Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên đại bàn

Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên đại bàn

Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên đại bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chất lượng nguồn nhân lực ngày nay vốn dĩ là một trong các yếu tố cốt lõi trong việc quyết định năng lực cạnh tranh của bất kỳ quốc gia. Mà trong đó, nội dung của đào tạo nghề đóng một vai trò rất quan trọng để gia tăng chất lượng nguồn nhân lực.

Sự nghiệp cách mạng ở mọi thời kỳ lãnh đạo, Đảng ta luôn đề cao việc đánh giá vai trò quan trọng của thanh niên, nên ngay từ đầu Đảng ta đã chú trọng xây dựng và tổ chức chiến lược giáo dục, bồi dưỡng thanh niên để trở thành lực lượng nòng cốt nhằm kế tục sự nghiệp phát triển cách mạng. Trong thời kỳ đổi mới, thanh niên hiện là chủ thể trung tâm của chiến lược giáo dục, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực. Nên nhiệm vụ chăm lo chiến lược quan trọng này chẳng những là mục tiêu, mà còn là động lực rất quan trọng để bảo đảm sự ổn định, phát triển nhanh và bền vững của quốc gia.

Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta đã khẳng định ba đột phá trong chiến lược phát triển của Việt Nam cho những năm tới, đó là: (1) Cải cách hành chính; (2) Xây dựng đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế; (3) Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu của công cuộc đẩy mạnh CNH-HĐH và hội nhập quốc tế của nước ta. Vì vậy, khâu đột phá về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có ý nghĩa quyết định trong chiến lược phát triển quốc gia.

Trước yêu cầu đất nước đẩy mạnh CNH-HĐH trong thời đại công nghệ số (công nghệ 4.0); cùng với giai đoạn cơ cấu dân số vàng có sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng thanh niên, nên đặt ra yêu cầu cấp thiết của công tác chăm lo giáo dục, bồi dưỡng và phát triển nhân lực để phát huy tối đa vai trò của thanh niên hiện nay nhằm xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN, trong đó các vấn đề lao động và việc làm cho thanh niên là một trong những nhiệm vụ cần phải quan tâm hàng đầu. Hơn nữa, đào tạo nghề cho thanh niên và thế hệ trẻ vốn đang là vấn đề xã hội mà các quốc gia đều phải coi trọng nếu muốn phát triển chiến lược. Theo đó, thực hiện đào tạo nghề là chính sách lớn, chính sách đòn bẩy cho sự phát triển bền vững kinh tế. Bởi hiệu quả của đào tạo nghề luôn gắn hữu cơ với quá trình chuyển dịch hợp lý cơ cấu lao động và chuyển dịch tích cực cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia. Nên đối với nước ta, chính sách đào tạo nghề đang là nhiệm vụ cấp thiết.

Bước sang thế kỷ XXI, với những cơ hội và thách thức, trên cơ sở nhìn nhận sâu sắc những ưu điểm và những biểu hiện phức tạp của thanh niên hiện nay, Nghị quyết đại hội XI của Đảng đã xác định làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ. Cổ vũ, khích lệ các thế hệ thanh niên nuôi dưỡng hoài bão và ước mơ lớn, tiên phong xung kích, dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm, chủ động nghiên cứu sáng tạo để từng bước làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại, nhằm hình thành nên lớp thế hệ trẻ thanh niên ưu tú trên mọi mặt, trung thành và kế tục xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc ta, góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tập trung và tạo sức hút rộng rãi thế hệ trẻ thanh thiếu niên và nhi đồng tham gia tích cực vào tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.

Đối với khu vực nông thôn, nhiều năm qua đã có nhiều chính sách về phát triển nguồn nhân lực nông thôn đã được Đảng và Nhà nước ta ban hành và triển khai. Trong đó, huyện Hiệp Đức của tỉnh Quảng Nam cũng đã được thụ hưởng sự đầu tư của chính sách đó đối với các cơ sở dạy nghề, chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, nhờ đó nhiều cơ hội việc làm tại huyện được tạo ra để giải quyết lao động tại chỗ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giảm sức ép lao động di chuyển tự do về các thành phố lớn, phân bố cơ cấu lao động hợp lý hơn, giảm các tệ nạn xã hội, giữ gìn nét đẹp truyền thống văn hóa làng xã, góp phần củng cố hệ thống ở nông thôn. Với điều kiện hiện tại của Hiệp Đức là một huyện miền núi, nằm cách thành phố Tam Kỳ 40 km về phía Tây, cách thành phố Đà Nẵng 50 km về phía Nam; có Quốc lộ 14E đi qua và cách Quốc lộ 1A khoảng 35 km về phía Tây, có diện tích tự nhiên là 496,88 km2 ; có 12 xã, thị trấn với 46 thôn, khối phố. Với diện tích đồi núi chiếm hơn 80% tập trung chủ yếu ở ba mặt: phía Bắc, phía Nam và phía Tây của Hiệp Đức. Còn lại là dạng đồng bằng thung lũng, phân bố ven các chân đồi núi và tập trung nhiều ở phía Đông, tổng dân số toàn huyện là 46.491 người (năm 2019), trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 10% so với dân số toàn huyện; số người trong độ tuổi lao động là 26.692 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng dần qua hằng năm, năm 2008 tỷ lệ lao động qua đào tạo của huyện chỉ đạt 7% đến năm 2019 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 53,75%.

Bước vào đầu nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX (2020-2025) trong tình hình đất nước đang xây dựng một nước công nghiệp theo hướng hiện đại từ một nền kinh tế đang phát triển, mức sống nhân dân còn thấp. Để đạt được mục tiêu xây dựng một nước công nghiệp hiện đại thì cần có một lực lượng lao động có tri thức, có năng lực sáng tạo, có kỹ năng thực hành, có tay nghề cao thông qua công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm được xem là nhiệm vụ trọng tâm góp phần giảm nghèo bền vững và một trong các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội được Huyện ủy, HĐND&UBND đặc biệt quan tâm, được cộng đồng xã hội tham gia, hưởng ứng.

Chính vì thế công tác quản lý Nhà nước về tạo việc làm, định hướng nghề nghiệp, giải quyết tình trạng thất nghiệp cho thanh niên hiện nay ở huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam là nhiệm vụ cần thiết. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ này, cần sự chung tay và vào cuộc đồng bộ của các ngành, các cấp và nhiều chủ thể liên quan cùng tích cực tham gia là yêu cầu đòi hỏi tất yếu khách quan. Xuất phát từ thực tiễn khách quan đó, tôi lựa chọn đề tài Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên đại bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách đào tạo nghề cho thanh niên; phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam; đề xuất một số giải pháp thực hiện chính sách về đào tạo nghề cho thanh niên ở huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam phù hợp và hiệu quả hơn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để góp phần làm rõ mục đích đề ra, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau:

– Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về chính sách đào tạo nghề cho thanh niên, trong đó có chính sách đào tạo nghề đối với thanh niên ở Việt Nam hiện nay;

– Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam;

– Đề xuất các giải pháp trong thực hiện chính sách chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam phù hợp và hiệu quả hơn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở huyện Hiệp Đức.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

* Về không gian: Phạm vi của huyện Hiệp Đức (Quảng Nam).

* Về thời gian: Giai đoạn 2015-2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận Mác-xít – Chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước… để nghiên cứu đào tạo nghề cho thanh niên.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp từ kết quả khảo sát thực tế thông qua phiếu thăm dò ý kiến là 180 phiếu tại địa bàn 06 xã, thị trấn trong huyện nhằm nắm được nhu cầu đào tạo nghề và việc làm của thanh niên; tại địa bàn huyện; đồng thời hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu sẵn có từ các nguồn tài liệu chính thức, từ các công trình nghiên cứu của các tác giả đã nghiên cứu trước đây, các bài viết, tạp chí, sách báo, internet,…từ các báo cáo của cơ quan chức năng huyện Hiệp Đức về các vấn đề có liên quan đến đào tạo nghề cho thanh niên; nghiên cứu chính sách công kết hợp giữa nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tế.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Ý nghĩa lý luận của luận văn thể hiện thông qua việc hệ thống hóa góp phần hoàn thiện làm rõ một số cơ sở lý luận thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên nói chung và cho thanh niên huyện Hiệp Đức (Quảng Nam) nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu cung cấp thêm một số cơ sở luận cứ khoa học và luận cứ thực tiễn trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách đào tạo nghề cho thanh niên, góp phần giải quyết tốt hơn vấn đề lao động việc làm thông qua đề xuất giải pháp thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở huyện Hiệp Đức (Quảng Nam).

7. Kết cấu của luận văn

Bên cạnh các mục mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung của luận văn với 3 chương sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam hiệu quả hơn.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO NGHỀ CHO THANH NIÊN

1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

1.1.1. Các khái niệm

– Khái niệm nghề

Có khá nhiều diễn đàn về khái niệm nghề. “Nghề” có thể hiểu là một hình thức được thể hiện bằng các kiến thức lý thuyết đã học tập và thực hành nhằm đáp ứng hoàn thành căn bản các công việc nhất định.

“Nghề” còn được hiểu là một hoạt động lao động, mà trong quá trình được đào tạo người học đã được trang bị các kiến thức và kỹ năng thực hành để làm ra sản phẩm nhằm đáp ứng được nhu cầu thực tiễn xã hội.

Nghề bao gồm nhiều chuyên môn khác nhau. Mỗi một chuyên môn là một hệ thống về kiến thức và kỹ năng ở một lĩnh vực cụ thể nhất định. Nói cách khác, nó đó là một lĩnh vực lao động ngày càng chuyên sâu, người lao động thông qua sự thể hiện năng lực, thể chất và tinh thần của họ để làm ra những giá trị sản phẩm và dịch vụ (lương thực, thực phẩm, công cụ lao động, sửa chữa, phim, ảnh, sách, báo, tranh vẽ, âm nhạc …)

– Đào tạo nghề

Đào tạo là thuật ngữ thường được sử dụng cùng với giáo dục, song đây là hai phạm trù có sự khác nhau ở nhiều điểm.

Trong khi “giáo dục” được hiểu là hoạt động có sự tác động vào việc rèn luyện và phát triển nhân cách con người đầy đủ nhất (phẩm chất, đạo đức lối sống, tri thức và năng lực); nói cách khác, giáo dục là quá trình hoạt động khơi gợi những tiềm năng vốn sẵn có trong mỗi con người để hình thành và hoàn thiện hơn về phẩm chất và năng lực cá nhân của thầy giáo và học trò, nhằm đáp ứng yêu cầu về sự tồn tại và phát triển xã hội.

Còn đối với “đào tạo”: (1) “Đào tạo” theo từ điển tiếng việt được hiểu là hoạt động giúp con người hình thành nên những năng lực theo các tiêu chuẩn nhất định; (2) “Đào tạo” người lao động để giúp cho họ trang bị các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ nhất định nhằm đảm bảo hoàn thành tốt một hoặc một số công việc nhất định; (3) “Đào tạo” theo nghiên cứu của các nhà giáo dục và đào tạo Việt Nam, đó là quá trình tổ chức hoạt động có tính hướng đích để đạt được những kiến thức lý thuyết, kỹ năng và kỹ xảo áp dụng trong thực tiễn hoặc kinh nghiệm từ thực tiễn bản thân được đúc kết nhằm trang bị cho người lao động có năng lực và kỹ năng thực hiện lĩnh vực chuyên môn cụ thể.

Hay nói cách khác, đào tạo đề cập đến việc dạy các kiến thức, kỹ năng thực hành, nghề nghiệp liên quan đến một lĩnh vực cụ thể nào đó để người học nắm vững những tri thức, lĩnh hội và vân dụng được các kỹ năng nghề nghiệp một cách chính xác và có hệ thống để giúp cho người học có khả năng đảm nhận được một công việc nhất định và có thể thích nghi được với cuộc sống. Có nhiều hình thức “đào tạo” như: đào tạo; đào tạo lại; và tự đào tạo…

– Đào tạo nghề cho thanh niên

Đào tạo nghề cho thanh niên là một quá trình hoạt động đào tạo cho thanh niên có năng lực, kỹ năng làm việc có chất lượng nhằm đáp ứng và phù hợp với chỗ làm việc yêu cầu, chẳng những đảm bảo cho cả nhu cầu của lao động thanh niên và yêu cầu của người sử dụng lao động; mà còn đáp ứng được mục tiêu của quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội.

– Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên:

Chính sách công là một tập hợp những quyết định chính trị của Nhà nước để lựa chọn mục tiêu cụ thể và các công cụ, giải pháp thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn của xã hội đặt ra theo mục tiêu tổng thể đã được xác định” (TS. Đỗ Phú Hải, 2012, 2014). Chính quyển nhà nước là chủ thể duy nhất có thẩm quyền ban hành chính sách công, nên mục đích chính sách công: một mặt, vừa đảm bảo đáp ứng quyền lợi của đa số cá nhân trong xã hội; và một mặt khác, vừa phải thể hiện được quyền lực Nhà nước. Bởi vậy, Nhà nước khi đưa ra các quyết định thực hiện mục tiêu tổng thể về phát triển kinh tế – xã hội thì cũng đồng thời yêu cầu phải tính đến vai trò và khả năng của con người để hiện thực hóa các quyết định đó. Đây chính là nhân tố cốt lõi mang ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của quốc gia.

Từ định nghĩa nêu trên, chính sách đào tạo nghề cho thanh niên được hiểu là chương trình hành động cùng với các giải pháp, công cụ mà Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện để đảm bảo mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thanh niên, đáp ứng tốt nhu cầu việc làm và thị trường lao động, phù hợp với tiến trình phát triển nền kinh tế quốc gia.

1.1.2. Đặc điểm và vai trò của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

1.1.2.1. Đặc điểm của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Để thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên đạt hiệu quả, cần làm rõ một số đặc trưng của xu hướng việc làm cũng như đặc điểm của thị trường lao động.

Một là, xu hướng việc làm thanh niên

+ Lao động có trình độ thấp có xu hướng bị giảm việc làm, nhất là ở khu vực nông nghiệp và các ngành, nghề truyền thống đang bị mất dần bởi sự thay thế khi áp dụng công nghệ mới và các tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong quy trình sản xuất.

+ Các nhu cầu ở lĩnh vực về xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển các vùng kinh tế động lực, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và khu chế xuất… đang có đà xu hướng gia tăng việc làm.

Hai là, đặc điểm thị trường lao động

+ Nguồn cung lao động có xu hướng gia tăng lớn và đa dạng ở nhiều lĩnh vực, song cầu lao động lại có xu hướng chọn lọc – nhất là cầu lao động có trình độ chất lượng cao tăng mạnh.

+ Lao động đã qua đào tạo nghề thường chiếm tỷ lệ nhỏ, trong khi đào tạo nghề nghiệp chưa có sự chuẩn bị thấu đáo, biểu hiện là một tỷ lệ đáng kể thanh niên chưa có điều kiện thuận lợi trong tiếp cận cơ hội đào tạo nghề phù hợp để tham gia thị trường lao động.

+ Hệ thống đào tạo nghề còn đang gặp phải một số bất cập/ chưa ăn khớp trước yêu cầu của thị trường lao động, dẫn đến những khó khăn về khả năng hội nhập tham gia thị trường lao động của thanh niên.

+ Thanh niên còn chưa đầu tư nhiều thời gian tích luỹ kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp, nên họ thường đối mặt với cạnh tranh gay gắt trong quá trình tham gia thị trường lao động.

1.1.2.2. Vai trò của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Một là, xuất phát từ vai trò của thế trẻ nói chung và thanh niên nói riêng vốn là lực lượng đông đảo trong cộng đồng xã hội, họ có thế mạnh của sức trẻ với tinh thần tiên phong, với lòng nhiệt huyết, tính năng động và sáng tạo của thanh niên. Đây là một trong các nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc quyết định tương lai và vận mệnh của dân tộc.

Hai là, tình trạng người lao động hiện nay vừa thừa vừa thiếu trước áp lực rất lớn của việc làm cũng như yêu cầu ngày càng cao về việc làm. Lẽ ra với sự đầu tư phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất… ngày càng tăng mạnh thì nhu cầu tăng lên đối với việc sử dụng lao động tại chỗ, nhưng trên thực tế vấn đề thất nghiệp đang là áp lực lớn bởi nó không giảm đi. Lý do chủ yếu đó là: đất sản xuất nông nghiệp có xu hướng bị thu hẹp dần và tình trạng nông nhàn xuất hiện tăng lên; trong khi quá trình cơ cấu nhân lực chuyển dịch chậm bởi trình độ lao động chưa đáp ứng yêu cầu hiện có, khiến thất nghiệp ngày một tăng đối với người trong độ tuổi lao động.

Ba là, thực tiễn những năm qua xác nhận rằng, đối với lao động trẻ có tay nghề trình độ cao, có óc tìm tòi sáng tạo, có tính năng động và biết thích ứng nhanh trước môi trường điều kiện luôn biến đổi thì vẫn đảm bảo việc làm. Ở khía cạnh đào tạo nghề cho thanh niên – nếu được chú trọng đúng mức sẽ tạo thuận lợi về khả năng thích nghi môi trường việc làm, bảo đảm quan hệ hài hòa trong tập thể đồng nghiệp lao động, cũng như tạo mối quan hệ tích cực giữa lao động trẻ với chủ doanh nghiệp.

Bốn là, đào tạo nghề cho thanh niên là cơ sở bảo đảm về việc phân bổ lại lao động trẻ tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh trước yêu cầu sắp xếp, đổi mới lại các doanh nghiệp. Ở nước ta, mặc dù hiện vẫn đang tái sắp xếp và đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp khiến cho không ít lao động trẻ bị mất việc làm. Song trước nhiều cơ hội khởi nghiệp được khuyến khích cũng như việc cho phép thành lập các doanh nghiệp mới được mở rộng đã góp phần giải quyết việc làm mới cho lao động trẻ. Hiện nay, tỷ trọng về cơ cấu lao động trẻ trong nhiều thành phần kinh tế, nhiều ngành nghề ở các khu vực địa bàn đang dịch chuyển dần theo hướng hợp lý và thích ứng tình hình phát triển mới.

Có thể khẳng định rằng, đào tạo nghề cho thanh niên trên cơ sở quy hoạch tốt với chương trình kế hoạch triển khai hợp lý thì sẽ đem lại sự tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội cũng như giúp cho thanh niên trưởng thành trong lao động. Song một khi nếu thiếu sự quan tâm xây dựng quy hoạch, kế hoạch và không giải quyết hợp lý thì khiến cho tâm lý thanh niên dễ rơi vào thói quen trông chờ, ỷ lại, thiếu ý chí tiến thủ để phấn đấu, thờ ơ chính trị và lãnh cảm xã hội, chạy theo lối sống vì tiền, sa vào tệ nạn xã hội, không tôn trọng pháp luật và các chuẩn giá trị văn hóa truyền thống dân tộc.

1.1.3. Nội dung cơ bản của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quá trình thực hiện chính sách về đào tạo nghề cho thanh niên, nội dung của chính sách này gốm có:

Một là, ban hành và tổ chức triển khai thực hiện chiến lược, chính sách đào tạo nghề cho thanh niên.

Hai là, thông tin cập nhật về tình hình lao động – việc làm cho thanh niên.

Ba là, đào tạo nghề gắn kết hữu cơ với nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương.

Bốn là, tổ chức đào tạo những ngành nghề và tư vấn định hướng nghề nghiệp cho thanh niên.

Năm là, quản lý tổ chức hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm, các trung tâm dịch vụ việc làm; xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ quản lý về công tác tạo việc làm cho thanh niên.

Sáu là, phối hợp công tác giữa cơ quan QLNN với các tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp của TN, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong việc giải quyết việc làm; thực hiện sự liên kết hợp tác quốc tế về giải quyết việc làm nhằm mở rộng các cơ hội tạo việc làm cho thanh niên.

1.1.4. Quy trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

Bước 1: Công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện chính sách;

Bước 2: Công tác thông tin, tuyên truyền, thống kê và giám sát;

Bước 3: Tạo việc làm thông qua chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội tại địa phương;

Bước 4: Tổ chức đào tạo các ngành nghề, định hướng nghề cho thanh niên;

Bước 5: Phối hợp công tác giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức, doanh nghiệp trong giải quyết việc làm, hợp tác quốc tế về việc làm, đào tạo nghề;

Bước 6: Kiểm tra, thanh tra quá trình tổ chức thực hiện, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về việc làm, đào tạo nghề.

1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng quá trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

– Xu hướng lựa chọn nghề nghiệp cho thanh niên hiện nay

Thực tiễn đã xác nhận rằng, hiện đang có nhiều mâu thuẩn giữa định hướng nghề nghiệp của thanh niên so với yêu cầu về việc làm, giữa yêu cầu sử dụng lao động với mục tiêu đào tạo nghề. Hội chứng “thừa thầy, thiếu thợ” đang còn diễn ra từ nhiều năm qua, hiện vẫn chưa giải quyết được thấu đáo. Một số kết quả điều tra xã hội học cũng phản ánh xu hướng của thanh niên hiện nay, bởi: Có đến 86,5% thanh niên đến tuổi lao động là đều muốn học đại học, cao đẳng – trong đó biểu hiện rõ rệt ở nhóm đối tượng là thanh niên viên chức, học sinh, sinh viên; 57% có nhu cầu đi học nghề (trong số này có 71,7% lao động thanh niên nông thôn có nguyện vọng học nghề) và 41,2% có nhu cầu đi lao động xuất khẩu.

Điểm chú ý là có khá ít thanh niên chiếm 11,5% chỉ lựa chọn lĩnh vực nghiên cứu khoa học và 12,4% lựa chọn lĩnh vực hoạt động chính trị mà thôi. Một số kết quả được thống kê cũng cho thấy rằng, những ngành tài chính, ngân hàng, kế toán, quản trị kinh doanh… là các lĩnh vực ngành vẫn thu hút được nhiều thí sinh tham gia dự thi tuyển và đăng ký nhập học. Còn những lĩnh vực ngành khoa học cơ bản, nhất là với những ngành thuộc khối khoa học xã hội, sư phạm và các ngành như cơ khí, lâm nghiệp, kỹ thuật … thì có rất ít thí sinh tham gia dự thi tuyển và đăng ký nhập học.

Cách mạng công nghệ 4.0 đã và đang tạo ra dấu ấn của bước ngoặc căn bản trong quá trình chuyển đổi các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất, dẫn theo những yêu cầu mới ngày càng cao đối với cả cấu trúc nghề nghiệp cũng như đối với trình độ, năng lực, kỹ năng và phẩm chất cần có của lực lượng lao động, tất yếu này đòi hỏi quá trình đào tạo nghề phải không ngừng đổi mới để đáp ứng. Cách mạng 4.0 với lượng thông tin có tốc độ phát triển bùng nỗ như hiện nay cũng tất yếu đặt ra yêu cầu khách quan đối với phương thức giáo dục nghề nghiệp phải đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng đa dạng hóa để phù hợp và mang lại hiệu quả.

Trình độ phát triển kinh tế của địa phương

Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều yếu tố tác động đến tạo việc làm như: vốn, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát triển kinh tế – xã hội, tốc độ tăng dân số, trình độ quản lý, trình độ và kỹ năng của người lao động… Trong đó trình độ phát triển kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định đến việc tạo việc làm cho người lao động nói chung và lao động TNNT nói riêng.

Quá trình đánh giá áp sát với thực tiễn trình độ phát triển và đặc điểm kinh tế – xã hội là cấp thiết, bởi nó là cơ sở cung cấp luận cứ thuyết phục trong hoạch định chính sách, quy hoạch và chương trình kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội. Vì vậy, yêu cầu cần thiết đối với những nội dung và các giải pháp vĩ mô cần phải chú trọng đến các ngành, lĩnh vực có tiềm năng lợi thế so sánh cũng như sức hút của nó đối với nhiều lao động; yêu cầu phải tính tới những lĩnh vực ngành có lợi thế trong việc tạo ra các giá trị gia tăng cao. Đây cũng chính là cơ sở cho quá trình hoạch định chính sách việc làm, nhất là đối với lao động trẻ…

Nền kinh tế phát triển ở trình độ cao thường yêu cầu về một cơ cấu kinh tế được thiết lập hợp lý giữa các ngành: dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp, mà trong số đó ngành công nghiệp và dịch vụ được yêu cầu phải chiếm tỷ trọng cao và chi phối hơn so với tỷ trọng ngành nông nghiệp;.Hơn nữa, với một nền kinh tế phát triển ở trình độ cao sẽ đẩy nhanh quá trình phân ngành ở từng lĩnh vực, từ đó mà tạo ra các ngành nghề đa dạng hơn nhằm đáp ứng nhu cầu lao động ở nhiều cấp trình độ, nhờ đó mở ra cơ hội và điều kiện khuyến khích người lao động luôn phải nâng cao trình độ và năng lực để đáp ứng công việc yêu cầu kỹ thuật cao. Ở khía cạnh ngược lại, nếu một khi kinh tế – xã hội chậm phát triển thì sẽ tồn tại một cơ cấu kinh tế lạc hậu diễn ra và rất khó để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vì trong đó cơ cấu sản xuất nông nghiệp thường là có tỷ trọng chi phối lớn và các ngành nghề kém phát triển, hiện tượng nông nhàn và lực lượng lao động thất nghiệp diễn ra kéo dài.

Tác động ảnh hưởng bởi cơ chế và các chính sách kinh tế – xã hội

Đối với cơ chế và các chính sách kinh tế – xã hội như: chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thu hút FDI, chính sách phát triển vùng kinh tế biển – đảo, hay là vùng kinh tế trọng điểm… thì chúng đều có sự tác động ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình tạo việc làm cho người lao động nói chung và lao động nông thôn nói riêng. Điển hình nhất là những chính sách dạy nghề và tạo việc làm của Chính phủ thì đều tác động một cách trực tiếp tới lực lượng lao động trong việc tạo nhiều hay ít về cơ hội việc làm. Những năm gần đây, Chính phủ đã phê duyệt nhiều chính sách tạo việc làm cho người lao động, tiêu biểu có: Đề án 103 của Chính phủ về “Hỗ trợ thanh niên học nghề và tạo việc làm giai đoạn 2008-2015”; chính sách dạy nghề lao động nông thôn thể hiện rõ trong Quyết định 1956/QĐ-TTg về việc giúp thanh niên thuận lợi tự tạo việc làm hoặc tìm kiếm việc làm.

Điều kiện tự nhiên và phong tục tập quán

Ở cấp địa phương, các phong tục tập quán làng xã và các tộc họ ở địa bàn nông thôn đều có ảnh hưởng trực tiếp/ gián tiếp một cách đáng kể tới quá trình tạo việc làm của thanh niên, tác động trước hết trong việc chọn nghề của thanh niên nông thôn. Bởi ở nhiều khu vực địa bàn nông thôn, các gia đình thường có tâm lý trọng việc học đại học để mở mang và làm rạng danh dòng họ; và chỉ học Đại học thì mới đem lại thành công trong cuộc sống hoặc xác định việc theo học những trường sĩ quan quân đội, công an hay sư phạm… nhằm nhận được chính sách hỗ trợ đặc biệt trong đào tạo của Nhà nước. Những tư tưởng chạy theo xu hướng này đã và đang làm cho việc chọn nghề nghiệp của thanh niên thường bị lệch lạc, tạo nên tiền lệ bằng mọi giá để có bằng cấp mà chưa tính thấu đáo về các giá trị thực chất đó là sở trường và năng lực học tập của thanh niên mới là cơ hội tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm bền vững.

Địa bàn khu vực nông thôn vốn dĩ là sản xuất thuần nông cây lúa là chủ đạo, thói quen kinh nghiệm người dân canh tác theo lịch thời vụ, nên ít đầu tư suy nghĩ, tìm tòi chuyển đổi nghề tại chỗ để tạo việc làm mới sau thu hoạch (chế biến, dịch vụ nông nghiệp). Hơn nữa, thanh niên ở nông thôn đang chịu ảnh hưởng chi phối rất lớn bởi phong tục tập quán và tâm lý của làng xã, nên một bộ phận họ thường gắn bó với quê hương, không muốn ly nông – ly hương để lập nghiệp mới nơi địa bàn xa.

Thông tin việc làm – lao động, thị trường lao động

Thông tin việc làm – lao động, thị trường lao động, đây là những điều kiện cốt yếu để kết nối cung – cầu lao động. Đối với người sử dụng lao động có nhu cầu cần tuyển và cả người lao động đang tìm việc làm đều rất cần tìm kiếm nhiều thông tin trên thị trường lao động. Với người lao động, họ cần có thông tin đầy đủ và chính xác để đăng ký chọn công việc phù hợp với khả năng chuyên môn, điều kiện của mình và với mức chi phí dịch vụ sinh hoạt rẽ. Còn với người sử dụng lao , họ thì họ cần có nhiều thông tin chính xác về ứng viên dự tuyển để phù hợp, sát với vị trí công việc mà doanh nghiệp cần cũng như tiết giảm được chi phí đầu vào. Bởi vậy, các trung tâm dịch vụ và hệ thống cung cấp thông tin về thị trường lao động tất yếu xuất hiện để hỗ trợ tích cực cho quá trình xúc tiến việc làm.

Tuy nhiên, có những khó khăn do đặc thù của địa bàn, đặc điểm của thị trường lao động nông thôn, nên rất cần có đủ thông tin chính thức cập nhật có hệ thống cho cả người tuyển dụng và người lao động. Đối với chính quyền Nhà nước, các đoàn thể chính trị – xã hội và các tổ chức xã hội – nghề nghiệp là những chủ thể cần tham gia cung cấp thông tin cập nhật và kết nối thông tin giữa người tuyển dụng và người lao động. Vì thế, tư vấn tuyển dụng, sàn giao dịch việc làm và hình thức tuyển dụng trực tiếp là những hình thức tỏ ra phù hợp với việc giải quyết việc làm cho thanh niên nông thôn.

Ngoài những yếu tố căn bản được nêu trên, còn còn một số yếu tố khác cũng tác động đến, như: mức độ hoàn thiện pháp luật về lao động việc làm và xã hội, trình độ văn minh của xã hội, quá trình đô thị hóa … có ảnh hưởng không nhỏ tới vấn đề về tạo việc làm thanh niên.

1.2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên

1.2.1. Khái quát về đặc điểm, tình hình kinh tế – xã hội huyện Hiệp Đức

Hiệp Đức là huyện miền núi của tỉnh Quảng Nam, gồm 11 xã và 01 thị trấn với tổng số dân trên 39.000 người, dân số trong độ tuổi lao động chiếm hơn 64%. Mật độ dân số trung bình 79 người/km2. Trung tâm huyện cách thành phố Tam Kỳ khoảng 60 km về phía Đông Nam; cách thành phố Đà Nẵng khoảng 80 km về phía Đông Bắc; phía Đông giáp huyện Thăng Bình; phía Tây giáp huyện Phước Sơn; phía Nam giáp huyện Tiên Phước và huyện Bắc Trà My; phía Bắc giáp huyện Quế Sơn và huyện Nông Sơn.

Tổng diện tích tự nhiên của huyện 496,88 km2. Trong đó, đất nông – lâm – thủy sản: 46.106,2 ha, chiếm 92,79% tổng diện tích tự nhiên; đất phi nông nghiệp trên 2.548 ha (chiếm 5,13%) và đất chưa sử dụng trên 1.033,3 ha (chiếm 2,08%). Hiệp Đức có địa hình ở dạng chuyển tiếp giữa trung du và miền núi, độ chênh lớn (từ 100m-200m trong khoảng 02km; nằm trong một thung lũng được bởi các dãy núi cao che chắn ở 03 phía Nam, Bắc và Tây; bị chia cắt bởi sông Tranh và hai nhánh của nó là sông Chang và sông Trường, tạo nên hệ phân thủy lớn có hướng thấp dần từ Nam sang Bắc. Núi cao được phân bố tập trung ở phía Tây – Nam và Đông – Bắc, bị chia cắt bởi hệ thống khe, suối và hợp thủy nhỏ. Toàn huyện có 03 dạng địa hình chủ yếu gồm: dạng núi (chiếm 50% diện tích tự nhiên), dạng gò đồi (35%) và đồng bằng thung lũng (15%). Về đất đai có 04 nhóm chính gồm: đất đỏ vàng, đất phù sa, đất dốc tụ và đất cồn cát, thích hợp cho phát triển lâm nghiệp, cây lâu năm, cây hằng năm, lúa nước, các loại cây hoa màu và cây ăn quả. Trong lòng đất có các loại khoáng sản như: sắt (ở xã Sông Trà), đất cao lanh (ở xã Thăng Phước, Bình Sơn); vàng sa khoáng ở ven các sông suối.

Với loại hình đất đa dạng nên thảm thực vật ở Hiệp Đức khá phong phú. Trước đây, có những khu rừng nhiệt đới nhiều tầng, cây cối cao to như; gõ, sến, lim, giổi, huỳnh, chò… Dưới cùng là tầng thảm tươi gồm các loại thân cỏ. Ngoài ra, có dây leo, cây phục sinh, cây ký sinh. Trong rừng có các loại lâm, dược sản quý như: trầm hương, sa nhân, đồ trọng, nam sâm, quế… Ở các vườn nhà, vườn đồi nhân dân còn trồng tiêu, chè, trầu, cau…Khi xưa, rừng ở khu vực Hiệp Đức có đủ các loài động vật có vú cỡ lớn như: voi, hổ, gấu, trâu rừng, lợn rừng, nai; loài cỡ vừa như: mang, khỉ, chồn, vượn… Các loài chim cũng khá phong phú như: công, trĩ, khướu đầu trắng, loan, vàng anh… Nhiều loài bò sát như: trăn, rắn, tắc kè, kỳ nhông, kỳ đà… Côn trùng như: ong, ve, giun, dế… Tuy nhiên, do bom đạn và chất độc hóa học của Mỹ rải xuống trong chiến tranh và sự khai thác bừa bãi của con người, nên nhìn chung thảm thực vật và động vật rừng ở Hiệp Đức ngày càng cạn kiệt.

Hệ thống sông, suối nhiều và phân bố không đều, lòng sông hẹp, mùa mưa lưu lượng nước tăng, mùa khô cạn kiệt. Sông chính ở đây có sông Trường được hình thành tự dãy núi Ngokelelang (Xuân Mãi), xã Phước Hiệp, huyện Phước Sơn chảy về tiếp nối với sông Tranh tại Thác Lim xã Hiệp Hòa. Sông tranh bắt nguồn từ núi Ngọc Linh, tỉnh Kon Tum, chảy qua huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước, Hiệp Đức; lưu lượng bình quân hằng năm khoảng 100m3/s, mùa khô bình quần 20m3/s, mùa lớn nhất 20.000m3/s. Đổ vào sông Tranh còn có sông Tiên (còn gọi là sông Khang và sông Ngang) và sông Khâng. Ngoài ra có nhiều sông, suối nhỏ chảy xen kẽ đổ vào sông chính. Trong mùa mưa lũ, hàm lượng phù sa trong nước của các sông Tranh, sông Trường, sông Tiên tương đối lớn. Sông Tranh và sông Thu Bồn cùng với chỉ lưu của nó tạo thành mạng lưới giao thông đường thủy thuận tiện.

Hiệp Đức có nhiều công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu, sản xuất lúa, hoa màu như: hồ chứa Việt An (ở xã Bình Lâm)- công trình thủy lợi lớn nhất huyện, hồ chứa Bình Hòa (xã Quế Bình), Tam Bảo (ở xã Quế Lưu), hồ chứa nước An Tây, Bà Sơn (ở xã Quế Thọ)… góp phần quan trọng trong phát triển ngành nông nghiệp của địa phương và một số vùng lân cận. Các loài tôm, cá nước ngọt trên sông, hồ là nguồn thủy sản để cải thiện đời sống của nhân dân. Hệ thống sông, nước ở Hiệp Đức không chỉ đóng vai trò tích cực đối với sản xuất và đời sống của nhân dân nơi đây mà còn gắn chặt với những chiến công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với những địa danh đã trở thành hình tượng bất tử trong thơ ca như: Trà Nô, Việt An, bến đò Tam cấp, ngầm sông Tranh, Hòn kẽm – Đá dừng, bến Tân An…

Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa vùng núi Trung Bộ, Hiệp Đức có nhiệt độ trung bình hằng năm khoảng 25 độ C (nhiệt độ cao nhất khoảng 39 độ C, thấp nhất khoảng 16 độ C). Sự biến thiên nhiệt độ qua các tháng chênh lệch không lớn, chế độ nhiệt tương đối đồng đều, mùa hè từ tháng 4 đến tháng 8. Tổng số giờ nắng trong năm khoảng 1.700 giờ. Gió Tây Nam thường xuất hiện vào các tháng 5, 6, 7 làm không khí nóng và khô. Lượng mưa trung bình trong năm khoảng 2.270mm. Độ ẩm không khí trung bình khoảng 80%. Gió mùa Đông Bắc thường xuất hiện vào tháng 10, 11, 12 trong năm.

Hiệp Đức có trục đường giao thông chính là quốc lộ 14E dài 34 km đi qua các xã Bình Lâm, Quế Thọ, thị trấn Tân Bình và Sông Trà; đường Đông Trường Sơn chạy qua các xã: Hiệp Hòa, Sông Trà và Phước Trà. Các tuyến đường này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh trước mắt và lâu dài mà còn mở ra cơ hội kết nối thông thường, giao lưu phát triển kinh tế xã hội khu vực miền trung – Tây nguyên. Ngoài ra, Hiệp Đức còn có tỉnh lộ 611B, nối quốc lộ 14E với thị trấn Đông Phú, huyện Quế Sơn; tỉnh lộ 614 từ Việt An (xã Bình Lâm) đi huyện Tiên Phước; tuyến đường Thắng Lợi từ tấm bia hạt Xoài (xã Quế Thọ) đi An Tráng (xã Bình Sơn) đến các xã Tiên Hà, Tiên Châu, huyện Tiên Phước. Các tuyến đường đến trung tâm xã cũng đã được nhựa hóa hoặc bê tông, tạo nên mạng lưới giao thông thuận tiện, rút ngắn đáng kể khoảng cách giữa các vừng trong huyện, góp phần phát triển kinh tế – xã hội, củng cố, nâng cao tiềm lực quốc phòng, anh ninh của địa phương.

Với đặc điểm tự nhiên đó, người dân Hiệp Đức có điều kiện để phát triển sản xuất. Sau ngày quê hương được giải phóng, dưới sựu lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân Hiệp Đức không ngừng được cải thiện. Là huyện miền núi với gần 98% dân số sống bằng nghề nông, nên nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu của địa phương. Nông dân làm ruộng thường kết hợp với chăn nuôi trâu, bò, gà, vịt, chủ yếu là chăn nuôi hộ gia đình để phát triển kinh tế. Ruộng đồng ở Hiệp Đức tuy không lớn nhưng có nhiều đồng ruộng tốt như: Hội Tường (xã Bình Lâm), Phú Cốc, Phú Bình, An Sơn, An Xá (xã Quế Thọ), Đồng Chợ (xã Hiệp Thuận), Mỹ Lưu (xã Quế Lưu).

Từ những năm 1998-2000, Đảng bộ và nhân dân Hiệp Đức tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mùa vụ cây trồng, con vật nuôi. Sản xuất nông nghiệp được bố trí, sắp xếp theo đặc thù, thế mạnh của từng vùng, gắn với tăng cường đầu tư thâm canh, cải tạo đồng ruộng, sửa đổi tập quán canh tác theo phương thức sản xuất lớn; không ngừng tìm tòi, khảo nghiệm các laoij cây giống cây trồng, con vật nuôi với nhiều mô hình sản xuất được đưa vào thử nghiệm và nhân ra diện rộng có hiệu quả. Cùng với đó, huyện đã quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu tập trung, tăng cường đầu tư xây dựng hạ tầng nông nghiệp; đào tạo, tập huấn kỹ thuật, đua khoa học công nghệ vào sản xuất, thực hiện cơ giới hóa một số khâu trong nông nghiệp… Từ đó, đã tạo được bước đột phá và làm thay đổi căn bản về chất trên lĩnh vực nông nghiệp; thúc đẩy phát triển mạnh mẽ cả về trồng trọt lẫn chăn nuôi với năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế cao.

Lâm nghiệp ở Hiệp Đức là ngành có vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế của địa phương. Từ năm 2000, ngành lâm nghiệp của huyện có bước phát triển vượt bậc và trở thành của địa phương, với hầu hết các xã đã hình thành được vùng chuyên canh cây nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến, góp phần rất lớn trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống của nhân dân.

Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp dần được phục hồi và phát triển với những sản phẩm chủ yếu như: gỗ băm dăm, sơ chế bột giấy, may mặc, mộc dân dụng, sỏi thô, đất cao lanh, nước đá, bún tươi, bánh mì, gỗ các loại, gạch nung, công cụ sản xuất.

Hoạt động thương mại – dịch vụ trên địa bàn huyện Hiệp Đức phát triển khá mạnh với các mặt hàng ngày càng đa dạng, phong phú. Chợ Hiệp Đức, Chợ Việt An được đầu tư nâng cấp khang trang, đáp ứng được nhu cầu mua bán của nhân dân. Các cơ sở kinh doanh thương mại – dịch vụ không chỉ tập trung ở thị trấn Tân An, khu vực Việt An mà còn lan tỏa dọc theo tuyến Quốc lộ 14E, đến trung tâm các xã, tạo thuận lợi cho giao lưu hàng hóa, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.

1.2.2. Thực trạng về lực lượng thanh niên ở huyện Hiệp Đức

Hiện nay số người trong độ tuổi lao động tại huyện là 26.692 người, chiếm hơn 64% dân số của huyện, tuy nhiên.công tác đào tạo nghề cho thanh niên còn nhiều bất cập và khó khăn, thiếu định hướng ngành nghề cụ thể, khó khăn trong tiếp cận việc làm, quan hệ cung cầu trong thị trường lao động cho thanh niên đang mất cân đối. Cùng với kỹ năng nghề nghiệp và trình độ học vấn, tác phong ý thức tổ chức kỷ luật vẫn còn bất cập/ hạn chế nên chưa thể đáp ứng được ngay các điều kiện theo yêu cầu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ thanh niên trên địa bàn huyện vẫn chưa thực sự đầu tư vào sức nghĩ cùng với thói quen tập quán sống chi phối, nên chưa thể thích ứng nhanh trước yêu cầu đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ quả là tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của thanh niên đang có đà xu hướng ngày một tăng; mức thu nhập thực tại cũng còn thấp chưa đáp ứng nhu cầu cuộc sống, vô hình chung dẫn đến nguy cơ con đường sa vào những việc làm của thanh niên trái pháp luật, trái đạo đức xã hội diễn ra.

Mục tiêu của công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn tại huyện là nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng nghề cần thiết cho người lao động nông thôn, nhằm giúp cho họ có cơ sở tìm việc làm, chuyển đổi việc làm hoặc tự tạo việc làm tăng thu nhập, ổn định cuộc sống, góp phần vào mục tiêu giảm nghèo bền vững trên địa bàn huyện; Phấn đấu tăng tỷ lệ lao động nông thôn của huyện qua đào tạo nghề hàng năm; tạo nguồn nhân lực lao động có chất lượng để đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của huyện giai đoạn 2015-2020, làm nền tảng vững chắc cho những năm tiếp theo. Đào tạo nghề hàng năm bình quân từ 400 – 500 lao động nông thôn. Đến năm 2020 có khoảng hơn 2.250 lao động trên địa bàn huyện qua đào tạo nghề. Góp phần nâng tỷ lệ lao động có việc làm sau khi học nghề trong giai đoạn này đạt 90% .

Tiểu kết Chương 1

Chính sách đào tạo nghề cho thanh niên được hiểu là chương trình hành động cùng với các giải pháp, công cụ mà Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện để đảm bảo mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thanh niên, đáp ứng tốt nhu cầu việc làm và thị trường lao động, phù hợp với tiến trình phát triển nền kinh tế quốc gia. Nên việc thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên lại càng có ý nghĩa vừa quan trọng, vừa cấp bách đối với tương lai phát triển của quốc gia, dân tộc… Đồng thời, qua đó một số cơ sở lý luận của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên ở góc nhìn chính sách công được hệ thống hóa bằng việc trình bày làm rõ hơn: Nội dung cơ bản của chính sách đào tạo nghề cho thanh niên; Quy trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên; Các yếu tố ảnh hưởng quá trình thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên.

Đối với cơ sở thực tiễn về thực hiện chính sách đào tạo nghề cho thanh niên huyện Hiệp Đức, Chương 1 cũng đã phân tích một cách tổng quát về đặc điểm, tình hình kinh tế – xã hội và thực trạng lực lượng thanh niên ở huyện Hiệp Đức cho thấy, nhu cầu và sự cần thiết đối với đào tạo nghề cho thanh niên trên địa bàn huyện, đóng góp cho sự phát triển kinh tế – xã hội địa phương.

Tóm lại, những nội dung của Chương 1 tạo nên một số cơ sở lý luận và thực tiễn để đi sâu định hướng trong việc đi sâu phân tích chương 2 về thực trạng vấn đề tại huyện Hiệp Đức.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 2/ TRAN THI THUY DUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *