Thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước

Thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước

Thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối với bất kỳ một quốc gia nào thì ngân sách nhà nước luôn thể hiện vai trò vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực hoạt động bao gồm kinh tế, xã hội, anh ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Có thể hiểu rằng vai trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của Nhà nước theo các giai đoạn hay thời kỳ nhất định. Trong nền nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước còn đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Là công cụ để Nhà nước điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống, xã hội.

Với vai trò đặc biệt quan trọng đó là thực hiện chính sách quản lý thu NSNN luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, và một trong những nguồn thu chính, chủ yếu cho NSNN đó là thu từ thuế. Do đó, Đảng và Nhà Nước ta luôn thể hiện sự quan tâm lớn đối với công tác thu NSNN, đặc biệt là thuế. Điều này cũng đã được khẳng định và thể hiện tại Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đó là “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh. Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập. Không lồng ghép chính sách xã hội trong chính sách thuế. Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế, quản lý thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế; hiện đại hóa công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế” [2, tr.43]. Cùng với quá trình phát triển kinh tế của đất nước, hệ thống quản lý thuế và chính sách thuế của Việt Nam ngày càng được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và cải cách thủ tục hành chính, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Trong bối cảnh nền kinh tế nước ta ngày một hội nhập sâu rộng hơn với các nước trong khu vực và trên thế giới, và với việc bước vào cuộc cách mạng 4.0 chúng ta cần phải thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế để nâng cao năng lực và sức cạnh tranh. Điều đó đã đặt ra yêu cầu là phải tiếp tục đổi mới tài chính chính công mà NSNN là trụ cột, với việc nợ công cao và thâm hụt ngân sách vẫn diễn ra thì việc Chính phủ đưa ra chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 để góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững là một trong những chính sách vĩ mô vô cùng quan trọng và hết sức kịp thời.

Qua quá trình thực hiện chính sách quản lý thu NSNN trên địa bàn, đặc biệt là trong quản lý thu các nguồn thu từ thuế, thực tế trong thời gian qua cho thấy đâu đó vẫn còn tình trạng một bộ phận NNT ý thức tự giác chấp hành nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN còn chưa cao, chưa nghiêm. Tình trạng quản lý nguồn thu chưa chặt, chưa sát với thực tế tình hình sản xuất kinh doanh, thất thu trên một số lĩnh vực còn xảy ra đã tạo nên sự bất bình đẳng trong thực thi pháp luật thuế, ít nhiều làm ảnh hưởng và tác động đến nguồn thu NSNN trên địa bàn, tác động đến quá trình phát triển KT-XH của địa phương.

Nhận thức được tầm quan trọng, sự cần thiết trong việc tăng cường, nâng cao hiệu quả công tác thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách cho huyện nhà trong điều kiện hiện nay, đồng thời khắc phục những hạn chế và yếu kém nêu trên, tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước trên địa bàn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ cho mình.

  1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận quản lý nhà nước về thu ngân sách và thu ngân sách nhà nước từ thuế. Luận văn chủ yếu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng công tác thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách Nhà nước từ thuế trên phạm vi địa bàn huyện Phước Sơn, nêu ra kết quả, hạn chế và nguyên nhân. Qua đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế tại huyện Phước Sơn.

3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài gồm các nhiệm vụ sau:

  • Hệ thống hóa lý luận những vấn đề cơ bản về ngân sách nhà nước, thu ngân sách nhà nước và quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế.
  • Đánh giá thực trạng công tác thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế tại Chi cục thuế huyện, từ đó đánh giá nguyên nhân, hạn chế khi triển khai thực hiện chính sách.
  • Đề xuất một số giải pháp nhằm giúp thực hiện có hiệu quả hơn nữa trong việc áp dụng, triển khai thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế trên địa bàn huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.
  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Về thời gian: Nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2016-2018.

  1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
    1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các Văn kiện của Đảng, văn bản của Nhà nước về công tác quản lý thu ngân sách và thu ngân sách từ thuế. Các Nghị quyết, chủ trương, biện pháp thu ngân sách nhà nước trên địa bàn của Huyện ủy, HĐND và UBND huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập thông tin

Những số liệu được thu thập để phục vụ cho việc nghiên cứu và viết đề tài là số liệu thứ cấp. Đề tài thu thập số liệu về điều kiện KT-XH, điều kiện tự nhiên, số liệu thu NSNN và dự toán thu NSNN từ các báo cáo tổng kết hàng năm giai đoạn 2016 – 2018 của Cục thuế tỉnh Quảng Nam, của HĐND -UBND huyện Phước Sơn, Phòng Tài chính – Kế hoạch huyện Phước Sơn, Kho bạc Nhà nước huyện Phước Sơn, Chi cục Thuế huyện Phước Sơn và từ sách, báo, tạp chí và các trang web có tư liệu liên quan đến chuyên đề nghiên cứu, các luận văn, luận án đã được công bố. Các số liệu thứ cấp sau khi thu thập đã được tác giả tổng hợp và hệ thống hóa lại những lý luận cũng như thực tiễn và giải pháp ở các địa phương; qua đó phân tích và đánh giá thực trạng công tác quản lý thu NSNN ở chương 2 và phương hướng, đề xuất ở chương 3.

Phương pháp tổng hợp thông tin

Tổng hợp và xử lý thông tin, sử dụng các công cụ tính toán là phần mềm Excel, tiến hành nhập dữ liệu và tổng hợp theo mục đích, nội dung nghiên cứu của luận văn.

Phương pháp phân tích, đánh giá

Dùng phương pháp thống kê mô tả để tính toán các loại số liệu tương đối, số tuyệt đối, số bình quân và một số chỉ tiêu khác để so sánh và phân tích, làm rõ thực trạng thu ngân sách và quản lý thu NSNN của huyện. Từ đó đánh giá được các nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước của huyện.

Sử dụng phương pháp thống kê so sánh để đối chiếu các chỉ tiêu, các chỉ số kinh tế đã được lượng hóa có cùng một nội dung. Phương pháp này bao gồm so sánh năm sau so với năm trước, so sánh việc thực hiện kế hoạch so với việc lập kế hoạch, các nội dung có tính chất tương tự để xác định xu hướng biến động của các chỉ tiêu. Kết quả sẽ cho ta tổng hợp được những cái chung, tách ra được những cái riêng của chỉ tiêu cần so sánh. Qua đó ta có thể đánh giá được các chỉ tiêu một cách khách quan về thực trạng thu ngân sách của huyện, từ đó đưa ra phương pháp và các giải pháp nhằm đạt hiệu quả tốt hơn.

  1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
    1. Ý nghĩa lý luận
  • Hệ thống hóa các cơ sở lý luận về ngân sách nhà nước, thu ngân sách nhà nước và quản lý thu NSNN từ thuế.
  • Thực hiện phân tích, đánh giá một cách tương đối đầy đủ thực trạng công tác thực hiện chính sách quản lý thu NSNN từ thuế trên địa bàn huyện Phước Sơn, chỉ ra những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân.
    1. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cở sở phân tích, đánh giá thực trạng, kết hợp với lý luận và thực tiễn, so sánh với kinh nghiệm của các địa phương khác. Từ đó nêu ra được các giải pháp có tính khả thi nhằm mang lại hiệu quả tốt hơn trong công tác thực hiện chính sách quản lý thu NSNN từ thuế tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam trong thời gian đến.

  1. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận về ngân sách Nhà nước và quản lý thu ngân sách Nhà nước từ thuế

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách Nhà nước từ thuế tại huyện Phước Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách Nhà nước từ thuế.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TỪ THUẾ

1.1. Các khái niệm liên quan

1.1.1. Khái niệm về ngân sách Nhà nước

Sự xuất hiện thuật ngữ “Ngân sách Nhà nước” đã ra đời từ lâu và ngày nay được sử dụng phổ biến trong đời sống kinh tế – xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi tài chính của Nhà nước, hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế – xã hội. Dù rất đa dạng, phong phú nhưng chúng lại có những đặc điểm chung đó là; Các hoạt động thu, chi của NSNN luôn luôn gắn liền với quyền lực kinh tế – chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ , quy tắc nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước.

Ở góc độ phân cấp thu – chi thì ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân.

Theo Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định: “Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiện vụ của Nhà nước” [21, tr.3].

Từ những lập luận và khái niệm trên ta có thể hiểu một cách khái quát về NSNN xét trên hai khía cạnh đó là, ở thể động và trong suốt một quá trình thì NSNN là yếu tố cơ bản, chủ đạo của tài chính nhà nước, được nhà nước sử dụng để động viên phân phối một bộ phận nguồn lực xã hội dưới dạng tiền tệ về cho nhà nước để phục vụ chức năng, nhiệm vụ về kinh tế – xã hội mà nhà nước phải điều hành. Thứ hai xét ở thể tĩnh và hình thức bên ngoài thì NSNN đó là toàn bộ các khoản thu, chi bằng tiền của nhà nước và đã được các cơ quan có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định tùy vào chiến lược ngắn hạn hoặc trung hạn và dài hạn và thường được ấn định dưới một con số cụ thể.

1.1.2. Khái niệm thu ngân sách nhà nước

Thu ngân sách Nhà nước thực chất đó là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia để qua đó hình thành nên quỹ ngân sách Nhà nước để nhằm mục đích thỏa mãn cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật ngân sách Nhà nước năm 2015 thì: “Thu ngân sách Nhà nước bao gồm các khoản thu từ thuế, lệ phí; Toàn bộ các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do cơ quan nhà nước thực hiện, các khoản phí thu từ các hoạt động dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước thực hiện nộp ngân sách nhà nước theo quy định pháp luật, các khoản viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho Chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phương và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật” [21, tr.4].

1.1.3. Thu ngân sách Nhà nước từ thuế

1.1.3.1. Khái niệm về thuế

Khi xã hội loài người được hình thành cần có một tổ chức lãnh đạo được lập ra và hoạt động nhằm đem đến lợi ích cho tất cả mọi người. Điều này đặt ra phải có một quỹ chung để thực hiện và chi cho các công việc cần thiết, và thuế được hình thành. Theo tài liệu ghi nhận thì thuế được áp dụng đầu tiên ở Ai Cập cổ đại vào khoảng năm 3000-2900 TCN, nếu không trả tiền hoặc trốn thuế, chống lại việc nộp thuế sẽ bị phạt theo quy định của pháp luật.

Như vậy, một trong những khái niệm phổ biến nhất về thuế đó là “Thuế là một khoản thu bắt buộc, không mang tính chất bồi hoàn trực tiếp của Nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và vì lợi ích chung” [1, tr.14].

Với đặc thù rất riêng của mình, thuế mang sẵn trong nó những đặc điểm cơ bản sau;

Thuế là hình thức đóng góp được quy định trước và được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu.

Thuế là hình thức động viên nhưng mang tính bắt buộc trên nguyên tắc luật định, nó gắn với quyền lực và thể hiện sức mạnh của Nhà nước trong việc ấn định phải nộp và người nộp thuế có nghĩa vụ phải tuân theo.

Thuế là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Thuế dựa vào thực trạng của nền kinh tế (GDP, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, thu nhập, lãi suất…).

1.1.3.2. Nội dung cơ bản về quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế

Quản lý thu NSNN từ thuế về bản chất cũng là thu NSNN nhưng có sự hạn chế hơn về phạm vi áp dụng và đối tượng áp dụng khi thu. Như vậy, quản lý thu NSNN từ thuế là hoạt động của các cơ quan chủ thể quản lý thu thông qua việc sử dụng có chủ đích các công cụ pháp lý, phương pháp quản lý để tác động và điểu chỉnh hoạt động thu thuế của ngân sách các cấp nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra từ trước.

Quá trình tác động và điều chỉnh của chủ thể quản lý như sau:

Vận dụng các phương pháp thích hợp tác động đến quá trình thu thuế đối với từng cấp phù hợp với yêu cầu khách quan của nền kinh tế cũng như điều kiện của từng địa phương.

Vận dụng chức năng dự báo để hoạch định chiến lược, kế hoạch, chính sách, chế độ liên quan đến công tác thu thuế.

Vận dụng các phương pháp thích hợp để tiến hành kiểm tra, thanh tra bảo đảm cho quá trình thu thuế đúng pháp luật, chống các hành vi tiêu cực trpng quá trình tổ chức quản lý thu.

Quy trình triển khai công tác thu NSNN từ thuế thường trải qua các bước sau;

Thứ nhất, Việc thu thuế phải được lập kế hoạch trước khi thu

+ Việc lập kế hoạch thu là khâu đầu tiên đối với chức năng quản lý thu NSNN của ngành thuế, kế hoạch thu có ảnh hưởng đến dự toán cân đối thu – chi ngân sách Nhà nước trong mỗi chu kỳ.

+ Kế hoạch thu thuế có vai trò định hướng hoạt động trong một thời kỳ nhất định.

Tính trên phạm vi cả nước, kế hoạch thu là một bộ phận quan trọng trong dự toán NSNN. Đây là cơ sở để phân bổ nguồn lực tài chính cho hoạt động của Chính phủ, đồng thời là cơ sở xây dựng cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Đối với mỗi địa phương thì đây là chỉ tiêu để xác định số thu NSNN địa phương, qua đó xác định được số chi bổ sung hoặc điều tiết ngân sách giữa cấp trên và cấp dưới. Là cơ sở để xét thi đua, khen thưởng trong quá trình thực hiệ dự toán thu ngân sách của địa phương.

Đối với ngành thuế đây là yếu tố hàng đầu và không thể tách rời trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành. Đây là nhiệm vụ được Nhà nước giao, mang tính pháp lệnh trong công tác thu thuế, chỉ tiêu dự toán thu được giao là mục tiêu chỉ đạo của cơ quan thuế các cấp đối với cơ quan thuế cấp dưới trực thuộc.

+ Để có thể lập được kế hoạch thu, ngành thuế dựa vào các căn cứ sau:

Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của Chính phủ 5 năm hiện hành, tình hình phát triển kinh tế ở năm lập kế hoạch và dự báo cho những năm tiếp theo trong chu kỳ kế hoạch.

Luật quản lý thuế, các luật thuế hiện hành và các văn bản quy định hướng dẫn thi hành các luật thuế.

Chủ trương và chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước ở năm kế hoạch và các năm tiếp theo.

+ Các căn cứ xây dựng kế hoạch thu, bao gồm:

Dự toán thu của ngành thuế được Quốc hội và Chính phủ giao hành năm dựa vào kết quả thu năm trước liền kề, dự toán chi ngân sách cho năm lập kế hoạch kết hợp với tình hình biến động về kinh tế, xã hội đã được dự báo trước.

Sau khi có dự toán toàn ngành, Tổng cục Tthuế sẽ giao dự toán thu pháp lệnh cho Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở kết quả thu năm trước và dự báo các chỉ tiêu về tình hình kinh tế của địa phương sở tại.

Tiếp sau đó, Bộ tài chính, HĐND và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sẽ giao nhiệm vụ thu phấn đấu tăng thu so với dự toán pháp lệnh theo tỷ lệ nhất định nào đó.

Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ vào dự toán pháp lệnh và dự toán phấn đấu được cấp trên giao, tổ chức giao dự toán thu cho các Chi cục thuế quận, huyện, Chi cục thuế khu vực và các phòng trực thuộc cục thuế.

Chi cục thuế căn cứ vào dự toán được cấp trên giao sẽ giao dự toán thu cho các đội trực thuộc chi cục để thực hiện.

Thứ hai, tổ chức thực hiện công tác thu thuế

+ Về xây dựng bộ máy thu thuế

Hiệu quả của quá trình quản lý thu thuế một phần phụ thuộc vào tổ chức bộ máy thu. Do đó, tổ chức bộ máy thu thuế cũng là nội dung quan trọng trong quản lý thu thuế. Khi xây dựng bộ máy thu thuế thì các nước đều tính đến vấn đề cơ bản sau:

– Mối quan hệ, vị trí của ngành thuế và chính quyền địa phương.

Đây là vấn đề rất quan trọng trong việc tổ chức bộ máy thu thuế, trong thực tế công tác tổ chức thu thuế và thực thi pháp luật thuế cần phải có sự phối hợp và đặc biệt là sự hỗ trợ của chính quyền địa phương sở tại.

– Mô hình ngành thuế ở các địa phương là vấn đề rất quan trọng trong công tác tổ chức bộ máy ngành, nó có vai trò quyết định trong việc tổ chức thực thi nhiệm vụ của ngành.

– Tổ chức bộ máy ngành thuế có đặc điểm sau:

Thực hiện công tác quản lý thu thuế theo mô hình chức năng.

Tổ chức bộ máy theo địa bàn hành chính địa phương gồm có 3 cấp đó là; Trung ương, cấp Tỉnh và Huyện.

– Bộ máy quản lý thu thuế ở nước ta được thành lập thống nhất từ trung ương đến địa phương cấp huyện và cùng tổ chức nhiệm vụ thu thuế theo Luật Quản lý thuế hiện hành. Tính thống nhất của hệ thống tổ chức bộ máy cơ quan quản lý thuế thể hiện ở chỗ;

+ Hệ thống các cơ quan quản lý thuế thực hiện quản lý thu thuế và các khoản thu khác mang tính chất thuế của NSNN đối với tất cả các thành phần kinh tế, ngoài cơ quan thuế thì không một tổ chức hay cá nhân nào được thu thuế nếu không có sự ủy quyền của cơ quan thuế.

+ Các quy trình nghiệp vụ thu thuế và các khoản thu khác mang tính chất thuế đối với người nộp thuế được thực hiện thống nhất trong toàn ngành thuế, để đảm bảo tính chấp hành đúng các quy định của luật thuế và quy định về thu nộp các khoản thu khác của Nhà nước.

+ Tất cả cơ quan thuế ở mỗi cấp đều chịu sự chỉ đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và chính quyền địa phương sở tại.

+ Mỗi cơ quan thuế ở mỗi cấp chính quyền đều nằm trong hệ thống các cơ quan thuộc Nhà nước và có tư cách pháp nhân riêng.

Cơ quan thuế các cấp có nhiệm vụ và quyền hạn sau:

  • Tổng cục Thuế là đơn vị thu thuế nội địa cao nhất trong hệ thống thuế trực thuộc bộ tài chính, có chức năng tham mưu, giúp Bộ Tài chính quản lý nhà nước về các khoản thu nội địa trong phạm vi cả nước gồm; thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác ngân sách; tổ chức quản lý thu thuế theo luật Quản lý thuế và theo quy định của pháp luật.
  • Cục thuế ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là tổ chức thuộc Tổng cục Thuế, có nhiệm vụ tổ chức công tác quản lý thu thuế tại địa phương nơi đóng trụ sở theo phân cấp của Tổng cục Thuế và theo quy định của pháp luật.
  • Chi cục thuế quận, huyện, thị xã và Chi cục thuế khu vực trực thuộc Cục thuế tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi là Chi cục thuế) là tổ chức trực thuộc Cục thuế, có chức năng tổ chức thực hiện công tác quản lý thuế trên địa bàn nơi đóng trụ sở và quản lý thu theo phân cấp của Cục thuế.

Thứ ba, triển khai quản lý thu thuế

Quản lý thu thuế vào NSNN gồm hệ thống các cơ quan thu như cơ quan thuế, Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước, Phòng tài chính kế hoạch và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Việc quản lý thu thuế đối với cơ quan thuế gồm các công việc sau:

– Về việc tính thuế

Việc cơ quan thuế tính thuế, thông báo cho NNT chỉ còn được thực hiện đối với NNT là hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán thuế. Còn lại là NNT tự khai, tự nộp sau đó cơ quan thuế kiểm tra giám sát.

Bộ phận được giao tính thuế khoán cho NNT, hỗ trợ người nộp thuế trong công tác kê khai thuế, kê khai nộp phí, lệ phí và các khoản thu khác, hỗ trợ NNT thực hiện quyết toán thuế hàng năm là bộ phận Kê khai – kế toán thuế. Ngoài ra, bộ phận này còn thực hiện chức năng lập bộ, tính thuế, ra thông báo nộp thuế, theo dõi miễn, giảm thuế và lập báo cáo về công tác thu thuế để báo cáo lãnh đạo và báo cáo cấp trên theo quy định. Thực hiện chấm bộ thuế, theo dõi nợ đọng để cung cấp số liệu cho các bộ phận chức năng để theo dõi, đôn đốc thu.

– Công tác quản lý thu, nộp thuế

Theo quy định thì hàng tháng và quý hoặc kết thúc năm tương ứng với từng khoản thuế, từng kỳ kê khai người nộp thuế thực hiện nộp thuế qua ngân hàng, kho bạc hoặc cơ quan, tổ chức được cơ quan thuế ủy nhiệm thu thuế. Việc này khắc phục được những nhược điểm đã từng xảy ra đó là tiền thuế bị xâm tiêu, chiếm dụng khi cán bộ thuế trực tiếp thu thuế. Vì vậy, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thu để hỗ trợ tối đa cho NNT khi nộp tiền thuế vào NSNN, và cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của người nộp thuế.

– Quản lý người nộp thuế để thu thuế

Cơ quan thuế xác định các loại đối tượng thuộc diện phải nộp thuế theo luật định để quản lý thu, xác định nghĩa vụ phải khai nộp tháng, quý. Quản lý đối tượng thu là công việc quan trọng trong hoạt động quản lý thuế của cơ quan thuế. Để làm được việc này tốt đảm bảo không bỏ sót đối tượng thì các bộ phận chức năng được giao quản lý phải bám sát địa bàn, thường xuyên kiểm tra, khảo sát để cập nhật thông tin về tình hình các đối tượng mới phát sinh hoặc tình hình nghỉ, bỏ để cập nhật danh bạ người nộp thuế và điều chỉnh thông tin, nghĩa vụ thuế phải nộp kịp thời trển sổ bộ thuế. Phối hợp với các cơ quan đăng ký kinh doanh để thường xuyên trao đổi thông tin, cập nhật kịp thời trạng thái hoạt động của người nộp thuế để quản lý thu thuế. Muốn thu được thuế thì công tác quản lý người nộp thuế phải thật tốt và hiệu quả, nguồn thu tăng hay giảm là phụ thuộc phần lớn vào công tác này.

– Kiểm tra, giám sát công tác thu

Đây là bộ phận, công việc quan trọng giúp cho lãnh đạo cơ quan thuế các cấp trong việc giám sát người nộp thuế, các bộ công chức thuế ở các bộ phận trong việc thi hành pháp luật thuế ở các khâu của quy trình quản lý thu thuế. Công việc kiểm tra trong hệ thống quản lý thuế còn thực hiện chức năng giải quyết khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm trong quá trình quản lý thu thuế của cả hai phía là cơ quan thuế và người nộp thuế.

– Xử lý các hành vi vi phạm thủ tục thuế

Tùy theo cấp quản lý mà bộ phận chức năng sẽ được giao nhiệm vụ thực hiện xử lý các hành vi vi phạm thủ tục thuế của người nộp thuế. Chẳng hạn như ở cấp Cục thuế là do Phòng tuyên truyền hỗ trờ người nộp thuế thực hiện tiếp nhận hồ sơ khai thuế và xử lý, còn ở cấp Chi cục thuế thì công việc này được giao cho bộ phận Kê khai và kế toán thuế. Đối với các hành vi vi phạm về thủ tục thuế như kê khai chậm hồ sơ khai thuế, chậm thay đổi thông tin đăng ký thuế, không nộp hồ sơ khai thuế… đều bị lập biên bản vi phạm hành chính và bị xử lý theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.

Thứ tư, quản lý và giám sát người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ kê khai thuế

Công tác quản lý thuế là hoạt động đảm bảo thực thi chính sách thuế trong thực tế, trong đó vai trò của cơ quan thuế tác động lên người nộp thuế là rất quan trọng. Để đảm bảo tính thống nhất và đồng bộ trong việc thực hiện quản lý thu thuế, nước ta đã ban hành Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 và bắt đầu có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2007. Trong đó với điểm mới của luật đó là áp dụng cơ chế người nộp thuế tự khai, tự nộp và cơ quan thuế thực hiện kiểm tra, giám sát. Quản lý thuế theo cơ chế tự khai tự nộp là phương thức quản lý thuế hiện đại đang được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng, theo cách thức này người nộp thuế sẽ tự xác định kết quả kinh doanh của mình, tự khai tự nộp vào ngân sách nhà nước trên tinh thần tự giác xác định nghĩa vụ đóng thuế theo quy định của pháp luật.

Kể từ khi thực hiện Luật Quản lý thuế, công tác thu thuế đã tạo nên một bước tiến mới đó là việc các tổ chức, cá nhân khi kê khai nộp thuế tự chịu trách nhiệm về kết quả của việc tính thuế, khai thuế của mình trước pháp luật. Song song với công tác tuyên truyền, hỗ trợ là công tác thực hiện xử lý vi phạm hành chính để uốn nắn do đó đa số các hồ sơ khai thuế đều nộp đúng hạn, số hồ sơ khai thuế nộp chậm trễ chiếm tỷ lệ ngày càng nhỏ. Ngoài ra nhờ công tác đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế, giảm thiểu tối đa các thủ tục, hồ sơ không cần thiết, ứng dụng hỗ trợ công nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế, đặc biệt là khai thuế, nộp thuế đã tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho người nộp thuế trong việc phải đến giao dịch trực tiếp tại cơ quan thuế.

Nhờ vào việc áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp, tự chịu trách nhiệm và công tác phối hợp với cơ quan thu như kho bạc, ngân hàng, công tác hỗ trợ trực tuyến, hỗ trợ trực tiếp tại cơ sở NNT hoặc NNT đến cơ quan thuế để được hỗ trợ trong việc cài đặt và hướng dẫn sử dụng phần mềm kê khai, nộp thuế. Tuyên truyền hướng dẫn chính sách quy định thời hạn kê khai, nộp thuế với nhiều hình thức khác nhau như tờ rơi, tổ chức hội nghị tập huấn, đối thoại, thông qua tuyên truyền trên phương tiện thông tin đại chúng, phát thanh truyền hình. Qua đó số lượng người nộp thuế nọp chậm tiền thuế, nợ thuế dây dưa, chây ỳ đã giảm nhiều so với thời gian trước đây, góp phần vào việc huy động kịp thời tiền thuế phát sinh vào NSNN.

Trong Công tác tuyên truyền hỗ trợ: Với phương châm cơ quan thuế luôn đồng hành cùng người nộp thuế do đó mọi chính sách mới về thuế có sự thay đổi, những yêu cầu thắc mắc trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của NNT đều được cơ quan thuế giải đáp, hỗ trợ kịp thời đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý thu thuế.

Trong công tác xử lý tờ khai thuế: Nhờ áp dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý kê khai thuế nên công tác tiếp nhận và theo dõi xử lý tờ khai là nhanh và kịp thời, quan đó có thông báo hoặc nhắc nhở để người nộp thuế kịp thời khai bổ sung, điều chỉnh đối với các sai sót không trọng yếu nếu có. Ngoài ra, công tác xử lý kiểm tra tờ khai ban đầu cũng là một trong những dấu hiệu để cơ quan thuế sàng lọc, kiểm tra chuyên sâu sau này đối với các tờ khai thuế có dấu hiệu rủi ro, kê khai sai các chỉ tiêu trên tờ khai và sai nhiều lần có chủ đích.

Đối với công tác đôn đốc và thu nợ: Thực hiện đúng theo Luật và các quy trình trong đó có quy trình quản lý nợ thuế của Tổng cục thuế, theo dõi chi tiết các khoản nợ, tuổi nợ để có kế hoạch cụ thể trong công tác đôn đốc, nhắc nhở, ban hành thông báo hoặc chuẩn bị thực hiện các bước cưỡng chế nợ phù hợp đảm bảo thu được các khoản thuế đã phát sinh và có nghĩa vụ phải nộp, hạn chế tối đa việc nợ dây dưa, kéo dài ảnh hưởng đến tiến độ thu ngân sách và đôi khi làm cho người nộp thuế mất khả năng thanh toán vì nợ lớn dẫn đến thất thu cho NSNN.

Đối với công tác thanh tra, kiểm tra: Công tác thanh tra, kiểm tra đã ngày càng hoàn thiện theo hướng đảm bảo công bằng, đánh giá đúng mức độ rủi ro, hạn chế tối đa gây sự phiền hà cho người nộp thuế và dẫn đến tiêu cực không đáng có. Cụ thể là việc thanh tra kiểm tra chỉ được phép tiến hành khi chứng minh được người nộp thuế có dấu hiệu rủi ro bằng việc phân tích hồ sơ khai thuế qua giải trình, hoặc chỉ được thanh tra, kiểm tra các đối tượng nằm trong kế hoạch đã được phê duyệt, hoặc thanh tra, kiểm tra theo chuyên đề được cấp trên phê duyệt theo quy định.

Thứ năm, xử lý vi phạm trong quá trình quản lý thu thuế

Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thuế là việc người có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế có hành vi vi phạm làm trái các quy định pháp luật lĩnh vực thuế do cố ý hoặc không cố ý và phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật và luật quản lý thuế.

Tổ chức, cá nhân, người có nghĩa vụ nộp thuế nếu vi phạm pháp luật về thuế thì đều bị xử lý về hành vi vi phạm tùy theo tính chất và mức độ vi phạm thì bị xử lý từ phạt cảnh cáo cho đến phạt tiền và khắc phục hậu quả vi phạm đã gây ra. Trong trường hợp vi phạm đến mức phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan thuế chuyển hồ sơ vụ vi phạm sang cơ quan công an để tiếp tục điều tra và xử lý theo luật định.

Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong lĩnh vực thuế là hoạt động không thể thiếu của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, với nước ta thì đây là công tác vô cùng quan trọng không những của riêng ngành thuế mà cả các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước. Để nâng cao tính tự giác chấp hành và tuân thủ nghĩa vụ thuế, đảm bảo khai đúng, khai đủ và kịp thời thì ngoài công tác tuyên truyền, hỗ trợ, động viên thì không thể thiếu hoạt động thanh tra, kiểm tra. Đây là hoạt động vừa mang tính hướng dẫn, uốn nắn các thiếu sót, xử lý răn đe mà còn là lĩnh vực chống thất thu hiệu quả, mang lại nguồn tăng thu cho NSNN thông qua kết quả xử lý các sai phạm do người nộp thuế có hành vi khai sai, khai không đúng và thậm chí là cố tình trốn thuế, nhằm trục lợi tiền thuế của Nhà nước. Ngoài ra công tác thanh tra, kiểm tra còn mang lại sự công bằng giữa những người nộp thuế với nhau, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước.

1.1.3.3. Nội dung quản lý thuế

Căn cứ Điều 3, chương I, Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 của Quốc hội ngày 29/11/2006 quy định công tác quản lý thuế có 08 nội dung cơ bản đó là:

  • Đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
  • Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.
  • Xóa nợ tiền thuế, tiền phạt.
  • Quản lý thông tin về người nộp thuế.
  • Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
  • Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
  • Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
  • Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.

Quản lý thu NSNN từ thuế về bản chất cũng là thu NSNN nhưng có sự hạn chế hơn về phạm vi áp dụng và đối tượng áp dụng khi thu. Như vậy, quản lý thu NSNN từ thuế là hoạt động của các cơ quan chủ thể quản lý thu thông qua việc sử dụng có chủ đích các công cụ pháp lý, phương pháp quản lý để tác động và điểu chỉnh hoạt động thu thuế của ngân sách các cấp nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra từ trước.

1.2. Nội dung thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế

1.2.1. Chính sách thuế

Chính sách thuế là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm của Nhà nước thông qua sử dụng các công cụ thuế nhằm phục vụ những mục tiêu nhất định của Nhà nước trong những thời kỳ nhất định. Chính sách thuế là một trong các chính sách tài chính của Nhà nước,trong đó nội dung cơ bản của từng sắc thuế được sử dụng như là công cụ của chính sách trong việc quản lý kinh tế vĩ mô nhằm giúp cho Nhà nước đạt được những mục tiêu đã đề ra.

Vì vậy, chính sách thuế được hiểu là những quan điểm, đường lối của Nhà nước liên quan đến sử dụng công cụ thuế trong hệ thống gồm nhiều các chính sách của mình. Hệ thống quan điểm đó thể hiện qua việc nhìn nhận vai trò của thuế, mục tiêu sử dụng công cụ thuế, phạm vi tác động của nó, tỷ lệ mà từng loại thuế điều tiết và định hướng trong dài hạn để làm cho công cụ thuế phát huy tốt nhất vai trò của nó theo chiến lược và chính sách phát triển kinh tế, xã hội của nhà nước.

1.2.2. Nội dung các bước tổ chức thực hiện chính sách quản lý thu ngân sách nhà nước từ thuế

Như chúng ta đã biết, thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu, định hướng của Nhà nước.

Để tổ chức thực hiện có hiệu quả cao trong việc thực hiện chính sách quản lý thu NSNN từ thuế, trước tiên cần phải tuân thủ quy trình chặt chẽ và thống nhất nhằm phản ánh các bước thực hiện, cụ thể như sau:

1.2.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách quản lý thu NSNN từ thuế

Để thực hiện có hiệu quả chính sách quản lý thu NSNN từ thuế thì cần phải xây dựng một kế hoạch triển khai thực hiện cụ thể, chi tiết và rõ ràng. Kế hoạch phải đảm bảo được các yếu tố cơ bản sau;

+ Ta phải xây dựng kế hoạch về tổ chức điều hành: Trong đó giao cho cơ quan nào chủ trì và phối hợp thực hiện chính sách. Phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng cấp, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện chính sách để tránh sự chồng chéo, dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm và không hiệu quả.

+ Kế hoạch thực hiện cũng phải dự kiến được nguồn lực, vật lực đó là về cơ sở vật chất, trang thiết bị, nguồn lực tài chính phục vụ cho việc triển khai thực hiện được thuận lợi, kịp thời.

+ Việc xây dựng cũng phải xác định được mốc thời gian triển khai thực hiện thông qua việc dự kiến về thời gian duy trì chính sách, dự kiến bắt đầu từ khi tuyên truyền, phổ biến chính sách cho đến khâu cuối cùng là tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm…

+ Kế hoạch kiểm tra thực hiện chính sách: Bao gồm dự kiến về tiến độ, phương pháp kiểm tra, hình thức kiểm tra giám sát khi tổ chức thực hiện chính sách.

+ Xây dựng các dự kiến về nội quy, quy chế trong thực hiện chính sách gồm nội quy về tổ chức, điều hành. Nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan tham gia điều hành chính sách cũng như của cán bộ, công chức có liên quan, các biện pháp về khen thưởng, kỉ luật…

Kế hoạch khi xây dựng dự kiến triển khai ở cấp nào, ở lĩnh vực nào thì do lãnh đạo cấp đó thông qua, sau khi được thông qua thì việc thực hiện chính sách đó mang giá trị pháp lý và được mọi người chấp hành và triển khai thực hiện.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 2/ BUI CONG DINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *