việc đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, càng nhiều ấy cũng chính là động cơ thúc đẩy con người tham gia vào các hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội.

Để làm rõ nhu cầu của NCCVCM, tác giả áp dụng thuyết nhu cầu của A.Maslow để nghiên cứu. Từ đó xem xét nhu cầu nào đã được đáp ứng, sự đảm bảo, đảm bảo ở mức độ nào, tính bền vững ra sao; nhu cầu nào chưa được đáp ứng; NCCVCM muốn được đáp ứng nhu cầu nào trước, nhu cầu nào sau hay theo trình tự 5 nhu cầu từ thấp tới cao của tác giả A.Maslow.

Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, hiện nay NCCVCM có những nhu cầu sau:

– Đối với nhu cầu sống: Trải qua nhiều năm tháng tham gia chiến đấu, phục vụ kháng chiến, công tác nơi chiến trường gian khổ trở về với cuộc sống đời thường, NCCVCM gặp nhiều khó khăn trong việc bắt nhịp với cuộc sống, nhất là ở những khu vực đô thị có cuộc sống thay đổi nhanh chóng. Vì số đông NCCVCM tuổi đã cao, sức khỏe bị suy giảm do thương tật, bệnh tật, di chứng của chiến tranh, thiếu vốn, trình độ tay nghề thấp hoặc không có nên cuộc sống còn nhiều khó khăn; mức sống của NCCVCM chưa thể ngang bằng với mức sống bình quân của người dân nơi cứ trú; cuộc sống của họ và nhiều gia đình phụ thuộc vào nguồn trợ cấp hằng tháng; nhiều gia đình chưa có nhà ở ổn định…

– Đối với nhu cầu an toàn: NCCVCM đã trải qua những phút giây sinh tử, lằn ranh giữa sự sống và cái chết, sự tra tấn của quân thù… nên họ hiểu được sự tàn khốc, mất mát, đau thương do chiến tranh gây ra. Vì vậy họ rất quý trọng sự sống; muốn được sống, nghỉ ngơi, sinh hoạt, làm việc trong sự an bình, độc lập; muốn được xã hội quan tâm, gia đình chăm sóc, muốn được tiếp cận với các dịch vụ y tế để khám chữa bệnh nhằm đảm bảo sức khỏe.

– Đối với nhu cầu thuộc về một nhóm nào đó: NCCVCM hiện nay tuổi đã cao nên rất muốn được quan tâm, chia sẻ, sự đồng cảm nên rất muốn sinh hoạt với đồng đội để ôn lại kỷ niệm; muốn tham gia sinh hoạt trong Hội Người cao tuổi, Hội Cựu chiến binh, câu lạc bộ dưỡng sinh, hội hoa viên… để khuây khỏa tâm hồn và vơi đi ký ức buồn của chiến tranh cũng như sự khác biệt về ý thức thế hệ với các thành viên nhỏ tuổi trong gia đình.

– Đối với nhu cầu được tôn trọng: với phần lớn con người nói chung, NCCVCM nói riêng, đây là nhu cầu quan trọng. Bởi lẽ NCCVCM đã trải qua nhiều hy sinh, mất mát, đóng góp cho cách mạng, có nhiều công lao nên họ rất muốn được xã hội, cộng đồng, dòng họ, gia đình tôn vinh, quý trọng, xem họ là tấm gương để noi theo và công nhận những gì mà họ đóng góp, nhất là tuổi thanh xuân, công sức, sự hy sinh về xương máu để góp phần làm nên lịch sử dân tộc, xây dựng cuộc sống ngày nay.

– Đối với nhu cầu hoàn thiện: cũng như nhiều người khác, NCCVCM cũng có mong muốn hoàn thiện bản thân để khẳng định mình dù trong hoàn cảnh nào; họ rất muốn tiếp tục đóng góp trí tuệ, uy tín, sự ảnh hưởng, tiếng nói của mình để tham gia xây dựng địa phương, xây dựng Nhà nước… để góp phần xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

1.2. Chính sách người có công với cách mạng

1.2.1. Khái niệm

Chính sách đối với người có công là một bộ phận của hệ thống chính sách xã hội mà cụ thể là chính sách bảo đảm xã hội. Trong hệ thống chính sách an sinh xã hội ở nước ta, gồm có ưu đãi xã hội đối với những người có công lao đối với đất nước; bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các thành phần kinh tế; cứu trợ xã hội đối với những người không may bị rủi ro, khó khăn hoặc hiểm nghèo.

Chính sách NCCVCM là đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước căn cứ vào nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng dựa trên sự phát triển của kinh tế – xã hội, nhằm mục đích ghi nhận công lao đóng góp, sự hi sinh cao cả của những người có công, tạo mọi điều kiện, khả năng để bù đắp phần nào về đời sống vật chất và tinh thần đối với NCCVCM.

Chính sách người có công là phương tiện, công cụ quản lý có hiệu lực mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần trong lĩnh vực ưu đãi xã hội đối với người có công. Chính sách người có công được ban hành, thể hiện chính sách “Đền ơn đáp nghĩa”, là thực hiện nghĩa vụ công dân và công bằng xã hội, đây không phải là sự “đền bù”, bởi lẽ sự hy sinh của người có công là cao quý, vì đại nghĩa, bằng xương và máu, bằng tài sản và tính mạng thì không có gì có thể so sánh được, không có gì có thể đền bù được. Sự “Đền ơn đáp nghĩa” không chỉ là vật chất thuần túy mà còn là đạo lý, truyền thống nhân văn của dân tộc Việt Nam, là lòng kính trọng, biết ơn sâu sắc của nhiều thế hệ hôm nay và mai sau đối với người có công. Chính sách NCCVCM là chính sách đặc biệt thực hiện cho những đối tượng đặc biệt, thể hiện một cách rõ nét nhất đường lối của Đảng và Nhà nước. Chính sách có vai trò quan trọng, mang ý nghĩa chính trị, nhân văn sâu sắc; phản ánh sự quan tâm, ý thức của xã hội, Nhà nước, của cả cộng đồng, sự bày tỏ lòng biết ơn của các thế hệ sau đối với các thế hệ cha anh đi trước. Đây được xem là chính sách ưu tiên thực hiện trong suốt quá trình cách mạng của Đảng, Nhà nước ta.

Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 26/2005/PL-UBTVQH11 đã được sửa đổi bổ sung theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi NCCVCM số 35/2007/PL-UBTVQH11 quy định đối tượng được hưởng các chế độ ưu đãi đối với NCCVCM bao gồm NCCVCM và thân nhân của NCCVCM. Các chế độ ưu đãi đối với từng loại đối tượng được hưởng cũng được quy định cụ thể, rõ ràng trong Pháp lệnh ưu đãi đối với NCCVCM, cơ bản bao gồm các chế độ như: Trợ cấp hàng tháng, phụ cấp hàng tháng; Mai táng phí; Cấp phát bảo hiểm y tế; Hỗ trợ nhà ở; Điều dưỡng phục hồi sức khoẻ hằng năm; Cấp phương tiện trợ giúp, dụng cụ chỉnh hình cần thiết;…

1.2.2. Vai trò chính sách người có công với cách mạng

Thứ nhất, chính sách NCCVCM là công cụ thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước, phản ánh thái độ, định hướng của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề xã hội

Với tư cách là một công quyền, Nhà nước có hai chức năng cơ bản là chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Trong đó chức năng xã hội của Nhà nước là chức năng thực hiện quản lý chung vì sự tồn tại của xã hội, chăm lo những công việc chung của toàn xã hội và trong giới hạn có thể được nó phải thoả mãn một số nhu cầu của cộng đồng dân cư. Thực hiện chức năng này, cần thiết phải sử dụng những công cụ, phương pháp phù hợp, hiệu quả và chính sách chứa đựng những quy định, cơ chế mang tính quyền lực nhất định, buộc các chủ thể, đối tượng tuân thủ thực hiện theo được xem là một công cụ hữu hiệu, đảm bảo giải quyết các vấn đề phát sinh trong xã hội, thực hiện tốt chức năng xã hội của Nhà nước.

Hậu quả sau chiến tranh để lại là vô cùng to lớn, đất nước bị tàn phá nặng nề, vô số người đã hi sinh, ngã xuống, cống hiến sức lực, tài sản, trí tuệ,… đấu tranh giành giữ độc lập, tự do cho dân tộc; những người may mắn sống sót trở về nhưng mang trên mình nhiều thương tật, tổn thương nặng nề. Việc khắc phục hậu quả sau chiến tranh, kiến thiết xây dựng đất nước, bù đắp những thương tổn. mất mát, cải thiện đời sống nhân dân và đối tượng người có công là một vấn đề cấp bách chiến lược. Việc ban hành và thực hiện chính sách NCCVCM được xem là một tất yếu khách quan. Thông qua chính sách NCCVCM đã thể hiện truyền thống, đạo lý tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc, bản chất nhân đạo, nhân văn sâu sắc của Đảng, Nhà nước. Chính sách đã phản ảnh thái độ, định hướng của Đảng, Nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề liên quan đến NCCVCM – một trong những đối tượng đặc biệt cần quan tâm, chăm sóc.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, dẫn lời Thủ tướng Phạm Văn Đồng khái quát sâu sắc về quan điểm chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta đối với vấn đề có tầm chiến lược này như sau: “…phải đối đãi với những người, những gia đình liệt sĩ và thương binh cũng như là những người đã có cống hiến rất lớn, rất lớn đối với sự nghiệp cách mạng, đối với sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân; đó là một vấn đề rất quan trọng, một vấn đề chính trị, một vấn đề tư tưởng, một vấn đề tình cảm, một vấn đề xã hội, một trong những vấn đề lớn của nước ta, một vấn đề của tất cả chúng ta, một vấn đề lớn của Đảng ta, Nhà nước ta, của các tổ chức quần chúng, một vấn đề của các cơ quan có trách nhiệm ở Trung ương và của cơ quan có trách nhiệm ở địa phương, của tỉnh, của huyện, của xã. Một vấn đề mà không cho phép một người Việt Nam nào không quan tâm,…”[20]

Xuyên suốt thời kỳ cách mạng, đến nay, việc thực hiện tốt những chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công luôn được Đảng ta xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, luôn phải quan tâm và đảm bảo thực hiện. Không ngừng hoàn thiện, bổ sung, điều chỉnh những quy định, văn bản pháp luật phù hợp với với từng điều kiện, hoàn cảnh đất nước để đáp ứng được nhu cầu thiết yếu, cải thiện và nâng cao mức sống cho NCCVCM là một việc làm cần thiết.

Thứ hai, chính sách NCCVCM khắc phục sự phân hoá giàu nghèo – khuyết tật của nền kinh tế thị trường

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Kinh tế thị trường bên cạnh những ưu điểm, thì nó cũng chứa đựng những hạn chế, khuyết tật như sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải, ô nhiễm môi trường,…

NCCVCM là những người đã từng cống hiến, hi sinh, chịu nhiều thiệt thòi cho sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, do đó họ cần được quan tâm, tôn trọng và nhận được sự chăm sóc, chia sẻ, động viên từ phía cộng đồng. Đại bộ phận NCCVCM luôn ý thức và có tinh thần trách nhiệm giữ gìn phẩm chất, truyền thống cách mạng, gương mẫu chấp hành các quy định trong đời sống và công tác. Rất nhiều người trở về sau chiến tranh với thương tích, bệnh tật rất nặng nhưng họ vẫn cố gắng vươn lên, tìm kiếm việc làm, phát triển kinh tế, tiếp tục cống hiến cho xã hội trong thời bình. Tuy nhiên đa phần NCCVCM đều già yếu, thương tật, không đủ khả năng lao động, nhiều hộ gia đình thuộc diện chính sách đặc biệt khó khăn mức sống dưới mức trung bình, không có khả năng chi trả các chi phí sinh hoạt, điều kiện vật chất tối thiểu cho cuộc sống,… Chính sách NCCVCM được ban hành nhằm mục đích khắc phục sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội, thực hiện ưu đãi cho đối tượng là NCCVCM trong giải quyết việc làm, trợ cấp, chế độ bảo hiểm y tế, hỗ trợ thoát nghèo,… để giúp đỡ người NCCVCM nâng cao được chất lượng cuộc sống, có mức sống bằng mức trung bình hoặc cao hơn so với các xã hội đảm bảo thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Thứ ba, chính sách NCCVCM đóng vai trò là cầu nối, tạo cơ sở phối hợp thực hiện giữa cơ quan nhà nước và các tổ chức, người dân trong xã hội cùng tham gia chăm sóc NCCVCM

Chăm sóc thương binh, liệt sĩ và người có công là bổn phận, trách nhiệm của Đảng Nhà nước và toàn thể xã hội. Từ khâu hoạch định chính sách đã đòi hỏi sự tham gia của nhiều chủ thể, cá nhân trong xã hội. Khi triển khai chính sách NCCVCM trên phạm vi rộng thì cần có sự tham gia của nhiều cơ quan thuộc các cấp, các ngành khác nhau, nhiều tổ chức, cá nhân để đảm bảo cho việc thực hiện chính sách được hiệu quả. Dựa trên những quy định chung của Pháp luật về chính sách NCCVCM và thông qua quá trình thực hiện chính sách, sẽ thúc đẩy được sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị xã hội. Mục tiêu của chính sách được hiện thức hoá bằng các chương trình, chế độ cụ thể, nêu bật lên tinh thần, đạo lý, truyền thống nhân đạo của dân tộc, qua đó lôi kéo được quần chúng nhân dân cùng tích cực tham gia vào thực hiện chính sách NCCVCM đồng bộ, hiệu quả. Chính sách NCCVCM là cầu nối, sợi dây gắn kết giữa Nhà nước và nhân dân trong việc chung tay thực hiện chăm sóc NCCVCM, đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng đất nước công bằng, tiến bộ, văn minh; đảm bảo trách nhiệm của công dân trong việc thực nhiệm nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội theo quy định của Hiến pháp.

1.3. Thực hiện chính sách người có công với cách mạng

1.3.1. Khái niệm thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Thực hiện chính sách NCCVCM là toàn bộ quá trình đưa chính sách vào đời sống xã hội theo một quy trình thủ tục chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề ưu đãi đối với người có công với NCCVCM đang diễn ra đối với những đối tượng cụ thể trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định.

Giống như các CSC khác được ban hành, chính sách NCCVCM có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người, có liên quan tới nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội. Vì vậy, quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách này cần huy động sự tham gia của các bên. Các bên tham gia vào quá trình thực hiện chính sách NCCVCM bao gồm: các cơ quan trong bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội; các tổ chức đoàn thể nhân dân, cán bộ, công chức nhà nước có thẩm quyền và các cá nhân trong xã hội, nhằm đưa chính sách vào thực tế. Trong đó:

Chủ thể triển khai thực hiện Chính sách NCCVCM bao gồm các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương (Chính phủ; các Bộ, Cơ quan ngang Bộ; HĐND các cấp; UBND các cấp) trong đó chủ yếu là các cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước có thẩm quyền.

Chủ thể tham gia phối hợp thực hiện Chính sách NCCVCM ở nước ta hiện nay rất phong phú, có thể là các tổ chức chính trị – xã hội (Mặt trận tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh,…); các hiệp hội nghề nghiệp – xã hội ở Trung ương đến địa phương; các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế; các tổ chức phi Chính phủ;…

Đối tượng thực hiện Chính sách NCCVCM là những đối tượng, nhóm đối tượng chịu tác động trực tiếp (Người có công và thân nhân người có công) và đối tượng chịu tác động gián tiếp là những đối tượng khi mà chính sách được triển khai không chịu tác động trực tiếp nhưng ít nhiều cũng bị ảnh hưởng.

1.3.2. Ý nghĩa của việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Thực hiện chính sách NCCVCM là một nội dung của Hiến định:

Khoản 1, Điều 59 của Hiến pháp 2013 quy định “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với nước”.

Việc thực hiện chính sách NCCVCM có ý nghĩa rất quan trọng. Giống như đối với CSC, thực hiện chính sách NCCVCM chính là bước hiện thực hoá chính sách vào đời sống xã hội. Tổ chức thực hiện chính sách NCCVCM là trung tâm kết nối các khâu hoạch định, phân tích đánh giá chính sách trong chu trình chính sách thành một hệ thống hoàn chỉnh, là cầu nối giữa lý luận và thực tiễn trong thực thi chính sách. Việc xây dựng, hoạch định chính sách NCCVCM có chất lượng, đảm bảo các tiêu chuẩn, mục tiêu là điều quan trọng nhưng việc tổ chức, triển khai thực hiện chính sách một cách đúng đắn, hiệu quả còn quan trọng hơn nhiều. Có thể khẳng định, ban hành chính sách NCCVCM là điều cần thiết mà Đảng, Nhà nước phải làm, mặc dù chính sách là đúng nhưng nếu không đưa vào thực hiện thì sẽ chỉ nằm trên giấy, không những không thực hiện được mục tiêu, ý định của chủ thể ban hành mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách.

Nếu chính sách NCCVCM khi triển khai vào thực tế không được tổ chức thực hiện một cách đến nơi, đến chốn, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thì không những không tác động trực tiếp được đến đối tượng thụ hưởng là những NCCVCM và thân nhân của họ mà sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và dẫn đến sự phản ứng tiêu cực từ phía nhân dân đối với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Điều này hoàn toàn bất lợi về về mặt chính trị, xã hội, bất ổn trong công tác quản lý của Nhà nước.

Quá trình thực hiện chính sách NCCVCM với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện chính sách cho phù hơp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu cuộc sống.

Hơn vậy, thực hiện chính sách còn là căn cứ giúp cho việc phân tích, đánh giá chính sách NCCVCM được đầy đủ, thuyết phục. Thực tiễn là chân lý, kết quả thực hiện chính sách NCCVCM là thước đo, cơ sở đánh giá một cách chính xác, khách quan chất lượng và hiệu quả chính sách. Việc đưa chính sách NCCVCM vào thực tiễn cuộc sống là một quá trrình khó khăn, phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố nhưng đây được xem là tính tất yếu khách quan mà Nhà nước phải thực hiện vì thực hiện chính sách NCCVCM là thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước, tuân thủ Hiến định, thực hiện nhiệm vụ quan trọng của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển, bảo vệ quyền của người dân theo Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc. An sinh xã hội nói chung, chính sách NCCVCM nói riêng được coi là một dịch vụ mà khu vực tư nhân khó có thể đảm nhiệm thực hiện được đầy đủ, hoàn thiện, chỉ có Nhà nước mới có thể đưa ra những cơ chế khuyến khích phù hợp và ảnh hưởng của mình để gây sức ép cần thiết trong việc thúc đẩy những đóng góp bắt buộc.

Đối với nhân dân, việc tham gia vào thực hiện chính sách NCCVCM cũng có ý nghĩa thể hiện sự nhân đạo, biết ơn, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

Hiện nay, chủ trương xã hội hoá chính sách NCCVCM được mở rộng, tăng cường nhằm huy động được tổng hoà sức mạnh, phát huy tối đa nguồn lực tham gia vào quá trình thực hiện chính sách, chăm sóc, đền ơn đáp nghĩa đối với NCCVCM được sâu rộng, đem lại hiệu quả tích cực hơn.

1.3.3. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Quá trình tổ chức thực hiện chính sách NCCVCM diễn ra trong thời gian dài và có liên quan đến nhiều tổ chức, cá nhân, vì thế để chính sách NCCVCM mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn của nhà nước cũng như các đối tượng chính sách thì quá trình tổ chức thực hiện cần phải được thực hiện theo một quy trình khoa học, hợp lý và phù hợp với những điều kiện khách quan, về cơ bản tuân thủ theo 7 bước chung của quy trình thực hiện chính sách công đã đề cập sơ lược tại mục 1.1.2 của luận văn/

Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng

Kế hoạch thực hiện chính sách NCCVCM được thực hiện ở cấp nào thì sẽ do cơ quan chủ trì cấp đó xây dựng trước khi đưa chính sách thực hiện trong trong thực tế. Sau khi được quyết định thông qua, kế hoạch sẽ mang giá trị pháp lý, được các chủ thể và đối tượng triển khai và chấp hành thực hiện một cách nghiêm chỉnh.

Nội dung cơ bản của kế hoạch thực hiện chính sách NCCVCM bao gồm: Kế hoạch về tổ chức, điều hành như hệ thống các cơ quan tham gia, đội ngũ nhân sự, cơ chế thực thi; Kế hoạch cung cấp nguồn vật lực như tài chính, trang thiết bị,…; Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện; Kế hoạch đôn đốc, kiểm tra thực hiệnh chính sách; Dự kiến về quy chế, nội dung về tổ chức, điều hành thực hiện chính sách;…

Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách người có công với cách mạng

Phổ biến, tuyên truyền, vận động chính sách NCCVCM được thực hiện thường xuyên, liên tục, kể cả khi chính sách đang được thực hiện để mọi đối tượng cần tuyên truyền luôn được củng cố lòng tin vào chính sách và tích cực tham gia vào thực hiện chính sách. Tuỳ thuộc theo yêu cầu của mỗi cơ quan quản lý, điều kiện hiện có mà mỗi cơ quan, đơn vị lựa chọn hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp như: tiếp xúc, trao đổi trực tiếp với đối tượng chính sách; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng;..

Bước 3: Phân công phối hợp thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Chính sách NCCVCM được thực hiện trên một địa bàn rộng lớn đòi hỏi và cần có sự chung tay của nhiều cấp, nhiều ngành ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Tham gia vào quá trình thực hiện chính sách NCCVCM bao gồm rất nhiều chủ thể, đối tượng phong phú: các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội, các doanh nghiệp, người có công với cách mạng và thân nhân, những nhà khoa học và các đối tượng khác trong xã hội,… Việc phân công phù hợp, rõ ràng cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, trách nhiệm thực hiện theo từng chính sách, chương trình cụ thể nhằm hướng đến việc thực hiện hiệu quả chính sách NCCVCM.

Bước 4: Duy trì chính sách người có công với cách mạng

Để chính sách NCCVCM tồn tại, phát huy hết được tác dụng khi được đưa vào thực tế thực hiện, Cơ quan nhà nước các cấp phải tiến hành các biện pháp duy trì chính sách phù hợp sao cho phải tạo được môi trường thuận lợi để chính sách NCCVCM tồn tại, phát triển và đạt được hiệu quả tốt. Người chấp hành chính sách cũng phải có trách nhiệm tham gia thực hiện theo những yêu cầu của Nhà nước và vận động lẫn nhau tích cực chấp hành chính sách. Tiến hành đồng bộ các hoạt động này sẽ góp phần tích cực vào việc duy trì chính sách NCCVCM.

Bước 5: Điều chỉnh chính sách người có công với cách mạng

Khi đưa chính sách vào trong thực tế, trong quá trình thực hiện không tránh khỏi phát sinh những vấn đề mà các quy định trước đó đặt ra không còn phù hợp hoặc không thể thực hiện được, cần phải điều chỉnh. Đối với hoạt động điều chỉnh, bổ sung chính sách NCCVCM thuộc thẩm quyền của cơ quan ban hành chính sách, tuy nhiên khi triển khai thực hiện, cơ quan nhà nước các cấp, các ngành vẫn có thể chủ động điều chỉnh các biện pháp, cơ chế thực hiện chính sách một cách linh động, chính xác và phù hợp với điều kiện tình hình từng địa phương để thực hiện chính sách đem lại kết quả tốt, miễn sao không làm thay đổi, sai lệch mục tiêu, biến dạng chính sách NCCVCM.

Bước 6: Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc tình hình tổ chức thực hiện chính sách NCCVCM cần được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, vừa nhằm bổ sung, hoàn thiện chính sách, vừa kịp thời phát hiện những sai phạm, chấn chỉnh kịp thời công tác tổ chức thực hiện chính sách, đảm bảo đúng tiến độ, giúp chính sách NCCVCM của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

Chủ thể kiểm tra, đôn đốc quá trình thực hiện chính sách NCCVCM là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên để đảm bảo tính khác quan, chính xác về kết quả kiểm tra, hoạt động này cần có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể nhân dân, thậm chí là đối tượng chính sách NCCVCM. Có như vậy mới đảm bảo, phát huy được tính dân chủ trong quá trình thực hiện chính sách.

Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách NCCVCM bao gồm đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện chính sách của cơ qua nhà nước và xem xét, đánh giá việc thực thi của các đối tượng tham gia thực hiện chính sách NCCVCM (đối tượng thụ hưởng lợi ích trực tiếp và gián tiếp từ chính sách) để từ đó rút kinh nghiệm thực hiện chính sách hiệu quả hơn.

Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực hiện chính sách NCCVCM trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao, và những nội quy, quy chế được xây dựng trong kế hoạch triển khai thực hiện chính sách ở từng cơ quan các cấp; kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác.

Hoạt động đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm dưới hình thức từng phần hay toàn bộ kết quả thực hiện chính sách, được tiến hành liên tục trong thời gian duy trì chính sách NCCVCM.

1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện chính sách người có công với cách mạng

Quá trình tổ chức thực hiện chính sách công diễn ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều nhân tố nên không tránh khỏi tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như tính chất vấn đề CSC, môi trường thực thi, mối quan hệ giữa các đối tượng thực thi, tiềm lực của các nhóm đối tượng thực thi, đặc tính đối tượng CSC, năng lực thực thi CSC của cán bộ công chức, điều kiện vật chất, sự đồng tình ủng hộ của người dân,… gây ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực.

Nghiên cứu, tìm hiểu chính sách NCCVCM ở Việt Nam nhận thấy có một số yếu tố ảnh hưởng quá trình thực hiện chính sách, cụ thể phải kể đến:

Thứ nhất, thể chế chính sách về người có công với cách mạng

Pháp luật là công cụ quan trọng trong việc quản lý xã hội. Trong việc thực hiện các chính sách, chế độ ưu đãi người có công, công cụ pháp luật có vai trò thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để cơ quan, tổ chức, gia đình,…nắm bắt, tuân thủ và thực hiện theo.

Nội dung cơ bản của thể chế chính sách NCCVCM là xác định đối tượng tham gia, đối tượng điều chỉnh theo một quy trình thống nhất; xác định các chính sách, chế độ đóng góp, thụ hưởng và những trách nhiệm của các bên tham gia trong việc thực hiện chính sách đề ra. Những nội dung quy định trong thể chế nếu đầy đủ, phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống thì việc thực hiện chính sách NCCVCM sẽ thuận lợi và khả thi. Ngược lại việc thực hiện chính sách sẽ gặp phải khó khăn, không khả thi, thiếu hiệu quả nếu như chính sách được xây dựng không đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng cao của đối tượng hưởng thụ, thiếu điều khoản giám sát và chế tài xử phạt, nguồn lực thiếu tính bền vững,… Do vậy, cần thiết phải nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, thay thế những nội dung thể chế chính sách, những quy định pháp luật đối với NCCVCM sao cho đầy đủ, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội trong từng thời kỳ khác nhau.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 2/ TRAN NGUYEN THUY MINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *