Thực hiện chính sách bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn

Thực hiện chính sách bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn

Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho các cháu thiếu niên, nhi đồng tình thương yêu và quan tâm đặc biệt. Trong Di chúc thiêng liêng trước lúc đi xa, Người căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Trong những năm qua, thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ kính yêu, Đảng và Nhà nước ta luôn coi nhiệm vụ bảo vệ và chăm sóc trẻ em là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược con người, góp phần tạo ra nguồn nhân lực cho quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam là nước Châu Á đầu tiên và nước thứ hai trên thế giới ký và phê chuẩn Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em, là nước tích cực thực hiện cam kết, hợp tác với quốc tế nhằm cải thiện phúc lợi cho trẻ em trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp. Trong đó, Quyền của trẻ em là một trong 4 nhóm quyền quan trọng được quy định trong Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em năm 1989 (quyền sống còn, quyền phát triển, quyền bảo vệ và quyền tham gia).

Điều 37, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” [20]. Quy định của Hiến pháp 2013 đã được cụ thể hóa trong Luật Trẻ em (2016), có hiệu lực thi hành vào 1/6/2017 đã quy định cụ thể các quyền và bổn phận của trẻ em; các nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Theo quy định của Luật Trẻ em, trẻ em có quy định quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục và quyền được bảo vệ để không bị bạo lực.

Trên thực tế, tình trạng trẻ em bị xâm hại ngày càng diễn biến phức tạp, gia tăng về mức độ, số lượng vụ việc. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm (Bộ Công an) cho thấy, mặc dù chỉ là phần nhỏ so với thực tế nhưng mỗi năm trung bình có 1.600-1.800 vụ xâm hại trẻ em được phát hiện, trong số 1.000 vụ xâm hại tình dục, thì số trẻ em là nạn nhân chiếm đến 65%, đa số nạn nhân là nữ ở độ tuổi 12-15 (chiếm 57,46%), tuy nhiên số trẻ em dưới 6 tuổi bị xâm hại là vấn đề rất đáng báo động, chiếm tới 13,2%. Những vụ việc xâm hại trẻ em liên tiếp được công khai làm rung động dư luận và cảnh báo “đỏ” về sự an toàn của những đứa trẻ và sự xuống cấp về đạo đức, ý thức pháp luật của những người trưởng thành (Vũ Hải Việt, 2015).

Năm 2017, toàn quốc xảy ra 1.592 vụ xâm hại trẻ em, so với năm 2016 giảm 49 vụ; 1.642 trẻ em bị xâm hại trong đó trẻ em bị bạo lực là 245 em, giảm 171 em so với năm 2016; nhưng trẻ em bị xâm hại tình dục: 1.397 em, so với năm 2016 tăng 186 trẻ. Hiện nhiều tỉnh, thành phố chưa quan tâm, đầu tư nguồn lực cho trẻ em (Đặng Hoa Nam, 2018). Theo Tổng Cục Cảnh sát, đối tượng xâm hại tình dục trẻ em hầu hết là những người có cuộc sống bình thường ít ai ngờ tới, có quan hệ gần gũi với nạn nhân và gia đình nạn nhân như người thân, ruột thịt, thầy giáo, hàng xóm…

Thực trạng trên cho thấy, thực hiện chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em ở nước ta hiện nay là một vấn đề cấp bách. Bên cạnh việc thực thi các quy định của pháp luật, thực hiện Công ước về quyền trẻ em và các chính sách chăm sóc, bảo vệ trẻ em đang là một vấn đề thời sự, đòi hỏi cả cộng đồng cần chung tay thay đổi nhận thức, xây dựng một môi trường sống lành mạnh, an toàn cho trẻ em.

Quảng Nam là tỉnh nằm ở vùng nam Trung Bộ với 9 huyện miền núi/18 huyện, thị xã, thành phố; là địa bàn gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của chiến tranh, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra. Là tỉnh nghèo, đời sống, thu nhập của người dân còn thấp, sự chênh lệch mức sống giữa các vùng là một trong các nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt còn cao như: trẻ em mồ côi, trẻ em khuyết tật, trẻ em phải lao động sớm, trẻ em bị lạm dụng, trẻ em sống trong các hộ gia đình nghèo…Bên cạnh đó, nhận thức về quyền trẻ em và ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em của một bộ phận cha mẹ, giáo viên, cán bộ làm công tác trẻ em và người dân chưa tốt. Sự thay đổi quan niệm về đạo đức, sự buôn thả của một bộ phận dân cư về lối sống vị kỷ đã làm tha hóa các mối quan hệ gia đình và xã hội. Các vấn đề nêu trên đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em tại Quảng Nam.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức: Môi trường sống tiềm ẩn nhiều nguy cơ thiếu an toàn, lành mạnh đối với trẻ em, làm gia tăng nguy cơ tai nạn thương tích và hành vi bạo lực, xâm hại trẻ em. Việc tuân thủ, chấp hành pháp luật của nhiều chủ thể pháp luật chưa thực hiện tốt. Nhiều cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và bản thân trẻ em chưa nhận thức đầy đủ được trách nhiệm bảo vệ con em, thiếu kiến thức, kỹ năng về Bảo vệ trẻ em. Nhiều gia đình sao nhãng việc chăm sóc con hoặc lúng túng trong xử trí, không kịp thời hoặc không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em đến các cơ quan chức năng. Sự xuống cấp đạo đức, tha hóa, biến chất về lối sống của một bộ phận xã hội làm gia tăng tội phạm bạo lực, xâm hại trẻ em, đặc biệt là các hành vi xâm hại tình dục trẻ em; tình trạng trẻ em lạm dụng đồ chơi công nghệ, nghiện games, điện tử vẫn còn diễn biến phức tạp; khu vui chơi, giải trí cho trẻ em còn thiếu và không đồng bộ, một số địa phương chưa quy hoạch, bố trí đất để xây dựng các điểm vui chơi, giải trí cho trẻ em; đội ngũ làm công tác trẻ em cấp xã, phường, thị trấn thường xuyên thay đổi, đội ngũ Cộng tác viên ở một số nơi không có nên gặp khó khăn trong việc kịp thời phát hiện và đề nghị xử lý các vụ việc vi phạm quyền trẻ em.

Từ những vấn đề nêu trên đã đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu một cách toàn diện, sâu rộng, đầy đủ và có hệ thống về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế để đề xuất các quan điểm và giải pháp thực hiện phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh Quảng Nam. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn đó, học viên chọn đề tài: “Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện hiệu quả chính sách này đến năm 2025.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

+ Phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân trong thực hiện chương trình bảo vệ trẻ em tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2016-2020.

+ Đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đến năm 2025.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2016 đến nay để qua đó nêu lên những vấn đề tích cực, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách.

Thời điểm nghiên cứu được tác giả chọn mốc từ năm 2016 đến nay là vì: Năm 2016 là năm đầu tiên thực hiện Chương trình bảo vệ trẻ em giai đoạn 2016-2020, là năm Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua Luật trẻ em và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/6/2017.Thời gian này, tỉnh Quảng Nam đã tập trung nhiều nguồn lực để thực hiện có hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em nói chung và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói riêng, góp phần thực hiện đạt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI đã đề ra.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Trên cơ sở những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Luận văn sẽ được tiếp cận theo hướng hệ thống hóa lý luận việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em tỉnh Quảng Nam từ khâu hoạch định, xây dựng, thực thi đến đánh giá chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em với sự tham gia của các chủ thể chính sách.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp thu thập nguồn tài liệu thứ cấp: Tập hợp và phân tích các nguồn tư liệu: Văn kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, Ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, sách báo, các báo cáo, tài liệu thống kê của Ban, ngành, đoàn thể; tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng. Đồng thời, tác giả cũng tìm hiểu, thu thập nội dung từ một số nhà nghiên cứu chuyên sâu có liên quan đến bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

– Phương pháp phân tích chính sách: Luận văn sẽ phân tích, đánh giá đánh giá tính toàn vẹn, tính khả thi, tính thống nhất và hiệu quả của chính sách nhằm ngày càng hoàn thiện chính sách phù hợp với thực tế.

– Phương pháp thống kê: Là phương pháp thu thập số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và đề ra các quyết định.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Trên cơ sở lý thuyết về thực hiện chính sách công, Luận văn sẽ nghiên cứu, nêu một số quan điểm, định hướng và đề xuất các giải pháp triển khai thực hiện hiệu quả chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các Ban, ngành có liên quan trong quá trình tổ chức thực hiện cũng như hoạch định chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận nghiên cứu về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở Việt Nam

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Một số quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH

BẢO VỆ, CHĂM SÓC TRẺ EM Ở VIỆT NAM

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Trẻ em

Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Đó là những người chưa trưởng thành, còn non nớt về thể chất và trí tuệ, dễ bị tổn thương, cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.

Tuân theo nguyên lý phát triển của chủ nghĩa duy vật, sự phát triển của con người cũng trải qua nhiều giai đoạn đó là những giai đoạn lứa tuổi. Tính chất đặc thù của mỗi giai đoạn là cơ sở để xác định ranh giới giữa trẻ em và người lớn, các quốc gia trên thế giới đều căn cứ vào tiêu chí duy nhất là độ tuổi. Tuy nhiên, độ tuổi được xác định là trẻ em ở mỗi quốc gia lại có sự khác nhau vì còn phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.

Theo Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC) năm 1989 định nghĩa trẻ em là những người dưới 18 tuổi.

Ở Việt Nam, theo Luật BVCSGDTE năm 2004 xác định “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”. Theo quy định này, những trẻ em dưới mưới sáu tuổi và là công dân Việt Nam mới được hưởng đầy đủ các quyền và bổn phận của trẻ em.

Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Qua khái niệm này, chúng ta thấy có sự thay đổi so với trước đây, đó là tất cả trẻ em dưới mười sáu tuổi, không phân biệt là công dân Việt Nam hay người có quốc tịch, người không có quốc tịch ở lãnh thổ Việt Nam đều được bảo vệ, chăm sóc giáo dục như nhau.

1.1.2. Bảo vệ trẻ em

BVTE là trách nhiệm của nhà nước, gia đình và mọi công dân trong xã hội đối với việc đảm bảo an toàn cho trẻ em khỏi bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng, bao gồm cả việc loại bỏ những nguy cơ gây tổn hại và ngăn chặn các yếu tố đang gây tổn hại cho trẻ. BVTE là những dịch vụ được cung cấp bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp hướng tới việc can thiệp khẩn cấp và giúp đỡ các em đang có nguy cơ hoặc đã bị xâm hại, bóc lột và sao nhãng nhằm ngăn chặn, giúp phục hồi và tái hòa nhập cho trẻ em [6].

Luật Trẻ em năm 2016 đưa ra định nghĩa về BVTE như sau: “Bảo vệ trẻ em là việc thực hiện các biện pháp phù hợp để bảo đảm trẻ em được sống an toàn, lành mạnh; phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm hại trẻ em; trợ giúp trẻ em có HCĐB” [21].

Như vậy, với cách tiếp cận về BVTE theo từng cấp độ cụ thể từ bảo đảm môi trường sống an toàn cho trẻ em đến việc phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý hành vi xâm hại trẻ em và trợ giúp khi trẻ em rơi vào HCĐB, Luật Trẻ em đã đưa ra được khái niệm khá toàn diện về BVTE.Trẻ em không phân biệt gái, trai, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội …đều được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, được hưởng các quyền lợi theo quy định của pháp luật.

1.1.3. Chăm sóc trẻ em

Chăm sóc trẻ em là sự đáp ứng nhu cầu phát triển tâm, sinh lý của trẻ em; cụ thể hơn là đáp ứng nhu cầu phát triển thể chất, tâm lý, tình cảm, đạo đức và xã hội của trẻ; Hiểu một cách đơn giản Chăm sóc trẻ em là hoạt động nuôi dưỡng, giáo dục, theo dõi quá trình phát triển của trẻ nhỏ. 

Bất cứ một trẻ em nào, từ khi mới lọt lòng mẹ đến tuổi trưởng thành đều cần sự chăm sóc về thể chất, tâm lý, tình cảm, đạo đức và xã hội.

1.1.4. Chính sách công

Chính sách công là tập hợp những quyết định mang tính chính trị nhằm vạch ra những đường hướng hành động ứng xử cơ bản của chủ thể quản lý với các vấn đề, hiện tượng tồn tại trong đời sống để thúc đẩy và quản lí sự phát triển nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định cho trước. Khái niệm chính sách công được diễn đạt khái quát như sau: “Chính sách công là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu xác định của Đảng chính trị cầm quyền” [13].

1.1.5. Chính sách bảo vệ trẻ em, chăm sóc trẻ em

Từ quan niệm về “chính sách công” và “bảo vệ, chăm sóc trẻ em” nêu trên chúng ta có thể định nghĩa về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em như sau: Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là tập hợp các quyết định có liên quan tới việc lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em theo mục tiêu nhà nước đã xác định.

Việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là việc thực hiện hóa cácquyết định chính trị về bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nó có nhiệm vụ hiện thực hóa các chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của nhà nước vào cuộc sống.

1.1.6. Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Là một khâu hợp thành chu trình chính sách, thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em có vị trí rất quan trọng. Chu trình chính sách nếu khuyết thiếu công đoạn này thì sẽ bị đứt gãy, không thể tồn tại vì thực hiện chính sách có vai trò trung tâm, kết nối các bước trong chu trình chính sách thành một hệ thống hoàn chỉnh.

Tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em để từng bước thực hiện các mục tiêu chính sách và mục tiêu chung. Mục tiêu của chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em có liên quan đến nhiều vấn đề, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thực tế, trong quá trình thực hiện chính sách này cho thấy muốn đạt được mục tiêu của chính sách thì phải thông qua việc thực hiện chính sách, và các mục tiêu của chính sách thì cần phải có quan hệ với nhau và ảnh hưởng đến các mục tiêu chung.

Thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn để khẳng định được tính đúng đắn, tính hợp lý của chính sách. Chính sách này khi triển khai rộng rãi sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, và khi chính sách được xã hội chấp nhận thì cho thấy tính xác thực, tính đúng đắn của chính sách.

Như chúng ta đều biết chính sách là do sự góp sức của một tập thể và do tập thể đó hoạch định mà nên. Tuy vậy trong quá trình hoạch định chính sách chúng ta cũng không tránh khỏi những ý kiến, những góp ý mang tính chất chủ quan, điều đó sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả chung trong quá trình thực hiện chính sách. Do vậy, khi chính sách được thực thi thì những người hoạch định chính sách cần nghiên cứu, xem xét và rút kinh nghiệm. Trên cơ sở đó, thực hiện chỉnh sửa để chính sách ngày một đúng đắn, hoàn thiện hơn. 

1.2. Quy trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Luận văn vận dụng hướng tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội và vận dụng các phương pháp nghiên cứu từ lý thuyết chính sách công. Đó là cách tiếp cận quy phạm chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng chính sách, thực hiện và đánh giá chính sách có sự tham gia của các bên chủ thể chính sách, cụ thể việc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trải qua 07 bước sau:

– Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện chính sách một cách chủ động hoàn toàn. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan triển khai thực thi chính sách từ Trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện. Kế hoạch triển khai thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm những nội dung cơ bảnsau:

Thứ nhất, lập kế hoạch tổ chức điều hành cần đảm bảo những dự kiến về hệ thống các cơ quan chủ trì và phối hợp triển khai thực hiện chính sách; số lượng và chất lượng nhân sự tham gia tổ chức thực thi; những dự kiến về cơ chế trách nhiệm của cán bộ quản lí và công chức thực thi; cơ chế tác động giữa các cấp thực thi chính sách.

Thứ hai, xác định kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực gồm dự kiến về các cơ sở kiến trúc, trang thiết bị kĩ thuật phục vụ cho tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em; các nguồn lực tài chính.

Thứ ba, kế hoạch thời gian triển khai thực hiện đó là kiến về thời gian duy trì chính sách; dự kiến các bước tổ chức triển khai thực hiện từ tuyên truyền chính sách đến tổng kết rút kinh nghiệm. Mỗi bước đều có mục tiêu cần đạt được và thời gian dự kiến cho việc thực hiện mục tiêu.

Thứ tư, kế hoạch kiểm tra thực thi chính sách là những dự kiến về tiến độ, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát tổ chức thực thi chính sách.

Thứ năm, dự kiến những nội quy, quy chế trong thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm nội quy, quy chế về tổ chức, điều hành; về trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước tham gia tổ chức điều hành chính sách; về các biện pháp khen thưởng, kỷ luật cá nhân, tập thể trong tổ chức thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

– Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Sau khi bản kế hoạch thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em được thông qua, các cơ quan trong bộ máy nhà nước tiến hành tổ chức triển khai thực hiện theo kế hoạch.

Một là, trong quá trình thực hiện chính sách phải truyên truyền vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Phổ biến, tuyên truyền chính sách tốt giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; hiểu rõ về tính đúng đắn của chính sách trong điều kiện hoàn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách để họ có thể tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lí của nhà nước. Đồng thời, phổ biến, tuyên truyền chính sách còn giúp cho mỗi cán bộ, công chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính chất, trình độ, quy mô của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách được giao.

Hai là, chủ thể phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em bao gồm đội ngũ cán bộ trong bộ máy cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ. Đội ngũ này phải được đào tạo đủ trình độ, kinh nghiệm, kĩ năng trong việc tuyên truyền, phổ biến chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em đảm bảo chính sách khi được phổ biến, tuyên truyền phải đảm bảo tính trung thực, khách quan.

Ba là, đối tượng phổ biến, tuyên truyền chính bảo vệ, chăm sóc trẻ embao gồm:

– Những công dânđược tác động trực tiếp và là đối tượng thụ hưởng chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

– Những công dân bị tác động gián tiếp bởi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đây là những nhân tố góp phần làm cho chính sách hiệu quả.

– Những đối tượng tham gia thực thi, triển khai chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Bốn là, phương tiện và cách thức tuyên truyền: Tuyên truyền là một trong những hoạt động hiệu quả nhất nhằm nâng cao nhận thức của người dân và toàn xã hội trong thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Nội dung tuyên truyền phải đa dạng về cách thức và phong phú về hình thức đáp ứng được nhu cầu của từng đối tượng tuyên truyền.

– Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Hoạt động phân công, phối hợp diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em một cách chủ động, sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả chính sách, đảm bảo phát huy được tính năng động, sáng tạo của các yếu tố cấu thành và tác động đến chính sách. 

– Bước 4: Duy trì chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Duy trì chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là toàn bộ hoạt động đảm bảo cho chính sách phát huy tác dụng trong đời sống chính trị xã hội. Đồng thời, phải có sự quyết tâm và thống nhất cao của các tổ chức, người thực thi và môi trường thực hiện chính sách.

Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em phải chủ động tổ chức thực thi chính sách, tăng cường công tác tuyên truyền, vận động các đối tượng chính sách và toàn xã hội tích cực tham gia thực thi chính sách. Nếu việc thực thi chính sách gặp phải những khó khăn do môi trường thực tế biến động thì các cơ quan nhà nước sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách, đồng thời chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với hoàn cảnh mới.

– Bước 5: Điều chỉnh chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Trong quá trình thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em, do tác động của nhiều yếu tố, chính sách sẽ bộc lộ sự bất cập. Do đó, việc điều chỉnh chính sách là một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực hiện chính sách. Nó được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lí và tình hình thực tế. Theo quy định, cơ quan nào ban hành chính sách thì được quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách, nhưng trên thực tế, việc điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách diễn ra rất linh hoạt, vì thế cơ quan quản lí nhà nước các ngành, các cấp chủ động điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách để thực hiện sao cho có hiệu quả, miễn là không làm thay đổi mục tiêu của chính sách.

– Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách vệ, chăm sóc trẻ em

Đôn đốc thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em là hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức có thẩm quyền thực hiện, thông qua các công cụ hữu ích nhằm làm cho các chủ thể thực thi nêu cao ý thức trách nhiệm trong thực hiện các biện pháp theo định hướng chính sách; vừa thúc đẩy các chủ thể nỗ lực nhiều hơn để hoàn thành nhiệm vụ, vừa phòng, chống những hành vi vi phạm quy định trong quá trình thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

– Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Đánh giá, tổng kết trong tổ chức thực thi chính sách được hiểu là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo, điều hành và chấp hành chính sách của các đối tượng thực thi chính sách. Đối tượng được xem xét, đánh giá tổng kết về chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài ra, còn xem xét cả vai trò, chức năng của các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội và xã hội trong việc tham gia thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Cơ sở để đánh giá, tổng kết công tác chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em trong các cơ quan nhà nước là kế hoạch được giao và những nội quy, quy chế được xây dựng ở bước một của phần này; đồng thời còn kết hợp sử dụng các văn bản liên tịch giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội và các văn bản quy phạm khác để xem xét tình hình phối hợp chỉ đạo, điều hành thực thi chính sách công của các tổ chức chính trị và xã hội với Nhà nước.

1.3. Hệ thống chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

1.3.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là một trong những truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam được gìn giữ, tôn trọng và phát huy. Trẻ em
luôn được coi là nhân tố quan trọng trong đường lối, chiến lược phát triển con
người của Đảng và Nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm và sự quan tâm đặc biệt cho những chủ nhân nhỏ tuổi của đất nước vì “Ngày nay các cháu là nhi đồng. Ngày sau các cháu là người chủ của nước nhà, của thế giới” [16]. Người còn căn dặn: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [17].

Trong suốt tiến trình cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, dù ở thời
kỳ cách mạng giải phóng dân tộc trước đây cho đến thời kỳ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay thì vấn đề BVTE luôn được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm và thể hiện trong chủ trương, đường lối
lãnh đạo của Đảng.Các chủ trương, chính sách của Đảng về BVTE được quy
định trong nhiều văn kiện nhưng đáng chú ý là Chỉ thị số 55-CT/TW ngày 28/6/2000 Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng ở cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, trong đó yêu cầu hạn chế đến mức thấp nhất sự xâm hại đối với trẻ em. Có biện pháp giải quyết tốt một số mục tiêu quan trọng như: Tích cực phòng chống tình trạng dụ dỗ trẻ em tham gia buôn bán và nghiện hút ma túy, trẻ em bị xâm hại, trẻ em làm trái pháp luật, trẻ em lang thang kiếm sống [4].

Ngày 5/11/2012 Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 20/CT-TW về việc “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới”. Trong đó, yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể phải quan tâm giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc, giáo dục và BVTE; phê phán, lên án các hành vi vi phạm pháp luật, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ em vào hoạt động tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và BVTE.

Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lọt sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37) [20].

Luật BVCSGDTE năm 2004 thay thế cho Luật BVCSTE năm 1991 và kế thừa, phát huy những hiệu quả của Luật năm 1991 về vấn đề trẻ em nhưng đồng thời tiếp thu có chọn lọc các quy định của pháp luật các nước và văn kiện quốc tế; sửa đổi, bổ sung những quy định để điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh, bảo đảm phù hợp, thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đề ra.

Tuy nhiên, bối cảnh kinh tế – xã hội của đất nước có nhiều thay đổi, sựhội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm xuất hiện nhiều vấn đề mới tácđộng đến công tác BVCSTE. Vì thế, Luật BVCSGDTE năm 2004 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng yêu cầu của các vấn đề mới phát sinh, đặc biệt là vấn đề về BVCSTE. Vì vậy, ngày 05 tháng 4 năm 2016, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Trẻ em gồm 7 chương với 106 điều (tăng 46 điềuso với Luật 2004)

Luật trẻ em 2016 ra đời là cơ sở pháp lý cao nhất quy định về quyền, bổn phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Để cụ thể hóa thực hiện Luật trẻ em, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật trẻ em.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình BVTE giai đoạn 2016-2020 và Chương trình mục tiêu Phát triển hệ thống trợ giúp xã hội giai đoạn 2016-2020, trong đó có dự án Phát triển hệ thống bảo vệ trẻ em. Đồng thời, ban hành Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 16/5/2017 về việc tăngcường giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

Ngày 26/5/2020 Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg về việc tăng cường các giải pháp đảm bảo thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em. Đây là cơ sở pháp lý để các ban, ngành và cả hệ thống chính trị vào cuộc chăm lo cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em vì mục tiêu phát triển ổn định và lâu dài của đất nước.

Trong những năm gần đây, quan điểm về chăm sóc, bảo vệ trẻ em của Đảng, Chính phủ Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng. Xác định rõ vị trí và tầm quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc trẻ em gắn với mục tiêu phát triển đất nước theo hướng bền vững và hội nhập, các quan điểm về bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã hướng tới đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc trẻ em là của toàn thể các cấp đảng, chính quyền, tổ chức chính trị xã hội và của toàn thể xã hội.[11]

1.3.2. Chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em

Có thể nói, chính sách về BVCSTE đang hướng tới mục tiêu tạo môi trường an toàn, lành mạnh mà ở đó tất cả trẻ em đều được bảo vệ theo ba cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ, can thiệp. Có thể đánh giá những điểm mạnh trong việc hoàn thiện chính sách bảo vệ, chăm sóc trẻ em của Việt Nam trong những năm gần đây như sau:

Thứ nhất, chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em chuyển từ xây dựng luật pháp, chính sách, chương trình đến từng nhóm đối tượng trẻ em yếu thế trong xã hội sang xây dựng khung pháp lý toàn diện.

Chính sách Bảo vệ, chăm sóc trẻ em trước kia chỉ tập trung giải quyết hậu quả, chăm sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tuy nhiên trong những năm gần đây đã chú trọng đến việc chủ động phòng ngừa, can thiệp sớm, loại bỏ những nguy cơ cho mọi trẻ em trước khi bị tổn hại. Đặc biệt, Chương trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012-2020 (Quyết định 1555/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/10/2012) đã đưa ra khung chương trình, chính sách đầu tư cho trẻ em trung hạn và dài hạn nhằm hướng tới một khung chính sách toàn diện cho trẻ em.

Thứ hai, xây dựng được hệ thống chính sách và chương trình toàn diện theo hướng tiếp cận từ đáp ứng nhu cầu trẻ em sang đảm bảo quyền cho mọi trẻ em trong xã hội.

Các đối tượng được hưởng chính sách xã hội không chỉ bó hẹp trong 14 nhóm trẻ em có HCĐB quy định trong Luật trẻ em 2016 mà mở rộng ra các nhóm có nguy cơ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế -xã hội còn khó khăn, nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội cho trẻ em còn rất hạn hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; mức trợ cấp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt còn thấp, chưa bảo đảm được mức tối thiểu các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục, chăm sóc sức khỏe; chênh lệch các chỉ số về an sinh xã hội giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với mức trung bình của cả nước còn lớn. Do đó, hướng tiếp cận xây dựng hệ thống chính sách chưa thể đảm bảo quyền của trẻ em ngay được mà chỉ tập trung chính vào đáp ứng nhu cầu cho trẻ.

Thứ ba, định hướng chính sách phát triển xã hội về lĩnh vực BVCSTE đến năm 2020

Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, một số vấn đề có liên quan đế chính sách phát triển xã hội liên quan đến BVCSTE như sau:

– Về trợ giúp xã hội trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn: tiếp tục mở rộng đối tượng thụ hưởng với hình thức hỗ trợ thích hợp; nâng dần mức trợ cấp xã hội thường xuyên phù hợp với khả năng ngân sách nhà nước. Xây dựng mức sống tối thiểu phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội làm căn cứ xác định người thuộc diện được hưởng trợ giúp xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội. Củng cố, nâng cấp hệ thống cơ sở bảo trợ xã hội, phát triển mô hình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào triển khai các mô hình chăm sóc trẻ mồ côi, người khuyết tật.

– Bảo đảm mức tối thiểu về một số dịch vụ xã hội cơ bản cho trẻ em, đặc biệt trẻ em nghèo, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và trẻ em dân tộc thiểu số:

a) Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Tăng số lượng học sinh trong các trường dân tộc nội trú, mở rộng mô hình trường bán trú; xây dựng và củng cố nhà trẻ trong khu công nghiệp và vùng nông thôn. Xây dựng đề án phổ cập mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi. Nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở, đặc biệt là đối với con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn

b) Bảo đảm y tế tối thiểu: Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em.

c) Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiểm y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo:Triển khai đầy đủ, kịp thời các chương trình tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ em; xây dựng và thực hiện chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, nâng cao sức khỏe, tầm vóc thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số; thực hiện đồng bộ các giải pháp tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo trong đó có trẻ em được tiếp cận dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh ở tuyến Trung ương thông qua chính sách BHYT; quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế, có cơ chế đào tạo cán bộ có trình độ chuyên sâu là người dân tộc thiểu số ở địa phương.

d) Bảo đảm nước sạch: Chương trình “Nước sạch học đường” đang ngày càng nhận được sự quan tâm và đồng hành của nhiều doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước với muốn mang nguồn nước sạch uống trực tiếp đạt chuẩn quốc gia đến học sinh và giáo viên của các trường học khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các vùng, miền trên cả nước góp phần mang lại sức khỏe và cuộc sống tốt đẹp hơn cho trẻ em Việt Nam.

e) Bảo đảm thông tin.

– Đảm bảo Quyền trẻ em cho mọi trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh và thân thiện; Giảm thiểu bất bình đẳng về mức sống, về cơ hội phát triển giữa các nhóm trẻ em khác nhau; Tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc trong xã hội liên quan đến ngược đãi, xâm hại, bạo lực, bóc lột, xao nhãng trẻ em, mại dâm trẻ em, trẻ em nghiên ma túy, vi phạm phát luật… đảm bảo ổn định trật tự xã hội.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 1/ TRAN THI DIEM PHUC

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *