Thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã

Thực hiện chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức cấp xã

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở vùng đồng bào DTTS và miền núi có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân và trực tiếp quản lý xã hội trên địa bàn xã đi vào trật tự, ổn định và phát triển. Đồng thời CB, CC cấp xã còn là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; nâng cao vị thế, vai trò, uy tín của Đảng, Nhà nước trong nhân dân và trong đồng bào DTTS.

Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [22, tr.309-313], được Đảng ta chỉ rõ tại nghị quyết số: 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: “Đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ chốt. Chú ý con em gia đình cách mạng, những người có công với nước, công nhân, nông dân, trí thức, lực lượng vũ trang, cán bộ nữ, con em các DTTS,…” [1, tr.14]. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/03/2003 của Ban chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc, Đảng ta tiếp tục đưa ra mục tiêu và giải pháp: “Xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của địa phương”,… “thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người DTTS cho từng vùng, từng dân tộc” [2, tr.4-6]. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, Đảng ta tiếp tục chỉ rõ: “Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người DTTS” [4, tr.7]. Đối với tỉnh Quảng Nam cũng đã ban hành Nghị quyết số: 13-NQ/TU, ngày 22/12/2004 về đào tạo và sử dụng cán bộ dân tộc ít người; Nghị quyết số: 16-NQ/TU ngày 15/12/2014 về công tác cán bộ người DTTS giai đoạn 2015 – 2020 và định hướng đến năm 2025. Đây là các văn bản quan trọng, là cơ sở để các cấp, các ngành, các địa phương làm căn cứ triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS.

Huyện Đông Giang là một trong 06 huyện miền núi cao của tỉnh Quảng Nam, có tỷ lệ đồng bào DTTS chiếm khoảng trên 77,2%, là địa bàn có chiến lược quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh. Trên địa bàn huyện có 11 đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn với tổng số CBCC cấp xã là 222 người (trong đó CBCC người DTTS là 168 người). Căn cứ các văn bản của Trung ương, tỉnh Quảng Nam về thực hiện chính sách cán bộ, chính sách dân tộc nói chung và chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC nói riêng, huyện Đông Giang cũng đã xây dựng chương trình hành động và triển khai thực hiện đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người dân tộc thiểu số chưa đảm bảo quy trình, chưa xây dựng kế hoạch riêng về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS một cách cụ thể, rõ ràng; công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách còn mang hình thức, chưa sâu sát nội dung của chính sách đào tạo, bồi dưỡng; sự phân công, phối hợp thực hiện chính sách chưa nhịp nhàng, đồng bộ, còn đùn đẩy trách nhiệm cho nhau; công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chưa thường xuyên, kịp thời; việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm triển khai thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng chưa rõ nét. Từ đó, dẫn đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS chưa cao, chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn công việc, vẫn còn 31 CB,CC cấp xã là người DTTS chưa đạt chuẩn về trình độ Đại học chuyên môn và QLNN, 15 người chưa đạt chuẩn về LLCT; nhiều CB,CC làm việc không theo chuyên môn đào tạo, vị trí việc làm, xử lý công việc còn chậm, thiếu khoa học; cơ cấu CB,CC chưa hợp lý, ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới;…. Để góp phần bổ sung các biện pháp, giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn thạc sĩ ngành chính sách công. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS đối với huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Luận văn làm rõ thực trạng và chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập trong việc triển khai thực hiện chính sách sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

– Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS.

– Khảo sát, đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

– Đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: Ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

– Về thời gian: Luận văn phân tích thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay.

– Về nội dung: Các bước thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang bao gồm: Đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; đào tạo, bồi dưỡng về trình độ lí luận chính trị; đào tạo, bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc; đào tạo, bồi dưỡng về quốc phòng – an ninh.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Để thực hiện luận văn về đề tài “Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam”, tác giả dựa trên quan điểm, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về chính sách cán bộ, chính sách dân tộc và chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC nói chung, CB,CC cấp xã là người DTTS nói riêng; kế thừa, phát triển những quan điểm lý luận của các nhà khoa học. Đồng thời vận dụng lý thuyết của khoa học chính sách công,… và các thông tin dữ liệu thu thập được phản ánh thực tiễn vấn đề cần nghiên cứu tại địa phương.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để đạt mục đích nghiên cứu về đề tài“Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam”, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:

Phương pháp nghiên cứu, thu thập tài liệu lý luận: Để có nguồn tài liệu, ngay sau khi nhận đề tài nghiên cứu, tác giả tiến hành thu thập tài liệu thông qua từ sách, giáo trình, tạp chí chuyên ngành, luận án, luận văn và các công trình nghiên cứu khoa học, văn kiện, nghị quyết của Đảng các cấp, chính sách, pháp luật, các báo cáo tài liệu thống kê liên quan của Trung ương và địa phương thông qua hệ thống từ các cơ quan, đơn vị, thư viện, cổng thông tin điện tử,…. liên quan trực tiếp đến thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở nước ta nói chung và ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam nói riêng.

Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi kết hợp với phỏng vấn trao đổi thông tin với lãnh đạo các cơ quan, đơn vị: Song song cùng với việc nghiên cứu, thu thập tài liệu, tác giả chủ động thiết kế bảng hỏi (gồm 12 câu hỏi và in sẵn 100 phiếu), tiến hành chọn mẫu điều tra ngẫu nhiên tại xã Sông Kôn, A Ting, Jơ Ngây, xã Ba, xã Tư, Thị trấn P’rao, xã Zà Hung, xã Mà Cooih, xã Arooi thuộc huyện Đông Giang gửi 100 phiếu đến từng CB,CC cấp xã; tổ chức phỏng vấn sâu và trực tiếp đối với cán bộ lãnh đạo, chuyên viên thuộc phòng Nội vụ, phòng Dân tộc, Ban tổ chức huyện ủy và Văn phòng HĐND&UBND huyện về thực trạng thực hiện chính sách cán bộ, chính sách dân tộc ở huyện Đông Giang thông qua bảng phỏng vấn gồm có 7 câu hỏi để nghe CB,CC có sự nhận xét, đánh giá đúng đắn về kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS hiện nay.

Phương pháp tổng hợp, đánh giá, so sánh, xử lý số liệu: Trên cơ sở các số liệu thu thập được từ các báo cáo của huyện Đông Giang, tổng hợp phiếu điều tra từ CB, CC cấp xã, tác giả tiến hành xử lý số liệu thông qua bảng Excel, sau đó đánh giá, phân tích, so sánh số liệu kết quả đạt được so với chỉ tiêu Nghị quyết của huyện Đông Giang đề ra. Cùng với những số liệu có được và qua quan sát thực tế, bằng các phương pháp phân tích định tính, định lượng, diễn giải, quy nạp, đánh giá chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Tác giả góp phần hệ thống hóa lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

– Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam trong những năm tới. Cung cấp số liệu mang tính tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Góp phần hiện thực hóa một số quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách cán bộ, chính sách dân tộc nói chung và chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS nói riêng ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, luận văn được kết cấu như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ

LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

1.1. Một số khái niệm về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

1.1.1. Khái niệm về chính sách, chính sách công

– Chính sách và chính sách công là hai cụm từ khó định nghĩa một cách cụ thể, rõ ràng và thống nhất, tùy theo góc độ nhìn nhận mà các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đưa ra một số quan niệm như sau: David Easton (năm 1953) cho rằng “chính sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà trong đó phân phối thực hiện các giá trị” [13, tr.15]. James Anderson (năm 2003) định nghĩa: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” [10, tr.96].

Theo từ điển Tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên, (Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học, Hà Nội – Đà Nẵng, 2003): “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra” [24, tr.163]. Tác giả Nguyễn Minh Thuyết (năm 2011) định nghĩa: “Chính sách là đường lối cụ thể của một chính đảng hoặc một chủ thể quyền lực về một lĩnh vực nhất định cùng các biện pháp, kế hoạch thực hiện đường lối ấy” [10, tr.97].

Từ những quan niệm của các nhà nghiên cứu nêu trên, chúng ta có thể thấy được đặc trưng chung nhất của chính sách bao gồm: Chủ thể đề ra chính sách là những chủ thể quản lý hoặc chủ thể quyền lực dựa trên cơ sở đường lối chính trị chung và tình hình thực tế; Nội hàm của chính sách bao gồm các quan điểm mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được biểu hiện bằng hình thức kế hoạch, sách lược, nghị quyết, chương trình hành động; đối tượng hướng đến của chính sách là giải quyết một vấn đề nào đó trên các lĩnh vực về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh. Dựa trên những quan niệm và phân tích đặc trưng nêu trên, chúng tôi tiếp cận khái niệm: “Chính sách là những biện pháp, giải pháp do chủ thể quyền lực đưa ra để giải quyết một vấn đề nhằm đạt mục tiêu đề ra” trong luận văn của mình.

– Khi bàn về khái niệm chính sách công, đã có nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau. Chẳng hạn như: Theo William Jenkins (năm 1978) định nghĩa, “chính sách công là một tập hợp các quyết định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục tiêu đó” [13, tr.17]. James Anderson (năm 1984) đưa ra định nghĩa khái quát hơn: “Chính sách công là đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [13, tr.18].

Khái niệm chính sách công cũng đã được các tác giả Việt Nam đề cập đến nhiều trong các công trình khác nhau. Cụ thể như PGS.TS.Nguyễn Hữu Hải quan niệm: “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội” [14, tr.51]. Một số tác giả khác như TS. Lê Như Thanh – TS. Lê Văn Hòa cho rằng: “Chính sách công là tập hợp những quyết định liên quan với nhau do Nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được các mục tiêu phát triển” [34, tr.10]. Theo PGS.TS. Hồ Việt Hạnh quan niệm thì: “Chính sách công là những quyết định của chủ thể được trao quyền lực công nhằm giải quyết những vấn đề vì lợi ích chung của cộng đồng” [18, tr.3-6].

Phân tích các quan niệm trên, ta có thể thấy rằng, tất cả các học giả đều có sự phản ánh đặc trưng khác nhau của chính sách công tùy theo góc độ nhìn nhận, nhưng cũng có chung một nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công. Đó là, chủ thể ban hành chính sách công là Nhà nước (bao gồm: Quốc hội, chính phủ, các bộ và các cấp chính quyền địa phương) để thực thi quyết sách chính trị, giữa quyết sách chính trị và chính sách công có mối quan hệ chặt chẽ với nhau; đối tượng tác động của chính sách công là giải quyết một hoặc một số vấn đề liên quan đến đời sống xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng, mục tiêu hướng tới là giữ gìn ổn định trật tự xã hội, xây dựng và phát triển đất nước; hình thức thể hiện là một chuỗi các quyết định có liên quan với nhau (không chỉ là luật, các văn bản dưới luật, mà còn có thể là các kết luận hay ý tưởng phát biểu của các nhà lãnh đạo thể hiện bằng lời nói hay hành động,…); việc ban hành chính sách công phải đảm bảo theo quy trình hoạch định chính sách từ việc xác định mục tiêu cho đến công bố chính sách, chính vì vậy chính sách công có tính pháp lý cao, vì là các quyết định hành động nên chính sách công còn thể hiện các hành vi thực tiễn. Kế thừa và phát huy quan niệm của các nhà nghiên cứu nêu trên, chúng tôi tiếp cận và sử dụng khái niệm chính sách công như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định của nhà nước được vận dụng vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong đời sống xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng theo mục tiêu đã xác định”.

1.1.2. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng

– Theo Đại từ điển do GS. Nguyễn Như Ý chủ biên (Nxb. Văn hóa -Thông tin, Hà Nội, 1998): Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp; còn Bồi dưỡng là làm cho khỏe thêm, mạnh thêm và tốt hơn, giỏi hơn [53, tr.191-196]. Theo Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên (Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2010), Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định; còn Bồi dưỡng là làm cho tăng thêm sức của cơ thể bằng chất bổ và tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất [25, tr.82-289]. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng cũng được thể hiện trong các Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ. Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã đưa ra cách hiểu về đào tạo và bồi dưỡng như sau: “Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”; “Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”[6, tr.2].

Xét về mặt khoa học và pháp lý, giữa khái niệm “đào tạo” và “bồi dưỡng” tồn tại 2 khái niệm độc lập. Tuy nhiên, trong thực tiễn hai thuật ngữ đào tạo bồi dưỡng vẫn được sử dụng chung. “Đào tạo, bồi dưỡng” có cùng một mục đích đó là làm cho người học có trình độ chuyên môn, khả năng xử lý công việc và năng lực công tác tốt hơn. Trên thực tế có một số hoạt động đào tạo, bồi dưỡng rất khó phân chia thành chương trình riêng, mà có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau, chẳng hạn như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đa số cán bộ, công chức trước khi tuyển dụng đã có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tuy nhiên khi được quy hoạch hoặc bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo cao hơn thì cán bộ, công chức phải được cử đi học lớp trung cấp lý luận chính trị và phải qua lớp bồi dưỡng ngạch chuyên viên trở lên, có các chứng chỉ tin học, ngoại ngữ, nghiệp vụ chuyên ngành,….

Tóm lại, theo góc độ nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS thì hai cụm từ “đào tạo, bồi dưỡng” không nhất thiết phải tách riêng một cách độc lập tuyệt đối mà phải hiểu theo nghĩa chung nhất. Đó là, “đào tạo bồi dưỡng” là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học; đồng thời vừa trang bị, cập nhật, những kiến thức, kỹ năng mới vừa rèn luyện thực tiễn để nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất cho người học. Sau khi trải qua quá trình đào tạo bồi dưỡng, người học có thể đạt được một trình độ kiến thức, chuyên môn, nghề nghiệp theo chuẩn quy định nhưng cũng có thể xử lý công việc thực tiễn một cách mềm dẻo, nhạy bén, linh hoạt.

1.1.3. Khái niệm về cán bộ, công chức cấp xã

Theo Luật CB,CC đã được Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 ngày 11 tháng 2008; Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính Phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với CB,CC ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, thì CB,CC cấp xã được hiểu như sau:

– Cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực HĐND, UBND, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội [26, tr.2]. Theo đó, Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây: Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND; Chủ tịch UBMTTQVN; Bí thư Đoàn TNCSHCM; Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Chủ tịch HND Việt Nam; Chủ tịch HCCB Việt Nam. Ngoài ra còn có cán bộ được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã [5, tr.2].

– Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [26, tr.2]. Theo đó, Công chức cấp xã có các chức danh sau đây: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng – thống kê; Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính – kế toán; Tư pháp – hộ tịch; Văn hóa – xã hội. Ngoài ra còn có công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã [5, tr.2].

1.1.4. Khái niệm về cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

– Theo Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính Phủ về công tác dân tộc, giải thích: “Dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. “Dân tộc đa số” là dân tộc có số dân chiếm trên 50% tổng dân số của cả nước, theo điều tra dân số quốc gia [7, tr.2]. Việt Nam có 54 dân tộc thành viên, trong đó dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ trên 85,3% dân số cả nước được gọi là dân tộc đa số, 53 dân tộc còn lại là DTTS, chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước. Ở Việt Nam, trên cơ sở kế thừa và phát huy quan niệm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta khẳng định dân tộc Việt Nam là một, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống mọi biểu hiện tư tưởng kỳ thị, chia rẽ dân tộc, thực hiện tốt chính sách dân tộc, các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Như vậy, theo quan điểm trên, thì DTTS không mang ý nghĩa phân biệt về địa vị hay tầng lớp trong xã hội, mỗi thành phần dân tộc đều là dân tộc Việt Nam. Ở trên thế giới, mặc dù có nhiều học giả phương tây cũng đưa ra các khái niệm khác nhau về nhóm người thiểu số và thiểu số dưới góc độ dân tộc học nhưng cũng chỉ là để phân biệt giữa thiểu số với DTTS và đa số, không chỉ khác nhau về chủng tộc, màu da, sống mũi hay ánh mắt mà còn khác nhau về văn hoá mà các học giả dùng để phục vụ các mục tiêu nghiên cứu.

Tóm lại, trên cơ sở phân tích nêu trên, tác giả luận văn sử dụng khái niệm “dân tộc thiểu số” là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

– Từ khái niệm về “Cán bộ cấp xã”, “công chức cấp xã” và “dân tộc thiểu số” ta có thể kết nối thành khái niệm chung nhất đó là: “CB,CC cấp xã là người DTTS là công dân Việt Nam có thành phần xuất thân từ các DTTS (dân tộc ít người) được bầu cử, tuyển dụng giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ đối với các chức vụ trong hệ thống chính trị và không theo nhiệm kỳ đối với các chức danh thuộc UBND ở cấp xã, nằm trong biên chế và được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước. Điểm khác biệt giữa “CB,CC cấp xã là người DTTS” so với đội ngũ CB,CC cấp xã nói chung là dựa vào thành phần xuất thân của người CB,CC đó thuộc “dân tộc đa số” hay “dân tộc thiểu số” (dân tộc ít người). Tiêu chí này không phải để phân biệt về trình độ, năng lực hay địa vị trong xã hội của mỗi người CB,CC. Khi đã là người CB,CC cấp xã cho dù có xuất thân từ “dân tộc đa số” hay “dân tộc thiểu số” đều phải thực hiện nhiệm vụ như nhau và đảm bảo các tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể theo từng chức vụ, chức danh được quy định trong các văn bản Đảng và Nhà nước.

1.2. Đặc điểm, vai trò của cán bộ, công chức cấp xã là người DTTS

1.2.1. Đặc điểm cán bộ, công chức cấp xã là người DTTS

– Cán bộ, công chức cấp xã là người DTTS là đội ngũ gần dân, sát dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân, đồng thời phản ánh những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, vừa tham gia công tác tại cơ quan vừa tăng gia sản xuất, kinh doanh phục vụ nhu cầu đời sống. CB, CC cấp xã là người DTTS thường là người am hiểu phong tục, tập quán, tâm lý và cùng ăn, cùng ở, cùng sinh hoạt với nhân dân nhất là đồng bào DTTS, chính vì thế có điều kiện thuận lợi để thực hiện công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục người dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm tăng uy tín của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng bào DTTS.

– CB,CC cấp xã là người DTTS là những người được bầu cử giữ chức vụ và tuyển dụng vào chức danh chuyên môn trong hệ thống chính trị ở cấp xã gồm các chức danh: Bí thư, phó bí thư Đảng ủy; chủ tịch, phó chủ tịch HĐND xã; chủ tịch, phó chủ tịch UBND xã; chủ tịch UBMTTQVN xã, HND xã, HPN xã, HCCB xã, Bí thư Đoàn TNCSHCM xã; Chỉ huy trưởng BCH Quân sự, công chức Văn phòng thống kê, công chức Tư pháp hộ tịch, công chức văn hóa xã hội, công chức Địa chính xây dựng, công chức Tài chính kế toán. Được Nhà nước trả lương từ ngân sách nhà nước theo ngạch, bậc, hệ số phụ cấp chức vụ, hệ số phụ cấp khu vực.

– CB,CC cấp xã là người DTTS là những người có thành phần xuất thân là từ đồng bào các DTTS, sinh ra và lớn lên ở vùng đồng bào DTTS, am hiểu các phong tục, tập quán, văn hóa, sinh hoạt của đồng bào DTTS; là những người có lối sống sinh hoạt, văn hóa, ngôn ngữ riêng; tác phong lề lối làm việc thường thụ động, ít năng động, sáng tạo; tính tình trung thực, chất phát, chịu khó và nhiệt tình trong công việc.

1.2.2. Vị trí, vai trò cán bộ, công chức cấp xã là người DTTS

– Cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số có vị trí, vai trò rất quan trọng trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

– Trực tiếp tổ chức triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân. Phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân và của đồng bào DTTS đối với Đảng và Nhà nước để điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chính sách.

– CB,CC cấp xã là người DTTS có ảnh hưởng tích cực đối với đồng bào DTTS, thông qua phong tục, tập quán và ngôn ngữ giao tiếp. Cán bộ người DTTS là người lãnh đạo, quản lý, ý kiến của họ có sức thuyết phục, hành động của họ có thể lôi cuốn, lan tỏa rộng. Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ có uy tín là người DTTS là khai thác lợi thế to lớn từ khía cạnh văn hóa, tập quán của vùng đồng bào DTTS và miền núi.

– Tạo nên sự cân bằng, hài hòa và nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở khi CB,CC cấp xã là người DTTS được cơ cấu một cách hợp lý, tăng cường mối quan hệ, tạo dựng niềm tin của Nhân dân vùng đồng bào DTTS đối với Đảng và Nhà nước.

1.3. Các nội dung cơ bản trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

Căn cứ Luật Cán bộ, công chức 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật cán bộ, công chức và luật viên chức 2019; Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/03/2010 của Chính Phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức và Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính Phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; Quyết định 163/QĐ-TTg ngày 25/01/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 – 2025; Quyết định 402/QĐ-TTg ngày 14/03/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới; Quyết định số: 771/QĐ-TTg ngày 26/06/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án bồi dưỡng kiến thức dân tộc đối với cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2018 -2025. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS gồm có các nội dung sau:

1.3.1. Đào tạo, bồi dưỡng về Lý luận chính trị

CB,CC cấp xã là người DTTS nằm trong hệ thống chính trị ở cấp xã, trực tiếp triển khai, quán triệt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân trên địa bàn xã. Để đảm bảo việc triển khai thực hiện đúng chủ trương, quan điểm và tạo được sự nhất trí cao trong đảng thì đòi hỏi CB,CC cấp xã là người DTTS phải là người am hiểu về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và có một trình độ lý luận chính trị nhất định. Trình độ lý luận chính trị của CB,CC cấp xã là người DTTS được thể hiện qua phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, tuân thủ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, gương mẫu chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, có tinh thần đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không rơi vào 27 biểu hiện suy thoái được quy định tại Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII.

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS về lý luận chính trị là trang bị kiến thức về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng theo cấp bậc sơ cấp, trung cấp, cao cấp và cử nhân chính trị. Đào tạo, bồi dưỡng về Lý luận chính trị nhằm nâng cao lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, có thái độ chính trị đúng đắn, ý thức tổ chức kỷ luật cao, có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc lãnh đạo của đảng, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao cho cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số.

1.3.2. Đào tạo, bồi dưỡng về Chuyên môn, nghiệp vụ

Cấp xã là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở, trực tiếp giải quyết các thủ tục hành chính cho tổ chức, công dân thông qua đội ngũ CB,CC cấp xã, việc giải quyết thủ tục hành chính và hoạt động thực thi công vụ là vấn đề rất khó và phức tạp, đòi hỏi người CB,CC phải có một trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và linh hoạt, nhạy bén. Vì vậy, đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS về chuyên môn, nghiệp vụ là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, nhằm giúp trang bị cho họ có kiến thức cơ bản, có kỹ năng, nghiệp vụ theo từng chức danh vị trí việc làm và lĩnh vực công tác. Mặc dù, khi được bầu cử, tuyển dụng, một số CB,CC cấp xã là người DTTS đã có trình độ chuyên môn nhất định, tuy nhiên do đặc thù ở các xã miền núi, vùng đồng bào DTTS, nên rất khó để bố trí CB,CC theo chức danh vị trí việc làm, thủ tục hành chính mỗi thời điểm, thời kỳ điều có sự điều chỉnh cho phù hợp, đồng thời sự phát triển của xã hội, của khoa học công nghệ cũng đòi hỏi CB,CC, trong đó có CB,CC là người DTTS phải nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ của mình. Thông qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng CB,CC mới có thể đáp ứng nhiệm vụ, yêu cầu mà thực tiễn đặt ra trong mỗi giai đoạn. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của CB,CC được thể hiện qua việc giải quyết công việc nhanh chóng, khoa học, linh hoạt, nhạy bén, bậc, ngạch, hệ số lương của CB,CC. Tùy theo cấp bậc đào tạo, bồi dưỡng và sự am hiểu thực tế mà CB,CC cấp xã là người DTTS có sự nhạy bén, linh hoạt hơn trong xử lý công việc một cách khoa học, đúng pháp luật. Đây là cơ sở, là nền tảng để CB,CC hoàn thành tốt nhiệm vụ và có những sáng kiến mới góp phần hoàn thiện chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

1.3.3. Đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng quản lý Nhà nước

CB,CC cấp xã là người DTTS thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội,…. Chính vì vậy, việc bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước cho mỗi CB,CC cấp xã là hết sức quan trọng, giúp trang bị cho họ có được kiến thức, kỹ năng về hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước, chức năng, quyền hạn của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị; nhiệm vụ, tiêu chuẩn của mỗi chức danh CB,CC; nội dung, quy trình quản lý nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, môi trường, quốc phòng – an ninh. Một CB, CC cấp xã là người DTTS được cho là đã có kiến thức, kỹ năng quản lý Nhà nước thông qua chứng chỉ quản lý nhà nước, khả năng giải quyết công việc một cách khoa học đúng chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ được giao, không lạm quyền, không đùn đẩy trách nhiệm, không cơ hội vì lợi ích cá nhân, có trách nhiệm, nghiêm túc tự phê bình và phê bình và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ.

1.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức Tin học, ngoại ngữ, tiếng dân tộc

Bồi dưỡng tin học, ngoại ngữ, đây là các chứng chỉ nhằm giúp cán bộ, công chức có kỹ năng thành thạo trong xử lý văn bản trên hệ thống máy tính, ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt trong việc triển khai thực hiện Chính quyền điện tử, tra cứu, khai thác các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác tốt hơn. Còn về ngoại ngữ là trang bị cho cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số những kiến thức cơ bản có thể dùng để dịch thuật, giao tiếp với người có yếu tố nước ngoài trong việc xử lý các thủ tục hành chính, quảng bá sản phẩm của địa phương. Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa như hiện nay, thì việc đào tạo, bồi dưỡng để trang trị các kĩ năng về tin học, ngoại ngữ cho cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số là rất cần thiết.

Tùy theo từng địa phương, nếu địa phương có đông đồng bào DTTS cùng sinh sống, thì CB,CC cấp xã phải được bồi dưỡng về tiếng DTTS để dễ dàng trong việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân đạt kết quả. Vì đây là vùng có đông đồng bào DTTS, điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, trình độ dân trí thấp, việc giao tiếp và hiểu ngôn ngữ tiếng Việt còn hạn chế, bởi vậy, đòi hỏi CB,CC cấp xã phải biết tiếng DTTS để giao tiếp và trao đổi công việc với người đồng bào DTTS.

1.3.5. Đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức về Quốc phòng – An ninh

Bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng – An ninh là việc trang bị cho CB,CC cấp xã là người DTTS có kiến thức về quốc phòng và an ninh, trong đó đặc biệt là sự nhạy bén về chính trị, về các thủ đoạn, âm mưu của các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc để chống phá cách mạng Việt Nam, cách thức sử dụng các loại vũ khí, vật liệu nổ, các động tác phòng vệ cơ bản, các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về Quốc phòng – An ninh. Tùy theo đối tượng mà CB,CC tham gia các lớp bồi dưỡng; đối với công chức thì tham gia lớp bồi dưỡng theo đối tượng 4, được mở lớp tại huyện, còn đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý thì tham gia lớp bồi dưỡng theo đối tượng 3 được mở lớp tại Trường quân sự địa phương của tỉnh. Ngoài ra, đối với các chức danh trưởng đầu ngành Mặt trận, Hội đoàn thể xã còn tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng an ninh do Trường huấn luyện Công an nhân dân tỉnh tổ chức. Trải qua các lớp bồi dưỡng về Quốc phòng an ninh, CB,CC cấp xã là người DTTS sẽ nâng cao kiến thức về Quốc phòng an ninh và linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ diễn tập phòng thủ, phòng không nhân dân, chuyển toàn bộ lực lượng từ thời bình sang thời chiến và xử lý tình huống A2 được quy định đối với cấp xã 4 năm 1 lần.

1.4. Những nội dung cơ bản về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

1.4.1. Quan niệm về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

– Nhận định về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS. Trên cơ sở các quan điểm về chính sách công, về đào tạo, bồi dưỡng, về CB, CC cấp xã, về người DTTS đã đề cập ở phần trên, có thể nêu ra quan điểm về tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS như sau:

+ Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là một khâu hợp thành trong chu trình chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách đào tạo, bồi dưỡng thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu định hướng. Tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC thành một hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC. So với các khâu khác trong chu trình chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC, tổ chức thực thi có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội và trong đội ngũ CB,CC cấp xã.

+ Nếu đưa vào thực thi một chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC tốt không những mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà góp phần làm tăng uy tín của Nhà nước trong quá trình quản lý xã hội. Tuy nhiên, để có được một chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC tốt các nhà hoạch định phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm rất công phu. Nhưng dù tốt đến đâu thì chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cũng trở thành vô nghĩa nếu nó không được đưa vào thực hiện trong thực tiễn.

– Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số

+ Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là nhằm hiện thực hóa chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC nói chung và CB,CC cấp xã là người DTTS nói riêng trong đời sống xã hội và trong đội ngũ CB,CC cấp xã để đạt mục tiêu đề ra của chính sách. Muốn đạt mục tiêu của chính sách, trước tiên phải tổ chức triển khai thực hiện chính sách. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách các cơ quan, đơn vị phải thực hiện đầy đủ các bước tổ chức thực hiện chính sách từ khâu xây dựng kế hoạch cho đến đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm, mỗi bước đều có những quy tắc, quy định và thủ tục thực hiện riêng. Khi tổ chức thực hiện các bước của thực thi chính sách, các cơ quan, đơn vị cũng đã thực hiện các bước trong chu trình của chính sách từ việc hoạch định, phân tích và đánh giá chính sách. Chính vì vậy, tổ chức thực hiện chính sách là trung tâm kết nối các bước trong chu trình chính sách.

+ Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là nhằm khẳng định tính đúng đắn của chính sách. Tính đúng đắn của chính sách được thể hiện khi chính sách đã nhận định đúng vấn đề cần giải quyết, tức là khi CB,CC cấp xã là người DTTS thực hiện nhiệm vụ được giao không đạt chất lượng, hiệu quả do trình độ, năng lực chưa đắp ứng với điều kiện thực tiễn, vì vậy cần có chính sách để giải quyết vấn đề đó. Trong quá trình thực hiện chính sách, nếu chính sách được đông đảo quần chúng nhân dân và CB,CC cấp xã đồng tình hưởng ứng, tích cực thực hiện và đạt mục tiêu đề ra của chính sách thì đó là chính sách tốt, phù hợp với địa phương.

+ Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là nhằm tăng vị thế và uy tín của chủ thể ban hành chính sách trong quá trình quản lý xã hội. Chính sách thể hiện ý chí và thái độ của chủ thể trước một vấn đề cụ thể cần giải quyết. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CB,CC cấp xã về năng lực, phẩm chất, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết công việc và xử lý các vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội mà mỗi CB,CC cấp xã phải thực hiện trong thực thi công vụ. CB,CC cấp xã thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng và luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao thì sẽ làm tăng vị thế và uy tín của chủ thể ban hành chính sách trong quá trình quản lý xã hội.

+ Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS là nhằm từng bước hoàn thiện hơn chính sách phù hợp với tình hình thực tiễn. Chính sách là do CB,CC xây dựng và ban hành trên cơ sở tranh thủ được sự đóng góp ý kiến của các tổ chức, cá nhân trên phạm vi cả nước; tuy nhiên do xã hội ngày càng có nhiều thay đổi tác động vào chính sách và chính sách có thời gian áp dụng lâu dài do con người xây dựng mà con người lại không thể đoán được tương lai một cách chính xác được; chính vì vậy, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách, các cơ quan, đơn vị hay cá nhân tổ chức thực thiện chính sách sẽ gặp phải những khó khăn, vướng mắc cần có sự thay đổi về biện pháp, giải pháp thực hiện nhằm hoàn chỉnh chính sách. Chỉ có khâu thực thi chính sách mới đủ điều kiện để đưa chính sách vào thực tiễn và chỉ có thực tiễn mới kiểm định được tính đúng đắn của chính sách. Thực tiễn thì luôn biến động, chính sách phải tự mình thay đổi để phù hợp với thực tiễn, thực tiễn là cơ sở để chính sách hoàn thiện hơn.

– Chủ thể thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là người DTTS

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 2/ BRIU DET

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *