Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giảm nghèo bền vững là quá trình làm thay đổi điều kiện sống của người nghèo, từ thiếu hụt về điều kiện ăn mặc, sinh hoạt sang đảm bảo vấn đề cơm ăn, áo mặc và tiến tới tiếp cận được các dịch vụ xã hội cơ bản, nhu cầu an sinh theo tiến trình đi lên của xã hội. Giảm nghèo bền vững được xem là chủ trương lớn của nhà nước trong tiến trình hội nhập, phát triển tiến đến việc hoàn thành hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (năm 1996), quá trình nhìn nhận và tiếp cận với vấn đề xóa đói giảm nghèo mới được toàn diện. Và đến năm 2001, tại Đại đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng, công tác xóa đói giảm nghèo được Đảng, Nhà nước ta nâng lên một bước mới trong nhận thức, đánh dấu sự phát triển trong việc tạo điều kiện cho người dân nâng cao năng lực sản xuất của chủ thể và chủ động vươn lên thoát nghèo. Quá trình thay đổi từ nhận thức đến cách làm của Đảng, Nhà nước ta trong hơn 20 năm qua đã chuyển hóa quá trình thực hiện từ xóa đói giảm nghèo đến giảm nghèo bền vững. Nước ta từ một nước nghèo trở thành một nước có thu nhập trung bình. Tỷ lệ đói nghèo của cả nước giảm đáng kể, đặc biệt sau khi chương trình 135 và Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP được thực hiện, mức sống của người dân đã được nâng cao. Tuy nhiên, tỷ lệ giàu, nghèo có sự phân hóa rõ rệt theo khu vực địa lý. Đói nghèo tập trung chủ yếu ở vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa và nông thôn – nơi đại đa số người dân sống bằng nông nghiệp, chưa tiếp cận được với những tiến bộ khoa học trong sản xuất, chưa khai thác được tiềm năng lợi thế tại địa phương.

Huyện Phú Ninh là một huyện nông nghiệp của tỉnh Quảng Nam, được thành lập theo Nghị định số 01/2005/NĐ-CP ngày 05/01/2005 của Chính phủ. Kinh tế – xã hội đã có sự phát triển khá toàn diện và mạnh mẽ. Mặc dù vậy, cho đến nay kinh tế của huyện Phú Ninh phát triển chưa bền vững, người nghèo trên địa bàn huyện đã tiếp cận được cơ bản các điều kiện phúc lợi xã hội song mức thu nhập vẫn còn nằm ở mức thấp – sát chuẩn nghèo, tỷ lệ tái nghèo vẫn còn cao. Bên cạnh việc triển khai các chính sách từ Trung ương, từ cấp tỉnh thì huyện Phú Ninh cũng hệ thống hóa chính sách phù hợp với địa phương, nhưng nhìn chung vẫn chưa được tiến hành đồng bộ bên cạnh tư tưởng trông chờ, ỷ lại, thậm chí không có ý chí vươn lên trong việc thoát nghèo của hộ dân ảnh hưởng rất lớn.

Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của giảm nghèo và thực trạng tại địa phương, học viên quyết định nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam” cho luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục tiêu nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu chung

Nghiên cứu kinh nghiệm thực tiễn trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam, trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể

Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về giảm nghèo bền vững. Làm rõ các chính sách giảm nghèo bền vững được vận dụng, Trên cơ sở đó chỉ ra những ưu điểm, những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong công tác tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh thời gian qua.

Đề xuất và kiến nghị các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

– Phạm vi về nội dung: Chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam

– Phạm vi không gian: Nghiên cứu các chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam

– Phạm vi thời gian: Đánh giá thực trạng chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, giai đoạn 2015 – 2017, trong đó có sử dụng tình hình và số liệu các giai đoạn trước để so sánh. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện chính sách giảm nghèo bền vững địa bàn huyện Phú Ninh đến năm 2020

4. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Các tài liệu được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm các sách giáo khoa, sách chuyên khảo, các tài liệu giảng dạy và các đề tài nghiên cứu. Đồng thời, các tài liệu tham khảo bao gồm các quy định và chính sách,Chỉ thị, Nghị quyết, Thông tư của Chính phủ, Đảng, của bộ ngành liên quan, của tỉnh Quảng Nam và của huyện Phú Ninh đến công tác giảm nghèo; các báo cáo về giảm nghèo được thực hiện bởi các ban ngành của huyện Phú Ninh. Tài liệu thu thập được lựa chọn, thống kê, đánh giá, phân tích và tổng hợp nhằm làm rõ các nội dung nghiên cứu của luận văn.

Phương pháp phân tích số liệu: Số liệu thứ cấp được thu thập từ các nguồn như niên giám thống kê của tỉnh Quảng Nam, huyện Phú Ninh, số liệu thống kê của Sở Thương binh Lao động Xã hội tỉnh Quảng Nam. Số liệu thu thập được phân loại nguồn số liệu, cập nhật vào phần mềm excell, phân tích. Số liệu được phân tích và đánh giá theo các chủ đề của luận văn và các theo các nhóm đối tượng liên quan để phân tích, đánh giá. Luận văn chủ yếu dùng phương pháp thống kê mô tả để phân tích số liệu so sánh đối tượng.

5. Câu hỏi nghiên cứu

– Thực trạng chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh

– Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh.

– Giải pháp nào nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh.

– Đóng góp mới của đề tài:

Hệ thống hóa chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh; Nêu lên được các kinh nghiệm thực hiện chính sách giảm nghèo của một số địa phương khác và văn bản, chính sách liên quan đến công tác giảm nghèo bền vững. Trên cơ sở đó đề ra những vấn đề nghiên cứu để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh.

Phân tích, đánh giá thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh giai đoạn 2015 -2017, thông qua các kết quả đó tìm ra những điểm tích cực, hạn chế và nguyên nhân.

Đề xuất những phương hướng, giải pháp nâng cao công tác thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh.

6. Kết cấu luận văn

Luận văn được trình bày theo lối truyền thống, ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo đề tài được chia làm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách giảm nghèo bền vững.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh.

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh thời gian tới.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

    1. 1.1. Các khái niệm liên quan đến giảm nghèo bền vững

1.1.1. Khái niệm về nghèo

Nghèo là khái niệm được biết đến từ khá lâu, được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống nhưng đến nay vẫn chưa có một khái niệm hay định nghĩa nào hoàn chỉnh, thống nhất. Khái niệm nghèo được hiểu và thay đổi theo thời gian, từng khu vực.

Một số khái niệm nghèo được biết đến như sau:

Với các nước trên thế giới:

Tại Hội nghị về chống nghèo ở khu vực Châu Á -Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tháng 9-1993 tại Bangkok, Thái Lan.

“Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội phong tục tập quán của địa phương”.

Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ( năm 1995)

Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới một đô la mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ để mua những sản phẩm cần thiết để tồn tại.”

Trong công trình “Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam-1995” của nhóm nghiên cứu của UNDP, UNFPA, UNICEF:

“Nghèo là tình trạng thiếu khả năng trong việc tham gia vào đời sống quốc gia, nhất là tham gia vào lĩnh vực kinh tế.”

Ở Việt Nam

Căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội cũng như mức thu nhập những năm qua, khái niệm nghèo nước ta được xác định như sau:

Nghèo là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ cụ thể hay từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.

Ở nước ta thì nghèo được chia thành các mức khác nhau: Nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối, nghèo đa chiều.

Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo không có khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở, đi lại…

Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.

Nghèo đa chiều: Được hiểu là tình trạng con người không được đáp ứng một hoặc một số nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.

Và để xác định nghèo, ở nước ta được căn cứ vào:

Một là: Căn cứ vào chuẩn nghèo của Chính phủ do Bộ LĐ-TB&XH công bố.

Hai là: Chuẩn nghèo của Tổng cục Thống kê và Ngân Hàng thế giới.

Hiện nay, chủ yếu là sử dụng chuẩn nghèo do Bộ LĐ-TB&XH đưa ra. Chuẩn nghèo này được tính toán dựa vào nhu cầu chi tiêu cơ bản của lương thực, thực phẩm (nhu cầu ăn hàng ngày) và nhu cầu chi tiêu phi lương thực, thực phẩm (mặc, nhà ở, y tế, giáo dục, văn hoá, đi lại, giao tiếp xã hội).

Ngoài ra, còn có khái niệm về vùng nghèo, hộ nghèo.

Vùng nghèo: Là địa bàn có số hộ nghèo cao. Vùng nghèo thường là ở khu vực cách xa trung tâm, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa phát triển.

Hộ nghèo: Là tình trạng hộ gia đình chỉ thỏa mãn một phần của nhu cầu cuộc sống tối thiểu và có mức sống thấp hơn mức sống cộng đồng (xét trên mọi phương diện cuộc sống)

Tuy có nhiều khái niệm và định nghĩa về nghèo nhưng về bản chất vẫn thấy được tiêu chí chung đó là mức thu nhập để thỏa mãn nhu cầu sống cơ bản của con người: ăn uống, học tập, khám chữa bệnh….gọi chung là dịch vụ xã hội. Và tác giả thống nhất với quan niệm của Bộ LĐ-TB&XH công bố “Nghèo đói là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần các nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng hoặc dưới mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện”. Đây là quan niệm tác giả sử dụng trong nội dung luận văn thạc sỹ của mình.

1.1.2. Khái niệm về giảm nghèo

“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” là mục tiêu hướng đến của đất nước ta, nhưng để đạt được điều đó thì yêu cầu công tác giảm nghèo phải được chú trọng. Giảm nghèo ở đây bao gồm cả xóa đói và phải thực hiện giảm nghèo nhưng không tái sinh lại, tức là giảm nghèo bền vững.

Giảm nghèo được xem là chủ trương, định hướng của sự phát triển của đất nước, một đất nước không thể phát triển khi người dân còn nghèo đói.

Giảm nghèo không có khái niệm rõ ràng mà đó là mục đích, được hiểu ngay trên nghĩa tường minh của từ là “giảm nghèo” căn cứ trên tiêu chuẩn xác định nghèo.

Có thể hiểu về giảm nghèo như sau:

Giảm nghèo là sự gia tăng về mức tiếp cận các dịch vụ xã hội của người dân, từ lựa chọn ít sang lựa chọn nhiều, từ thiếu thốn sang hoàn thiện, đầy đủ

Giảm nghèo tức là đời sống người dân được nâng lên, từ nghèo bước sang thoát nghèo rồi nâng lên mức khá, mức giàu.

Bên cạnh đó, còn có các khái niệm liên quan đến giảm nghèo:

Đối với giảm nghèo của hộ nghèo: Tức là tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội của hộ gia đình.

Đối với vùng nghèo/ xã nghèo: Tức là giảm số lượng, tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn.

Bản chất của nghèo căn cứ trên mức thu nhập và khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội thì giảm nghèo tức là tăng mức thu nhập và khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội của hộ nghèo.

Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện Phú Ninh, tỉnh Quảng Nam

1.1.3. Khái niệm về giảm nghèo bền vững

Giảm nghèo bền vững được sử dụng khá lâu nhưng đến hiện nay giảm nghèo bền vững vẫn chưa có khái niệm rõ ràng. Căn cứ vào các văn bản hành chính thì năm 2008 từ “giảm nghèo bền vững” đã được đưa vào sử dụng cho đến nay, cụ thể như sau:

Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61 huyện nghèo;

Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2010 của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020;

Quyết định số 1489/QĐ-TTg ngày 8/10/2012 của TTCP phê duyệt chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015

Nghị quyết số 15 -NQ/TW ngày 1/6/2012, Hội nghị BCH trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020.

Căn cứ trên các cách hiểu về “giảm nghèo” và “bền vững” thì cụm từ “giảm nghèo bền vững” được hiểu là: Đó là giảm nghèo và phát triển bền vững, điều đó thể hiện trên các khía cạnh tạo cơ hội cho người nghèo thoát nghèo, ổn định và không ngừng tăng thu nhập để không bị tái nghèo khi có các tác động bất lợi của tự nhiên và xã hội. Việc giảm nghèo phải đảm bảo được sự phát triển bền vững trên các mặt kinh tế, xã hội, môi trường và thể chế. Từ đó, có thể hiểu “giảm nghèo bền vững” là quá trình giảm nghèo đảm bảo được sự cải thiện đồng thời của sự bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường của một đất nước, một địa phương, một cộng đồng dân cư hay của một hộ gia đình. Nói cách khác là hộ đạt được mức thỏa mãn các dịch vụ xã hội, mức thu nhập cao hơn mức nghèo và không có nguy cơ tái nghèo trong thời gian dài.

1.1.4. Các tiêu chí đánh giá trong giảm nghèo bền vững

Để đánh giá được giảm nghèo có bền vững hay không thì chúng ta không thể căn cứ vào số lượng hộ nghèo, vùng nghèo hay xã nghèo giảm về số lượng mà cần quan tâm đến nhiều yếu tố khác. Cũng như nội dung nêu trên thì giảm nghèo bền vững cần phải đạt các yếu tố:

Về dịch vụ xã hội: Hộ nghèo/vùng nghèo/ xã nghèo (gọi chung là đối tượng nghèo) tiếp cận được các dịch vụ xã hội một cách chủ động: Họ được tiếp cận với dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật theo chính nhu cầu của họ; họ có được tiếng nói của bản thân trong các hoạt động mà không bị chi phối về các yếu tố. Việc tiếp cận dịch vụ xã hội có vai trò quan trọng trong giảm nghèo bền vững, nhất là là dịch vụ y tế – giáo dục, đối tượng nghèo nếu được tiếp cận với dịch vụ này thì họ được trang bị nguồn kiến thức cũng như sức khỏe để vươn lên với cuộc sống, họ trang bị cho bản thân đủ kiến thức để nắm bắt với nhu cầu định hướng phát triển của xã hội về kinh tế.

Mức thu nhập: Tác động mạnh đến các dịch vụ xã hội, khi thu nhập ổn định họ không phải lo về cái ăn cái mặc thì họ sẽ quan tâm về vấn đề phát triển xã hội, các nhu cầu khác như văn hóa, tinh thần.

Không có nguy cơ tái nghèo trong thời gian dài: Thỏa mãn hai yếu tố trên thì sẽ không có nguy cơ tái nghèo, họ hoàn toàn không bị ảnh hưởng nặng bởi các yếu tố khách quan như thiên tai, dịch bệnh… Họ có thể khó trong một giai đoạn nhưng không quay lại mức nghèo. Đây chính là yếu tố đánh giá có bền vững hay không?

Thực tế cũng không ít địa phương, hộ gia đình đã tái nghèo khi một bất trắc bất ngờ trong cuộc sống.

Chúng ta có thể đánh giá điều này qua các chỉ tiêu của chỉ số ngưỡng thiếu hụt – Theo Đề án Nghèo đa chiều của Bộ Lao động – Thương Binh – Xã Hội, 2015 như sau:

Chỉ tiêu nghèoChỉ số đo lườngNgưỡng thiếu hụt
Giáo dụcTrình độ giáo dục của người lớnHộ gia đình có ít nhất 1 thành viên đủ 15 tuổi sinh từ năm 1986 trở lại không tốt nghiệp Trung học cơ sở và hiện không đi học
Tình trạng đi

học của trẻ em

Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5-dưới 15 tuổi) hiện không đi học
Y tếTiếp cận các dịch vụ

y tế

Hộ gia đình có người bị ốm đau nhưng không đi khám chữa bệnh(ốm đau được xác định là bị bệnh/chấn thương nặng đến mức

phải nằm một chỗ và phải có người chăm sóc tại giường hoặc nghỉ việc/học không tham gia được các hoạt động bình thường)

Bảo hiểm y tếHộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại không có bảo hiểm y tế
Nhà ởChất lượng nhà ởHộ gia đình đang ở trong nhà thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ (Nhà ở chia thành 4 cấp độ: nhà kiên cố,

bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ)

Diện tích nhà ở bình quân đầu ngườiDiện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2
Điều kiện sốngNguồn nước sinh hoạtHộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh
Hố xí/nhà tiêuHộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh
Tiếp cận thông tinSử dụng dịch vụ viễn thôngHộ gia đình không có thành viên nào sử dụng thuê bao điện thoại và internet
Tài sản

phục vụ tiếp cận

thông tin

Hộ gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản: Ti vi, radio, máy tính; và không nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/thôn

Bên cạnh đó, chúng ta cũng căn cứ theo Quyết định, chuẩn nghèo giai đoạn 2016-2020 được xây dựng theo hướng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, cụ thể:

Hộ nghèo: Hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ chuẩn nghèo chính sách trở xuống, hoặc có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn chuẩn nghèo chính sách nhưng thấp hơn chuẩn mức sống tối thiểu về thiếu hụt từ 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Hộ cận nghèo: Hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn chuẩn nghèo chính sách nhưng thấp hơn chuẩn mức mức sống tối thiểu, và thiếu hụt dưới 1/3 tổng số điểm thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.

Hộ chưa tiếp cận đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản: Hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu và thiếu hụt từ 1/3 tổng điểm thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.

Hộ có mức sống trung bình: Hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ dưới chuẩn mức sống trung bình và cao hơn chuẩn mức sống tối thiểu.

Theo tác giả Nguyễn Hữu Lợi, các tiêu chí đánh giá giảm nghèo bền vững như sau [19]:

Giảm nghèo bền vững thông qua cải thiện về thu nhập

Để giảm nghèo, trước hết cần phải cải thiện thu nhập cho người nghèo. Việc cải thiện thu nhập cần phải hướng đến ngang bằng và cao hơn mức chuẩn nghèo. Giảm nghèo bền vững thông qua thu nhập được đánh giá qua các chỉ tiêu như: chỉ số khoảng cách nghèo giảm, chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương giảm, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo giảm.

Giảm nghèo bền vững thông qua mức độ thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản (về giáo dục, y tế)

Vòng luẩn quẩn của nghèo

Văn hóa thấp

Bệnh tật

Lười lao động

Đông con

NGHÈO

Nhìn vào “Vòng luẩn quẩn của nghèo” chúng ta có thể thấy: vòng luẩn quẩn nghèo đói được mô tả: nghèo đói → thất học, văn hóa thấp → lao động giản đơn hoặc lười lao động → thu nhập thấp hoặc không có thu nhập → không có cơ hội tiếp cận các dịch vụ kinh tế, xã hội cơ bản → nghèo đói. Vì vậy đánh giá giảm nghèo bền vững thông qua tiêu chí mức độ hưởng thụ về y tế và giáo dục là một trong những phương pháp kiểm chứng xác thực về mức độ giảm nghèo ở một quốc gia.

Giảm thiểu nguy cơ bị tổn thương và rủi ro đối với các đối tượng nghèo

Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích lũy kém nên họ khó có khả năng chống chọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất việc làm, mất sức khỏe, mất nguồn lao động…). Với khả năng kinh tế mong manh của các hộ nghèo, những đột biến này sẽ tạo ra những biến cố lớn trong cuộc sống của họ.

Tăng cường tiếng nói và quyền tự chủ cho người nghèo

Người nghèo, đồng bào dân tộc ít người và các đối tượng đặc biệt thường có trình độ học vấn thấp nên không có khả năng tự giải quyết các vấn đề vướng mắc có liên quan đến pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật có cơ chế thực hiện phức tạp khiến người nghèo khó nắm bắt, mạng lưới các dịch vụ pháp lý, số lượng các luật gia, luật sư hạn chế, phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung tại các thành phố, thị xã, phí dịch vụ pháp lý còn cao. Vì vậy cải cách các thể chế liên quan đến người nghèo là vấn đề cốt yếu đối với việc đảm bảo quyền pháp lý của họ. Chỉ có thông qua những thay đổi có tính chất hệ thống như vậy thì những người nghèo nhất mới có khả năng tận dụng những cơ hội mới và được thu hút tham gia vào nền kinh tế tri thức.

1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến giảm nghèo bền vững

Giảm nghèo hay giảm nghèo bền vững chịu tác động bởi yếu tố bên ngoài và bên trong. Bên ngoài đó là: Nhà nước, xã hội; bên trong đó là nhận thức của hộ nghèo (tính chủ động vươn lên thoát nghèo làm giàu) và các điều kiện thực tế như tình trạng sức khỏe, kiến thức (tay nghề) lao động…Tuy nhiên, nhận thức của hộ nghèo giữ vai trò trọng tâm và trong nội dung luận văn tác giả phân tích, đề cập đến nhận thức hộ nghèo đến công tác giảm nghèo bền vững.

Nhà nước: Mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” là mục tiêu được đặt ra khi nước ta tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa, từ đủ ăn đủ mặc sang ăn ngon, mặc ấm và hơn thế nữa. Để điều đó được thực hiện thì việc giảm nghèo là cơ sở hành động, tiến lên. Nhà nước lấy nhân dân là trung tâm, mọi quyết định của Nhà nước đều xuất phát từ nhân dân, “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”. Nhà nước ban hành các chính sách và sử dụng các công cụ quản lý của mình để điều hành, chẳng hạn chính sách thuế, chính sách tín dụng vay vốn hỗ trợ người nghèo.

Bên cạnh đó, nhà nước duy trì nền chính trị ổn định, kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế – xã hội là yếu tố tác động trực tiếp đến việc thực hiện giảm nghèo một cách bền vững.

Xã hội: Là cộng đồng dân cư bao gồm cá nhân, tổ chức, đoàn thể. Vai trò của xã hội hết sức quan trọng, là thị trường cung cầu lao động, thị trường vốn – nhân lực. Xã hội bao gồm thị trường kinh tế với các thành phần kinh tế, đa dạng ngành nghề và nguồn lực hỗ trợ cho người nghèo. Biểu hiện dưới dạng tạo việc làm, nguồn thu mua sản phẩm được sản xuất, họ kích cầu sản xuất dưới nhiều hình thức. Đồng thời xã hội với các cá nhân, tổ chức – họ đóng vai trò là mạnh thường quân hỗ trợ về vốn, điều kiện cần cho quá trình giúp hộ thoát nghèo.

Nhận thức hộ nghèo: Mọi điều kiện chuẩn bị tốt nhưng nếu nhận thức hộ nghèo mang tính trì truệ thì mọi điều kiện là vô nghĩa, nhận thức hộ nghèo giữ vai trò then chốt. Nếu hộ có ý thức vươn lên thoát nghèo thì hộ sẽ tận dụng, chủ động với các điều kiện được hỗ trợ để tạo kinh tế để phát triển. Nếu hộ mang tính ỷ lại, chờ đợi (thụ động) thì các điều kiện tác động đều vô nghĩa. Chính vì vậy, công tác tác động của nhà nước, xã hội đối với hộ về nhận thức cũng là một trong những chiến lược mang tính lâu dài, vừa mềm dẻo vừa cứng nhắc, giúp hộ dần dần thay đổi nhận thức từ thụ động sang chủ động, xây dựng tính đổi thay trong nhận thức để tiếp cận với công cuộc thoát nghèo vươn lên khá, giàu, đóng góp xây dựng xã hội hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và dân chủ, văn minh”.

    1. 1.2. Chính sách về giảm nghèo bền vững

1.2.1. Quan niệm

Ông bà ta xưa có câu “Trao cần câu chứ không cho con cá” .Tác giả hoàn toàn đồng ý với triết lý này, giúp nghèo bằng trao tặng vật dụng, trao tặng đồ ăn, thức uống… chính là cách giúp tức thời, giải quyết tại thời điểm mang tính “giúp ngặt chứ không giúp nghèo”, là cách xóa nghèo không bền vững. Người nghèo cần “cần câu” hơn “con cá”. Vì vậy giúp nghèo cần tầm nhìn chiến lược mang tính thời gian, cụ thể bằng hành động tác động mang lại hiệu quả lâu dài, thay đổi sâu, tức là thay “con cá” bằng “cần câu”.

Tuy nhiên, giảm nghèo hay giảm nghèo bền vững không chỉ dừng lại ở số lượng mà phải đảm bảo chất lượng. Thực tế trong những năm qua, số lượng hộ nghèo đã giảm nhưng chất lượng giảm nghèo vẫn chưa đảm bảo, hộ nghèo vẫn tái nghèo trước những yếu tố khách quan. Vì vậy cần phải thực hiện giảm nghèo một cách bền vững, hộ nghèo vượt ngưỡng thoát nghèo và vươn lên thành hộ khá, hộ giàu.

Chính sách giảm nghèo là những quyết định, quy định của nhà nước nhằm cụ thể hóa các chương trình dự án cùng với nguồn lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục đích cuối cùng là xóa đói giảm nghèo.

Chính sách giảm nghèo bền vững được căn cứ trên chính giảm nghèo và đảm bảo các tiêu chí sau:

Thu nhập thực tế của người nghèo, hộ nghèo được cải thiện, vượt qua được chuẩn nghèo, hạn chế tối đa tình trạng tái nghèo về thu nhập, nếu gặp rủi ro hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.

Được tạo cơ hội và có khả năng tiếp cận đầy đủ với các nguồn lực sản xuất được xã hội tạo ra, các dịch vụ hỗ trợ người nghèo và được quyền tham gia và có tiếng nói của mình đối với các hoạt động lập kế hoạch phát triển kinh tế, giảm nghèo cho bản thân và địa phương.

Được trang bị một số điều kiện “tối thiểu” để có khả năng tránh được tình trạng tái nghèo khi gặp phải những rủi ro khách quan như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh… hoặc sự thay đổi của chuẩn nghèo.

Được đảm bảo tiếp cận bình đẳng về giáo dục dạy nghề và chăm sóc sức khoẻ để về lâu dài, người nghèo, người mới thoát nghèo và con em họ có được kiến thức, kinh nghiệm làm ăn, tay nghề nhằm tạo ra thu nhập ổn định trong cuộc sống.

Căn cợc kiến thức, kinh nghiệm làm ăn, tay nghề nhằm tạo ra thu nhập ổn định trong cuộchèo khi gặp phải những rủi ro khách quan như thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh… hoặc sự thay đổi của chuẩnẫn chưa đả

1.2.2. Vai trò của chính sách giảm nghèo bền vững

Thứ nhất, ngăn chặn được nguy cơ tái nghèo và tăng trưởng kinh tế

Mục tiêu giảm nghèo bền vững là hộ nghèo không đứng trước nguy cơ tái nghèo. Việc bền vững trong giảm nghèo giúp hoàn thiện nhiệm vụ trọng điểm phát triển kinh tế – xã hội.

Khi giảm được hộ nghèo và hộ nghèo không có nguy cơ tái nghèo thì Nhà nước sớm hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Hộ nghèo không còn, giúp Nhà nước hội nhập nhanh với tiến trình phát triển của thế giới, việc áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật vào trong sản xuất, khai thác tiềm năng và lợi thế đất nước.

Thứ hai, giảm nguồn chi ngân sách Nhà nước về sau

Để thoát nghèo thì việc hỗ trợ cho hộ nghèo là yếu tố tiên quyết, hộ nghèo họ cần các điều kiện về vốn, phương tiện làm ăn và các kiến thức để vươn lên thoát nghèo, làm giàu. Làm được điều đó cần có chính sách lâu dài, nguồn kinh phí tác động trên mọi lĩnh vực. Thực tế đã cho thấy, một đất nước nhiều người nghèo là một đất nước có nguồn ngân sách luôn bị bất cân, việc chi diễn ra nhiều hơn. Giai đoạn 2016-2020, chính phủ nước ta cũng đã chi ra 48.397 tỷ đồng để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, với các chính sách hỗ trợ như: Chương trình 30a; Chương trình 135; Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, đa dạng hóa sinh kế, nhân rộng mô hình giảm nghèo; Dự án truyền thông, thông tin; Dự án nâng cao năng lực và giám sát, đánh giá, nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, miền, cải thiện đời sống cho người dân vùng khó khăn. Ngoài ra, còn có các chính sách giảm nghèo thường xuyên, như chính sách hỗ trợ y tế, giáo dục, nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sạch, vệ sinh, thông tin, hỗ trợ tín dụng, pháp lý… Các chính sách trợ giúp xã hội đột xuất được ban hành, hỗ trợ tích cực cho các gia đình gặp hoàn cảnh rủi ro, thiên tai, lũ lụt… sớm ổn định cuộc sống, hạn chế rơi vào tình trạng nghèo hoặc tái nghèo.

Khi hộ nghèo được giảm nghèo bền vững, ngân sách Nhà nước được giảm đi cho các hoạt động hỗ trợ về điều kiện sản xuất, các thiết yếu cuộc sống về giáo dục, y tế…

Thứ ba, gia tăng lợi ích dịch vụ và phúc lợi xã hội

Việc thoát nghèo giúp người dân chuyển từ cần – đủ – điều kiện, từ đủ ăn đủ mặc sang ăn chắc mặc bền tiếp đến ăn ngon mặc đẹp. Điều này phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội, khi hộ nghèo được thoát nghèo bền vững họ có điều kiện được tiếp cận các dịch vụ xã hội cũng như phúc lợi xã hội một cách tốt hơn cũng như thời gian tiếp cận của họ dài hơn, đáp ứng được mục tiêu xã hội hóa, đời sống được đảm bảo và nâng cao về vật chất lẫn tinh thần.

Thứ tư, thu hẹp khoảng cách chênh lệch xã hội

Giàu – nghèo là khoảng cách lớn trong xã hội, gây mất công bằng xã hội. Việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững giúp hộ nghèo thoát nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo về mức sống, thu nhập, sự phân hóa giữa đồng bằng, nông thôn hay vùng núi…tạo điều kiện cho việc hội nhập quốc tế, khai thác tối ưu con người trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.

1.2.3. Nội dung chính sách về giảm nghèo bền vững

1.2.3.1. Xây dựng, ban hành và quy hoạch các điều kiện để thực hiện chính sách

Việc xây dựng, ban hành và quy hoạch các điều kiện để thực hiện chính sách được các Bộ và các cơ quan ngang bộ ban hành mang tầm vĩ mô dựa trên điều kiện thực tế.

Các đơn vị quản lý nhà nước tại địa phương có chức năng tham mưu cho cấp trên trong việc ban hành các chính sách thông qua việc lập kế hoạch định hướng phát triển kinh tế – xã hội định kỳ 05 năm/01 lần.

1.2.3.2. Xây dựng chương trình, dự án hỗ trợ và phát triển đối với hộ nghèo

Xác định người nghèo họ thiếu gì và nguyên nhân của nghèo để xây dựng chương trình, dự án hỗ trợ thoát nghèo và chống tái nghèo (gọi chung là giảm nghèo bền vững). Người nghèo tức họ có thu nhập thấp và họ không có các điều kiện để phát triển, không được tiếp cận các dịch vụ xã hội, vì vậy chính sách giảm nghèo tập trung ở lĩnh vực trọng điểm sau:

– Các chính sách tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất tăng thu nhập

+ Hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình 135

+ Hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc chương trình 30a

+ Hỗ trợ phát triển sản xuất thuộc dự án xây dựng và nhân rộng, mô hình giảm nghèo

+ Hỗ trợ Giống Vật tư, Phân bón Theo QĐ 102/2009/ QĐ-TTg

– Các chính sách tạo điều kiện để người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản

+ Hỗ trợ về giáo dục và đào tạo

+ Hỗ trợ về y tế và dinh dưỡng

– Hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý

– Hỗ trợ người nghèo hưởng thụ văn hóa, thông tin

Tinỗ trợthực hiện tốt chương trình đưa văn hóa, thông tin về cơ sở; đa dạng hóa các hoạt động truyền thông, giúp người nghèo tiếp cận các chính sách giảm nghèo, phổ biến các mô hình giảm nghèo có hiệu quả, gương thoát nghèo.

1.2.3.3. Thực hiện các chính sách giảm nghèo

Thực hiện truyền thông về giảm nghèo

Nhân rộng các mô hình giảm nghèo

    1. 1.3. Quy trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững

Để chính sách giảm nghèo bền vững được thực hiện được hiệu quả thì cần có một quy trình thống nhất và đi theo từng bước với những cá nhân, tổ chức thực hiện hài hòa, thống nhất với nhau. Quy trình thực hiện phải mang tính logic, khoa học và thực tế.

Chính sách đã thực hiện ra sao?

Kiểm tra, đánh giá

Thực tế vấn đề tại địa phương

Phân tích, xây dựng kế hoạch

Thực hiện kế hoạch

Nguồn lực nào? Áp dụng ra sao?

Truyền tin

Làm thế nào để chính sách được tiếp cận rộng rãi

1. Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách

2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách

4. Phối hợp thực hiện thực hiện truyền chính sách

3. Chuẩn bị các nguồn lực thực hiện truyền chính sách

5. Kiểm tra, đánh giá thực hiện chính sách

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cho rằng để chính sách giảm nghèo bền vững hiệu quả thì cần phải thực hiện các bước theo mô hình trên và cụ thể như sau:

Bước 1: Xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách

Các cơ quan ban ngành từ trung ương đến địa phương xây dựng kế hoạch cụ thể trên tinh thần đề xuất hướng giải quyết tình hình thực tế địa phương đang diễn ra và nhu cầu thực tiễn, dự báo kết quả đạt được sau khi đáp ứng được nhu cầu. Kế hoạch phải đảm bảo các yếu tố về nhân lực, vật lực và dựa trên điều kiện thực tế để áp dụng. Nội dung kế hoạch triển khai có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, những quy định khi vi phạm cũng như khen thưởng khi hoàn thành, và trên kế hoạch phải hướng đến chủ thể được thực hiện.

Bước 2: Thực hiện phổ biến, tuyên truyền về chính sách

Khi kế hoạch cụ thể về chính sách được thống nhất và đạt sự đồng thuận trong các cấp quản lý thì việc tuyên truyền, phổ biến chính sách đến người dân là việc làm cần thiết. Thông qua việc tuyên truyền, phổ biến giúp chính sách được triển khai rộng rãi, người dân nắm bắt được ý nghĩa, yêu cầu điều kiện cũng như tính đúng đắn của chính sách. Việc tuyên truyền, phổ biến giúp cho các ban ngành thu thập được ý kiến người dân một cách chính đáng hơn, tính khả thi khi vận dụng trong đời sống.

Việc tuyên truyền, phổ biến cần thực hiện liên tục, rộng rãi trên các phương tiện đại chúng: Niêm yết trên các bảng thông báo, loa, đài.. và tổ chức tiếp xúc trực tiếp với đối tượng là chủ thể của chính sách.

Bước 3: Chuẩn bị các điều kiện (nguồn lực) khi thực hiện chính sách

Nguồn lực thực hiện bao gồm: nhân lực và vật lực.

Về nhân lực: Đó chính là đội ngũ thực thi chính sách đến với người dân. Đội ngũ này đóng vai trò là người truyền tin, hướng dẫn và xử lý, đó là các cán bộ, đội ngũ nhân sự được phân công đối với chính sách thực hiện. Tuy nhiên, để làm tốt thì đội ngũ này cần được đào tạo và đáp ứng về năng lực, trình độ chuyên môn.

Về vật lực: Bao gồm về tài chính, các yếu tố tác động ảnh hưởng đến chính sách như công nghệ khoa học, tiềm năng tài nguyên.

– Tài chính: Đây là yếu tố tiên quyết, quyết định mọi chính sách có thực hiện được hay không? Tối ưu hay hiệu quả không? Chủ thể của chính sách là người nghèo vì vậy nguồn tài chính tác động trực tiếp, đảm bảo về tài chính thì mới tháo gỡ đúng nhu cầu của chủ thể, và chính sách có thể thực hiện ở tầm như thế nào: Vĩ mô hay vi mô, khu vực nhỏ hay khu vực cả nước. Nhà nước tạo điều kiện về vốn tài chính thông qua cung cấp vốn với các điều kiện ưu đãi (lãi suất vay, thời gian vay…) gắn với hỗ trợ xây dựng phương án sử dụng hiệu quả vốn vay, đảm bảo hoàn trả được vốn vay và có lãi để có thể tiếp tục duy trì sinh kế.

Để đảm bảo chính sách được thực hiện, tài chính có thể được huy động dưới nhiều nguồn: Viện trợ, đi vay, ngân sách nhà nước, nhà nước và nhân dân cùng làm, các tổ chức – đơn vị trong xã hội (mạnh thường quân)

– Công nghệ khoa học: Đây là nhân tố tác động không nhỏ, bởi xu hướng hiện đại theo công nghệ 4.0. Sự bắt kịp xu hướng này với xu hướng phát triển của thế giới giúp kinh tế có tăng trưởng, đời sống vật chất – tinh thần tăng cao, bên cạnh đó việc công nghiệp hóa – hiện đại hóa đang dần thay thế sức lực con người. Vì vậy, chính sách phải thỏa mãn được điều này, tri thức làm chủ song phải đảm bảo với yếu tố dân trí của địa phương.

– Tài nguyên thiên nhiên: Đây là tiềm năng có vai trò hỗ trợ nhưng tác động mạnh đến chính sách. Khi ban hành chính sách yếu tố tài nguyên thiên nhiên được đặt ra, chính sách đó khai thác được gì ở nguồn tài nguyên, nguồn tài nguyên ảnh hưởng ra sao. Chẳng hạn: Lượng nước, khoáng sản, khí hậu, đất đai… tác động đến vụ mùa, phát triển kinh tế địa phương hình thành ở nghề nghiệp….

Bước 4: Phối hợp thực hiện chính sách

Chính sách ban hành không thể một cá thể thực hiện, chính sách phải tác động lên nhiều mặt của xã hội và chính điều này cần có sự phối hợp giữa các đơn vị, tổ chức, ban ngành và các cấp chính quyền. Sự phân công phối hợp đảm bảo nguyên tắc: đơn vị chủ trì, đơn vị thực hiện và giữa các đơn vị luôn gắn kết, lựa chọn các phương án tối ưu đảm bảo cho sự thi hành chính sách được tốt nhất. Chủ thể chính sách nắm bắt được họ cần gặp ai để giải quyết vấn đề, tổ chức, đơn vị nào giúp họ thực thi những điều đó tiếp theo. Đây chính là mạng lưới xã hội của Nhà nước, trong đó các tổ chức chính trị – xã hội (Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên…) có vai trò quan trọng trong việc vận động trong tổ chức các hoạt động về giảm nghèo ở địa phương.

Bước 5: Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chính sách

Công tác này thực sự quan trọng, giúp các ngành, các bộ nhìn nhận chính sách đã thực hiện đến đâu? Hiệu quả ra sao? Trên cơ sở đánh giá để nhìn nhận những mặt làm được và rút ra những yếu kém, hạn chế. Đồng thời công tác này giúp địa phương có sự họ hỏi lẫn nhau khi thực hiện chính sách.

Công tác đánh giá kiểm tra nhằm đánh giá tính khả thi chính sách, bao nhiêu chủ thể đã được tác động và thay đổi từ chính sách, trong quá trình thực hiện có đơn vị, cá nhân nào sai phạm hay đã có những hiệu ứng tích cực như thế nào?

Việc kiểm tra vừa giúp chính sách được từng bước hoàn thiện và có mang tính dân chủ, khách quan.

    1. 1.4. Chính sách giảm nghèo bền vững ở Việt Nam

1.4.1. Quan điểm giảm nghèo bền vững

Xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững trong suốt thời gian qua luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và là mục tiêu chương trình quốc gia. Việc tiến tới một đất nước phồn thịnh và văn minh thì tiên quyết là không có đói nghèo. Nhìn nhận vĩ mô trong công tác xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững, vì vậy qua các kỳ đại hội, quan điểm về vấn đề xóa đói, giảm nghèo và giảm nghèo bền vững từng bước được xác lập, làm rõ và tiếp cận một cách khoa học, toàn diện hơn.

Các quan điểm thay đổi như sau:

Trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996) nhấn mạnh: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, không để diễn ra chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư” [10].

Quan điểm này được duy trì qua các kỳ đại hội và đến năm 2001 có sự thay đổi, trong báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời ra sức xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện về cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất để các vùng, các cộng đồng đều có thể tự phát triển, tiến tới thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội” [11].

Và đến năm 2011 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng có sự đột phá mới, quan niệm về giảm nghèo đã xác định đến việc giảm nghèo bền vững, trong báo cáo chính trị đã nêu: “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn” [12]. Và trong đại hội này, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011- 2020 và phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012- 2015.

Ngày 15/9/2015, Thnày, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011- 2020 và pđơn chi/9 sang đa chi15, Thnày, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèp với thế giang

Trên cơ schi15, Thnày, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 về định hướng giảm nghèp với thếg thời kỳ từ năm 2011- 2020 và phê duyệt Chương biệt khó khăn” tế, văn hoá, x

Đến năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, đã tiếp tục nhấn mạnh: “Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả và tiếp cận phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản” [13].

Có thể nói, quan niệm về giảm nghèo thay đổi theo từng thời điểm phát triển của xã hội nhằm bắt kịp với tiến trình phát triển chung của thế giới. Hiện nay, giảm nghèo được thực hiện trong “Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 – 2020” (Thực hiện theo Quyết định số 1722-QĐ/TTg, ngày 02/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ

1.4.2. Các chính sách giảm nghèo đã thực hiện

Chính sách giảm nghèo là minh chứng cho quan điểm được cụ thể hóa về giảm nghèo của Chính phủ. Chính sách giảm nghèo là tập hợp các quyết định của Chính phủ, đưa ra các giải pháp, công cụ để giải quyết các vấn đề để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần đối với người nghèo, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của đất nước.

1.4.2.1. Các giai đoạn thực hiện chính sách

Chính sách giảm nghèo ở nước ta được thành các giai đoạn sau:

– Giai đoạn 1998 – 2000: Với 2 chương trình sau:

“Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn 1998- 2000” bao gồm cả công tác định canh, định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo.

Quyết định 135/1998/QĐ-TTg là chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa.

– Giai đoạn 2001- 2005:

“ Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005” bao gồm có các chính sách và nhóm dự án.

Các chính sách gồm: Chính sách hỗ trợ về y tế; Chính sách hỗ trợ về giáo dục; Chính sách an sinh xã hội và trợ cấp các đối tượng yếu thế; Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở; Chính sách hỗ trợ công cụ và đất đai sản xuất cho người nghèo.

Dự án thuộc Chương trình gồm: Dự án Tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát triển sản xuất, kinh doanh; Dự án Hướng dẫn cho người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; Dự án Xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng đặc biệt; Dự án Xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo; Dự án Hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo; Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác xoá đói giảm nghèo và cán bộ các xã nghèo; Dự án ổn định dân di cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở các xã nghèo (bao gồm: ổn định dân di cư tự do, di dân xây dựng vùng kinh tế mới, phân bố lại dân cư theo quy hoạch; các dự án của chương trình 773 cũ thuộc ngành nông nghiệp theo quy định của Thủ tướng Chính phủ tại văn bản số 1123/CP-NN ngày 06/12/2000 về việc chuyển dự án thuộc chương trình 773); Dự án Định canh định cư ở các xã nghèo.

Ngoài ra, còn có các dự án về việc làm gồm: Dự án Tổ chức cho vay vốn theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm thông qua Quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm; Dự án Nâng cao năng lực và hiện đại hoá các Trung tâm dịch vụ việc làm; Dự án Điều tra, thống kê thị trường lao động và xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động; Dự án Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác giải quyết việc làm.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\NGUYEN THI DIEM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *