Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn

Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn

Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Dân số là một yếu tố không thể thiếu trong cấu trúc của một quốc gia. Dân số và các vấn đề đi liền với nó có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của đất nước. Một chính sách dân số phù hợp sẽ thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế – xã hội của đất nước, và ngược lại, chính sách dân số thiếu hợp lý sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế – xã hội.

Chính sách công là một trong những công cụ cơ bản được Nhà nước sử dụng để điều hành phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Là khâu quan trọng trong hoạt động chính trị của Nhà nước, là yếu tố quyết định tính chính đáng của quyền lực chính trị – quyền lực nhà nước. 

Chính sách dân số là công cụ để điều chỉnh gốc rễ câu chuyện phát triển của quốc gia, tùy thuộc vào tính lịch sử – cụ thể của mỗi thời kỳ mà nhà nước đã và đang đưa ra những chính sách phù hợp.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật, chiến lược nhằm quan tâm toàn diện đến vấn đề dân số. Tổng cục Dân số – kế hoạch hóa gia đình và các Bộ, ngành liên quan đã ban hành nhiều thông tư liên tịch, văn bản hướng dẫn để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và luật pháp của nhà nước về chính sách này. Đầu tư cho công tác dân số, chăm sóc sức khỏe sinh sản là đầu tư cho phát triển bền vững, mang lại hiệu quả trực tiếp về kinh tế, xã hội và môi trường.

Sau 25 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế sớm hơn 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết đã đề ra và tiếp tục duy trì cho đến nay. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực. Dân số trong độ tuổi lao động tăng mạnh. Từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt; Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người; tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh [25, tr.1].

Công tác tuyên truyền, giáo dục, nhận thức về dân số và kế hoạch hóa gia đình của các cấp, các ngành và toàn dân có bước đột phá. Mỗi cặp vợ chồng có hai con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội. Tuy nhiên, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế. Mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng và đang báo động. Chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Phân bố dân cư, quản lý nhập cư, di dân còn nhiều bất cập ở một số nơi. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới. Tổ chức bộ máy luôn biến động, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số ở cấp cơ sở còn thấp. Các nội dung về dân số trong phát triển kinh tế – xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức. Nguồn lực đầu tư cho dân số, kế hoạch hóa gia đình còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu.

Chính vì vậy, công tác Dân số lại trở thành một nội dung quan trọng của Hội nghị lần thứ Sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII. Trong bài phát biểu bế mạc tại Hội nghị, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển; Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặt biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”.

Thị xã Điện Bàn là một trong những đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Nam, có quy mô dân số đông, cơ cấu dân số về nhiều phương diện tương đối đồng đều so với những đại phương khác của tỉnh. Tuy nhiên, bên trong vấn đề dân số, chính sách dân số của địa phương cũng còn tồn tại nhiều vấn đề cần làm rõ. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công với mong muốn thông qua việc đánh giá, phân tích những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách dân số tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ đó, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân số và phát triển tại thị xã Điện Bàn trong những năm đến.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về thực hiện chính sách công và tìm hiểu quá trình triển khai thực hiện chính sách dân số và phát triển tại thị xã Điện Bàn, để từ đó đề xuất một số giải pháp phù hợp trong việc tổ chức thực hiện chính sách dân số trên địa bàn thị xã, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dân số, mang lại hiệu quả trực tiếp cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của thị xã.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận như các khái niệm, chính sách dân số Việt Nam qua các thời kỳ.

Đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách dân số và phát triển, những tồn tại hạn chế, nguyên nhân tại thị xã Điện Bàn. Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân số và phát triển trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn thực hiện Chính sách dân số và phát triển dưới góc độ khoa học chính sách công.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu về chính sách dân số và phát triển, phân tích những ưu điểm, những bất cập trong việc thực hiện chính sách dân số và phát triển tại thị xã Điện Bàn.

Về thời gian: Đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách dân số và phát triển từ năm 2011 đến năm 2018.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Nghiên cứu này vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- LêNin và các quan điểm của Đảng, Nhà nước về Chính sách Dân số và phát triển.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tổng hợp và phân tích các tài liệu đã về chính sách dân số và thực trạng chính sách dân số tại thị xã Điện Bàn.

Khảo sát thực địa, thu thập số liệu định tính và định lượng, so sánh, đối chiếu số liệu dựa trên các kết quả nghiên cứu có sẵn, từ đó phân tích, đánh giá chính sách dân số và phát triển thông qua bằng chứng.

Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Nội dung và kết quả nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, đơn vị triển khai thực hiện chính sách dân số trên địa bàn thị xã Điện Bàn.

Luận văn là tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và học tập của cán bộ làm công tác dân số và sinh viên trong lĩnh vực chính sách công và chính sách xã hội.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần cung cấp các luận chứng khoa học nhằm đưa ra các giải pháp để thực hiện chính sách dân số trên địa bàn cụ thể. Căn cứ kết quả đạt được, luận văn đưa ra được những vấn đề sau:

Đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, nêu những hạn chế, bất cập trong quá trình thực hiện chính sách.

Nêu ra những quan điểm và giải pháp để thực hiện chính sách tốt hơn trong những năm đến.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài những phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được cơ cấu thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách dân số và phát triển

Chương 2: Thực trạng chính sách dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách dân số và phát triển tại thị xã Điện Bàn trong những năm đến

 

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN

    1. 1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm về chính sách công

Có rất nhiều quan niệm về khái niệm chính sách công.

Thomas Dye đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công là: bất kỳ những gì mà nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm.

Khái niệm về chính sách công của William Jenkins cụ thể hơn so với định nghĩa trên: Theo ông, chính sách công là “một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau được ban hành bởi một nhà hoạt động chính trị hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị liên quan đến lựa chọn các mục tiêu và các phương tiện để đạt mục tiêu trong một tình huống cụ thể thuộc phạm vi thẩm quyền của họ”.

Còn James Anderson đưa ra một định nghĩa chung hơn, mô tả chính sách như là “một đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một nhà hoạt động hoặc một nhóm các nhà hoạt động để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề quan tâm”

Trên cơ sở tham khảo các cách tiếp cận khác nhau về chính sách công, có thể đi đến một định nghĩa: Chính sách công là định hướng hành động do nhà nước lựa chọn để giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng phù hợp với thái độ chính trị trong mỗi thời kỳ nhằm giữ cho xã hội phát triển theo định hướng.

1.1.2. Khái niệm về chính sách dân số

Dân số hay dân cư là tập hợp người sinh sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính [1, tr.1].

Dân số vừa là lực lượng lao động vừa là người tiêu dùng trong xã hội, vấn đề dân số có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia.

Quy mô dân số là số người sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính tại thời điểm nhất định. Quy mô dân số thường xuyên biến động qua thời gian và không gian lãnh thổ. Quy mô dân số có thể tăng hoặc giảm tùy theo các biến số cơ bản nhất bao gồm: Sinh, chết và di dân.[1, tr.1]

Cơ cấu dân số là tổng số dân được phân loại theo giới tính, độ tuổi, dân tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tình trạng hôn nhân và các đặc trưng khác. Trong các loại cơ cấu dân số thì cơ cấu tuổi và cơ cấu giới tính là cơ cấu quan trọng nhất. [1, tr.1]

Cơ cấu dân số già là dân số có người già chiếm tỷ lệ cao.

Phân bố dân cư là sự phân chia tổng số dân theo khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn vị hành chính.

Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số.

Di cư là sự di chuyển dân số từ quốc gia này đến cư trú ở quốc gia khác, từ đơn vị hành chính này tới cư trú ở đơn vị hành chính khác.[1, tr.1]

Sức khoẻ sinh sản là sự thể hiện các trạng thái về thể chất, tinh thần và xã hội liên quan đến hoạt động và chức năng sinh sản của mỗi người.

Kế hoạch hoá gia đình là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình.[1, tr.1]

Công tác dân số là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất lượng dân số.

Mức sinh thay thế là mức sinh tính bình quân trong toàn xã hội thì mỗi cặp vợ chồng có hai con.

Dịch vụ dân số là các hoạt động phục vụ công tác dân số, bao gồm cung cấp thông tin, tuyên truyền, giáo dục, vận động, hướng dẫn, tư vấn về dân số (sau đây gọi chung là tuyên truyền, tư vấn); cung cấp biện pháp chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình, nâng cao chất lượng dân số và các hoạt động khác theo quy định của pháp luật.[1, tr.1]

Đăng ký dân số là việc thu thập và cập nhật những thông tin cơ bản về dân số của mỗi người dân theo từng thời gian.

Hệ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư là hệ thống thông tin được thu thập qua đăng ký dân số của toàn bộ dân cư và được thiết lập trên mạng điện tử.

Già hóa dân số là quá trình tăng dần tỷ lệ người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên theo quy định của Pháp lệnh người cao tuổi của Việt Nam) và giảm dần tỷ lệ trẻ em trong tổng số dân của một địa phương hoặc một quốc gia. Nguyên nhân của già hóa dân số là mức sinh giảm, mức chết giảm và tăng tuổi thọ của người dân.

Dân số – KHHGĐ là sự nỗ lực mang tính quyết sách của Nhà nước trong chủ trương khống chế một cách khoa học số dân, sao cho sự phát triển dân số là phù hợp và không gây cản trở tới việc phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, nâng cao chất lượng dân số và cơ cấu dân số hợp lý [17, tr.6].

Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình [17, tr.6].

Chính sách dân số có thể được định nghĩa như là những quy định về mặt pháp lý, những chương trình quản lý, điều hành và những hoạt động khác của Chính phủ nhằm vào việc thay thế hoặc sửa đổi xu hướng phát triển dân số trong thời điểm hiện tại có quan tâm tới lợi ích và sự sống còn của một quốc gia [17, tr.10].

Chính sách dân số bao gồm các biện pháp nhằm xoá đi khoảng cách giữa tổng số những đứa trẻ thực sự sinh ra trong xã hội và số trẻ mà xã hội có thể chấp nhận (thông qua một số biện pháp đặc biệt trong việc quyết định để đạt được những mục tiêu xã hội quan trọng).

Chính sách dân số chủ động kiểm soát quy mô và tăng chất lượng dân số phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội; Nâng cao chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản – kế hoạch hóa gia đình; giải quyết tốt mối quan hệ giữa phân bố dân cư hợp lý với quản lý dân số và phát triển nguồn nhân lực [56, tr.107].

    1. 1.2. Đặc điểm của chính sách dân số và phát triển

Phân tích các khái niệm về chính sách dân số nêu trên cho thấy những điểm đồng nhất về bản chất của các khái niệm chính sách dân số thông qua các đặc điểm cơ bản như sau:

Có nhiều hình thức thể hiện một chính sách dân số, nó có thể bằng một văn bản, bằng một thông báo chính thức, bằng một tuyên bố của Chính phủ, của cơ quan được ủy quyền hoặc nó có thể được phỏng đoán từ một loạt các hoạt động được công khai của Chính phủ, của cơ quan được ủy quyền.

Có nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành và thực thi chính sách dân số tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy của mỗi quốc gia. Có thể là Chính phủ, cơ quan, tổ chức được Chính phủ ủy quyền hoặc cũng có thể là cơ quan, tổ chức của Chính phủ, phi Chính phủ tổ chức thực hiện các biện pháp công khai nhằm tác động trực tiếp, gián tiếp đến quá trình dân số hoặc có thể là tác động, các hương ước, quy ước của cộng đồng hướng vào những khía cạnh xã hội, nhưng lại có tác động đến xu hướng dân số.

    1. 1.3. Vai trò của chính sách dân số và phát triển

Chính sách dân số có vai trò quan trọng được thực hiện thông qua hệ thống các giải pháp tác động tới quá trình dân số như: Điều chỉnh quy mô dân số, tác động tới cơ cấu dân số, tác động đến phân bố dân cư nhằm:

Định hướng mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, hoạt động theo những cơ cấu ưu tiên, khuyến khích nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố bất lợi trong việc thực hiện mục tiêu dân số bao gồm quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số. Việc giải quyết mục tiêu dân số có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm công bằng và sự phát triển bền vững của xã hội.

Định hướng, hướng dẫn khung pháp lý để bảo đảm hoạt động của các chủ thể trong xã hội và bảo đảm hành vi của công dân cùng hướng, góp phần ổn định trật tự xã hội và phù hợp với bản chất, nội dung của chính sách dân số.

Đề ra tiêu chuẩn, định mức, chế độ, cơ chế và phương thức thực hiện để điều tiết cụ thể đối với các đối tượng tham gia và đối tượng thụ hưởng phù hợp với yêu cầu và thực tế khách quan trong từng giai đoạn.

Vai trò của cơ quan, tổ chức ban hành chính sách dân số là bảo đảm hình thức của chính sách dân số phù hợp với mục đích, mục tiêu điều chỉnh.

Vai trò của đối tượng tiếp nhận và đối tượng tham gia tác động để thực hiện chính sách là phải chủ động thực hiện các hành vi, các mối quan hệ phù hợp với mục đích, mục tiêu và các hoạt động của chính sách dân số.

    1. 1.4. Chính sách dân số Việt Nam qua các giai đoạn

Chính sách dân số là hệ thống các giải pháp và mục tiêu do Nhà nước ban hành, nhằm tác động vào các quá trình dân số như quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và chất lượng dân số để đạt được các mục tiêu dân số mong muốn.

Giai đoạn (1961-1975) để tăng bù dân số sau chiến tranh, chính sách dân số trong giai đoạn này được thông qua cuộc vận động “hướng dẫn sinh đẻ” và sau đó là “sinh đẻ có kế hoạch” được Chính phủ ban hành trong 3 văn bản quan trọng: Quyết định số 216/CP ngày 26/12/1961 của Hội đồng Chính phủ về sinh đẻ có hướng dẫn; Chỉ thị số 99/TTg ngày 16/10/1963 của Hội đồng Chính phủ về công tác hướng dẫn sinh đẻ; Quyết định số 94/CP ngày 13/5/1970 của Hội đồng Chính phủ về cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Mục tiêu là hướng tới quy mô gia đình 3 con, đẻ thưa, đẻ muộn nhằm bảo vệ sức khỏe bà mẹ, nuôi dạy con cái được chu đáo, bảo đảm hạnh phúc và sự hòa thuận của gia đình.

Giai đoạn (1975-1991) dân số cả nước xấp xỉ 48 triệu người, tăng gần gấp đôi dân số năm 1955. Chính sách dân số trong giai đoạn này được triển khai trong phạm vi cả nước với 5 văn bản sau: Chỉ thị số 265/CP ngày 19/10/1978 của Hội đồng Chính phủ về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm vi cả nước; Chỉ thị số 29/HĐBT ngày 12/8/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch trong 5 năm (1981-1985); Quyết định số 58-HĐBT ngày 11/4/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thành lập Ủy ban quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch; Quyết đinh số 162-HĐBT ngày 18/10/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình; Quyết định số 51-CT ngày 6/3/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Ủy ban quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa gia đình.

Giai đoạn (1991-2000), tốc độ gia tăng dân số nhanh. Đại hội Đảng lần thứ VII xác định vị trí, vai trò và yêu cầu đối với công tác dân số – KHHGĐ là “giảm tốc độ gia tăng dân số là một quốc sách, phải trở thành một cuộc vận động rộng lớn, mạnh mẽ và sâu sắc trong toàn dân”, với cuộc vận động “Dừng ở hai con để nuôi dạy cho tốt”. Ngày 14/1/1993, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 04 về chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, đây là văn bản có tính chất quan trọng, làm tiền đề cho những quyết sách về công tác DS-KHHGĐ sau này của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn này, chính sách DS-KHHGĐ được thể hiện trong 7 văn bản quan trọng: Nghị quyết số 193-HĐBT, ngày 19/6/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và chế độ làm việc của Ủy ban Quốc gia DS-KHHGĐ; Quyết định số 315-CT ngày 24/8/1992 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược truyền thông DS-KHHGĐ; Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, ngày 14/1/1993 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về chính sách DS-KHHGĐ; Quyết định số 270/TTg ngày 3/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000; Nghị định số 42/CP ngày 21/6/1993 của Chính phủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và lề lối làm việc của Ủy ban Quốc gia DS-KHHGĐ; Chỉ thị số 50-CT-TW ngày 6/3/1995 của Ban bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về việc đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/HNTW; Chỉ thị số 37/TTg ngày 17/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh thực hiện Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000.

Giai đoạn (2001-2010), Bước vào thế kỷ thứ 21, khi mức sinh đã tiến gần mức sinh thay thế, muốn duy trì vững chắc kết quả này thì không thể tập trung giải quyết vấn đề quy mô dân số mà phải giải quyết toàn diện vấn đề dân số. Mục tiêu của chính sách dân số giai đoạn này là thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Chính sách DS-KHHGĐ trong giai đoạn này thể hiện trong 18 văn bản quan trọng: Quyết định số 147/2000/QĐ-TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010; Chỉ thị số 10/2001/CT-TTg ngày 04/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010; Nghị định số 94/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban DS,GĐ&TE; Pháp lệnh Dân số số 06/2003/PL-UBTVQH11 ngày 9/1/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/2/2003 của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học; Nghị định số 104/2003/NĐ-CP ngày 16/9/2003 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Dân số; Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg ngày 16/9/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách di dân, thực hiện quy hoạch, bố trí dân cư giai đoạn 2003-2010; Nghị quyết số 47-NQ/TW ngày 22/3/2005 của Bộ chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGĐ; Quyết định số 09/2006/QĐ-TTg ngày 10/1/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW; Nghị định số 114/2006/NĐ-CP ngày 3/10/2006 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về dân số và trẻ em; Quyết định số 240/2006/QĐ-TTg ngày 25/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện chế độ bảo hiềm y tế tự nguyện đối với cán bộ DS,GĐ&TE ở xã, phường và thị trấn; Chỉ thị số 13/2007/CT-TTg ngày 6/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW; Quy định số 94-QĐ/TW ngày 15/10/2007 của Ban chấp hành Trung ương về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quyết định số 18/2008/QĐ-TTg ngày 29/1/2008 của Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục DS-KHHGĐ; Thông báo kết luận của Ban bí thư số 160-TB/TW ngày 04/6/2008 về tình hình thực hiện chính sách DS-KHHGĐ và một số giải pháp cấp bách; Chỉ thị số 23/2008/CT-TTg ngày 4/8/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ; Pháp lệnh số 08/2008/UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về sửa đổi điều 10 của pháp lệnh dân số; Kết luận số 44-KL/TW ngày 01/4/2009 của Bộ chính trị về kết quả 3 năm thực hiện nghị quyết số 47-NQ/TW; Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 8/3/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh sửa đổi điều 10 của Pháp lệnh dân số.

Giai đoạn (2011-2020), thực hiện chiến lược DS&SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020; giai đoạn đầu (2011-2015) dân số nước ta là 91,70 triệu người đã đạt mục tiêu, chỉ tiêu được giao về quy mô dân số. Mức sinh thay thế (số con trên một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) được duy trì 2,1 con từ năm 2006 đến nay. Tỷ lệ sử dụng các BPTT luôn ở mức cao, cơ cấu sử dụng các BPTT thay đổi theo xu hướng tích cực. Những khó khăn, thách thức của công tác DS-KHHGĐ đã từng bước được tháo gỡ. Tốc độ gia tăng tỷ số giới tính khi sinh bước đầu được khống chế: Tỷ số GTKS năm 2015 là 112,8 bé trai/100 bé gái. Như vậy, qua 5 năm thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2012 – 2015, tốc độ gia tăng tỷ số GTKS bước đầu được khống chế và năm 2015, tỷ số này ở mức dưới 113 bé trai/100 bé gái, đạt chỉ tiêu đề ra. Tỷ lệ bà mẹ mang thai, trẻ sơ sinh được sàng lọc ngày càng cao, tăng từ 1,5% (năm 2010) lên 15% (năm 2015); tỷ lệ trẻ sơ sinh được sàng lọc sơ sinh tăng từ 6% (năm 2010) lên 30% (năm 2015), đạt chỉ tiêu Chiến lược và Chương trình đặt ra. Tỷ lệ trẻ em mới sinh bị dị tật bẩm sinh ngày càng giảm: Tỷ lệ trẻ em mới sinh bị dị tật bẩm sinh đã giảm xuống còn 1,57%, vượt chỉ tiêu mà Chương trình đặt ra (mục tiêu của Chương trình là giảm xuống còn 2,5%). Tuy nhiên, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình vẫn còn nhiều hạn chế; mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới khi sinh tăng nhanh và đang ở mức nghiêm trọng. Chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người di cư và ở nhiều đô thị, khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới. Tổ chức bộ máy làm công tác dân số các cấp còn thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số còn thấp. Các nội dung về dân số trong phát triển kinh tế – xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức. Nguồn lực đầu tư cho dân số, kế hoạch hóa gia đình còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu. Giai đoạn (2016 đến nay), Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XII về công tác Dân số trong tình hình mới xác định “Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”[25, tr.2].

Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam
Thực hiện chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Chính sách Dân số trong giai đoạn này thể hiện trong sáu văn bản quan trọng sau: Quyết định số 2013/QĐ-TTg ngày 14/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Quyết định phê duyệt Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011-2020; Nghị định số 176/2013/NĐ-CP, ngày 14/11/2013 Nghị định quy định sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế của Chính phủ; Quy định số 181-QĐ/TW, ngày 30/3/2013 Quy định xử lý kỷ luật Đảng viên vi phạm của Ban Chấp hành Trung ương; Quyết định số 102-QĐ/TW ngày 15/11/2017 của Ban chấp hành Trung ương về quy định xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm; Quyết định số 1125/QĐ-TTg ngày 31/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về Quyết định phê duyệt chương trình mục tiêu y tế – dân số giai đoạn 2016-2020; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương về công tác dân số trong tình hình mới.

    1. 1.5. Các bước tổ chức thực hiện chính sách dân số và phát triển

Bước 1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách dân số và phát triển

Khi xây dựng kế hoạch chính sách phải cụ thể, rõ ràng và phải đảm bảo phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; đồng thời phải tuân thủ theo quan điểm, mục tiêu, yêu cầu của chủ thể ban hành chính sách.

Để việc triển khai thực hiện thuận lợi, mang lại hiệu quả cao cần phải đảm bảo cung cấp đủ nguồn lực tài chính, con người, cơ sở vật chất, các công cụ, phương tiện thực hiện chính sách theo kế hoạch đã xây dựng.

Bước 2. Phổ biển, tuyên truyền chính sách dân số và phát triển

Phổ biến, tuyên truyền chính sách dân số và phát triển được thực hiện bằng nhiều hình thức như thông qua báo chí, truyền thanh, truyền hình, tổ chức hội nghị, hình thức lan truyền cộng đồng (thông tin từ người này sang người khác) thông qua đội ngũ cộng tác viên dân số, hoặc lồng ghép các hình thức tuyên truyền khác như tuyên truyền lưu động, Pano áp phích, tờ rơi. Công tác phổ biến, tuyên truyền hết sức quan trọng trong việc tổ chức thực hiện chính sách. Nếu việc phổ biến, tuyên truyền chính sách tiến hành một cách kịp thời và hiệu quả, thì góp phần ổn định dân số, xã hội phồn vinh, gia đình hạnh phúc, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Bước 3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách dân số và phát triển

Cơ quan tổ chức thực hiện chính sách cần xem xét chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, cá nhân có liên quan để phân công, phân nhiệm một cách cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, khoa học và hợp lý, xác định cơ quan chủ trì, cơ quan phối hợp, tránh chồng chéo khi phân công nhiệm vụ.

Tổ chức bộ máy Nhà nước chưa ổn định nên việc phân công phối hợp thực hiện chính sách dân số và phát triển còn nhiều vướng mắc và chưa kịp thời. Vì vậy, để việc tổ chức thực hiện chính sách dân số và phát triển thực sự có hiệu quả, trước tiên phải có sự thống nhất cao về quan điểm, mục tiêu, chương trình, kế hoạch thực hiện và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, tuy nhiên, chịu trách nhiệm chính và chủ công trong việc triển khai thực hiện là ngành Dân số các cấp.

Bước 4. Duy trì chính sách dân số và phát triển

Duy trì chính sách dân số và phát triển là hoạt động nhằm bảo đảm cho chính sách tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động và thay đổi, tác động rất lớn đến việc duy trì thực hiện chính sách. Việc duy trì thực hiện chính sách dân số và phát triển phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng chủ yếu là các yếu tố khách quan cơ bản như yếu tố về sự ổn định chính trị, yếu tố về kinh tế, yếu tố văn hóa, xã hội, đã ảnh hưởng và chi phối rất lớn đến việc duy trì chính sách. Nếu những yếu tố cơ bản này biến động theo chiều hướng tích cực, thì sẽ rất thuận lợi trong việc duy trì thực hiện chính sách; tuy nhiên, nếu những yếu tố cơ bản này biến động theo hướng tiêu cực, không thuận lợi, thì việc duy trì thực hiện chính sách sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải tham mưu, đề xuất với Nhà nước những giải pháp phù hợp, sử dụng những công cụ quản lý Nhà nước cần thiết tác động kịp thời giúp cho chính sách được duy trì ổn định, lâu dài tiến tới: “Dân số ổn định, đất nước phồn vinh, gia đình hạnh phúc”.

Bước 5. Điều chỉnh, bổ sung chính sách dân số và phát triển

Điều chính, bổ sung chính sách dân số và phát triển là hoạt động được thực hiện bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo hướng điều chỉnh chính sách dân số ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tiễn phát triển của xã hội.

Khi triển khai thực hiện một chính sách áp dụng vào trong thực tiễn sẽ có những vấn đề bất cập, chưa phù hợp, thiếu sót hoặc phát sinh mới, mà chủ thể trong quá trình xây dựng chính sách chưa lường trước được. Quá trình điều chỉnh, bổ sung chính sách phải phù hợp với thực tiễn và không được làm thay đổi mục tiêu chính sách, nếu thay đổi mục tiêu chính sách, coi như chính sách thất bại.

Bước 6. Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách dân số và phát triển

Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách dân số và phát triển là hoạt động diễn ra thường xuyên, liên tục của hệ thống các cơ quan Nhà nước từ cơ quan có thẩm quyền ban hành chính sách, đến các cơ quan và cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được phân công thực hiện chính sách nhằm xem xét chính sách đã được triển khai tổ chức thực hiện chưa, tiến độ thực hiện đến đâu, việc tổ chức thực hiện có đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng theo quy trình, kế hoạch đã ban hành hay không.

Bước 7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách dân số và phát triển

Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách dân số và phát triển là quá trình xem xét, kết luận về chỉ đạo điều hành và chấp hành chính sách của các cơ quan và cá nhân liên quan được phân công thực hiện chính sách, cũng như hiệu quả, lợi ích mang lại cho xã hội.

Tùy theo tính chất, mức độ, quy mô và chu kỳ, niên hạn của chính sách có thể tiến hành đánh giá, tổng kết. Đối với việc thực hiện chính sách dân số và phát tiển được xác định là chính sách thường xuyên và lâu dài, thông thường thì định kỳ 1 năm tiến hành đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm một lần. Việc đánh giá, tổng kết được thực hiện theo trình tự từ cơ sở đến Trung ương. Trong đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách dân số và phát triển phải đánh giá một cách toàn diện mọi mặt, các bước từ việc xây dựng kế hoạch đến tổ chức thực hiện.

    1. 1.6. Những nhân tố tác động đến chính sách dân số và phát triển

1.6.1. Hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị là yếu tố chi phối cả nội dung, hình thức, quy trình xây dựng và triển khai chính sách công (bao gồm: văn hóa chính trị, Hiến pháp, hệ thống pháp luật, thể chế chính trị và các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị cùng cơ chế hoạt động). Trong đó, yếu tố quan trọng trong việc hoạch định chính sách dân số và phát triển là các chủ trương, đường lối của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và sự đổi mới về phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị, thể chế Nhà nước cùng với hệ thống luật pháp, Hiến pháp là nền tảng pháp luật, chính sách với mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, “Dân số ổn định, đất nước phồn vinh, gia đình hạnh phúc”.

1.6.2. Truyền thông

Công tác truyền thông là các kênh thông tin phản ánh những ý kiến của công chúng đối với quá trình chính sách công. Thông qua truyền thông truyền tải được chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách dân số đến mọi đối tượng, tầng lớp, tổ chức trong xã hội để người dân có nhận thức đúng, tự giác thực hiện các mục tiêu, chính sách về dân số và phát triển nhằm ổn định quy mô dân số, cơ cấu và phân bố dân cư hợp lý. Cũng thông qua công tác truyền thông để biết được chính sách khi ban hành có phù hợp với thực tiễn hay không?

Mục đích cuối cùng của công tác truyền thông thông qua sự phản hồi của người dân (những đối tượng thụ hưởng/ chịu tác động trực tiếp) để nhà hoạch định chính sách điều chỉnh những hạn chế, bất cập của chính sách cho phù hợp với thực tiễn.

 

1.6.3. Các yếu tố bên ngoài

Trong quá trình thực hiện chính sách dân số tại Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ về vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng và tình hình phát triển kinh tế – xã hội.

Vị trí địa lý nước ta phân hóa đa dạng của tự nhiên thành các vùng, miền khác nhau về địa hình giữa miền Bắc với miền Nam, giữa miền núi với đồng bằng, ven biển, hải đảo. Từ đó, người dân di cư đến sinh sống ở các vùng cũng khác nhau đã tạo nên nền kinh tế vùng miền phát triển khác nhau, vùng có kinh tế phát triển cao hơn thì ngời dân di cư đến đông hơn là điều không thể tránh khỏi đã tạo nên sự gia tăng cơ học. Gia tăng cơ học bao gồm hai bộ phận: xuất cư (những người rời khỏi nơi cư trú) và nhập cư (những người đến nơi cư trú mới). Gia tăng cơ học không ảnh hưởng đến số dân, nhưng đối với từng khu vực, từng quốc gia và từng địa phương thì nó lại có ý nghĩa quan trọng, làm thay đổi số lượng dân cư, mật độ dân số, cơ cấu tuổi, giới và các hiện tượng kinh tế – xã hội.

    1. 1.7. Các tiêu chí đánh giá việc thực hiện chính sách dân số và phát triển

Chính sách dân số và phát triển được ban hành và triển khai thực hiện sau một thời gian thì Nhà nước sẽ tiến hành đánh giá xem chúng được duy trì như thế nào, tác động đến các đối tượng của chính sách ra sao. Đánh giá chính sách công có liên quan đến các bước trong quá trình vận hành một chính sách, những biện pháp tác động đang được duy trì, những mục tiêu đang từng bước được hiện thực hóa, kết quả và những ảnh hưởng của chính sách đến các lĩnh vực đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội [18, tr.30].

1.7.1. Đánh giá đầu vào

Đánh giá đầu vào nhằm đo lường số lượng của đầu vào các chương trình thực thi chính sách công bao gồm số lượng các yếu tố được huy động sử dụng và sự nỗ lực của các công chức trong bộ máy nhà nước để hoàn thành các mục tiêu chính sách. Các yếu tố đầu vào có thể là nhân sự, công sở, trang thiết bị kỹ thuật, văn phòng phẩm, công cụ lao động nhỏ, thông tin, chi phí tài chính cho sự vận hành, v.v được tính toán bằng thước đo giá trị. Mục đích của đánh giá đầu vào là thiết lập cơ sở dữ liệu phục vụ cho đánh giá tính hiệu quả quản lý của chính quyền hoặc chất lượng cung cấp dịch vụ công. Khi tiến hành phân tích đánh giá các yếu tố đầu vào của quá trình thực thi một chính sách công, nhà phân tích cần phải áp dụng các phương pháp tính toán mọi chi phí đầu vào trên cơ sở định mức tài chính hiện hành của Nhà nước hoặc theo giá thị trường của các yếu tố đó [18, tr.31].

1.7.2. Đánh giá đầu ra

Đánh giá đầu ra của một chương trình hay dự án thực thi chính sách công là xem xét kết quả đầu ra của các chương trình, dự án trong mối tương quan với việc sử dụng các nguồn lực đầu và thực hiện mục tiêu chính sách một cách cụ thể. Việc xác định đầu ra cũng tùy thuộc vào từng chương trình hoặc dự án được kế hoạch hoá. Mục đích chính của đánh giá thực thi là để xác định xem chính sách đang tạo ra giá trị gì cho xã hội, có thể không liên quan trực tiếp đến các mục tiêu của chính sách đã tuyên bố. Loại đánh giá này cung cấp các dữ liệu cho đánh giá hiệu lực và hiệu quả chính sách công [18, tr.31].

1.7.3. Đánh giá hiệu lực

Đánh giá hiệu lực không đơn giản chỉ để xác định các đầu vào hoặc đầu ra chương trình, dự án thực thi chính sách, mà còn để xác định xem các chương trình, dự án đang thực hiện có tạo ra những kết quả phù hợp với mục tiêu của chính sách hay không. Đây là loại đánh giá rất có ích cho các nhà hoạch định chính sách, nhưng nó cũng là loại đánh giá khó thực hiện nhất. Thông tin cần thiết cho loại đánh giá này là rất lớn và mức độ phức tạp của quá trình thực hiện cũng rất cao.

1.7.4. Đánh giá hiệu quả

Đánh giá hiệu quả nhằm xem xét các chi phí của một chương trình, dự án cụ thể để đạt những mục tiêu mong muốn. Khi thực hiện loại phân tích đánh giá này, nhà phân tích cần thực hiện tốt các phân tích đánh giá đầu vào và phân tích đánh giá đầu ra dưới hình thức giá trị, sau đó tiến hành so sánh kết quả giữa chúng.

1.7.5. Đánh giá quá trình

Đánh giá quá trình là việc xem xét các phương pháp tổ chức, bao gồm các quy trình và thủ tục hoạt động được sử dụng để thực hiện các chương trình, dự án thuộc chính sách công. Mục tiêu của đánh giá này nhằm xác định xem liệu quá trình duy trì chính sách có thể được tổ chức hợp lý và được thực hiện hiệu quả hơn không. Hướng tới mục tiêu này, sự thực thi một chính sách luôn được chia thành các nhiệm vụ cụ thể như hoạch định chiến lược, quản lý tài chính, đánh giá về những phàn nàn của người dân, và đánh giá việc thực hiện các nhiệm vụ theo tiêu chí hiệu lực, hiệu quả và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước [18, tr.33].

Tiểu kết Chương 1

Dân số luôn là vấn đề được quan tâm mọi lúc, mọi nơi. Muốn quản lý được xã hội, trước hết phải quản lý được quá trình biến động dân số. Các nhà chức trách, các nhà quản lý xã hội cần có những biện pháp điều tiết quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số cho phù hợp với nhu cầu và khả năng phát triển của xã hội. Mỗi một giai đoạn phát triển của xã hội thì cần có một chính sách dân số phù hợp để đem lại sự ổn định về quy mô dân số, cơ cấu dân số và chất lượng dân số.

Các chính sách về dân số từ chính sách dân số – KHHGĐ sang chính sách dân số và phát triển đã được ban hành khá đầy đủ từ Trung ương đến địa phương đã tạo môi trường và điều kiện để thu hút được sự tham gia hưởng ứng của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt chiến lược dân số và SKSS giai đoạn 2011-2020, tạo được sự toàn diện về các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố và đặc biệt là chất lượng dân số. Sự thành công trong việc ban hành và thực hiện chính sách dân số trong những năm qua đó là nhờ sự vào cuộc của các tổ chức Đảng, chính quyền đã coi trọng công tác dân số là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

CHƯƠNG 2

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ VÀ PHÁT TRIỂN TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

    1. 2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội của thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Thị xã Điện Bàn là thị xã đồng bằng nằm về phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng, phía Nam giáp huyện Duy Xuyên, phía Đông giáp biển Đông, phía Đông Nam giáp thành phố Hội An và phía Tây giáp huyện Đại Lộc. Dân cư rãi đều trên 20 đơn vị hành chính, trong đó có 07 phường nội thị (gồm phường Điện Ngọc, Điện Dương, Điện Nam Bắc, Điện Nam Đông, Vĩnh Điện, Điện Nam Trung, Điện An) và có 13 xã ( gồm xã: Điện Hòa, xã Điện Tiến, xã Điện Minh, xã Điện Thắng Bắc, xã Điện Phong, xã Điện Hồng, xã Điện Quang, xã Điện Phước, xã Điện Thắng Trung, xã Điện Thắng Nam, xã Điện Trung, xã Điện Quang và xã Điện Phương).

2.1.2. Kinh tế – xã hội

Duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, các ngành kinh tế đều có bước phát triển.

Tình hình sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá, hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn ổn định, hàng hóa trên thị trường phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của nhân dân. Tình hình sản xuất nông nghiệp tuy gặp khó khăn do thời tiết nhưng tổng sản lượng lương thực cây có hạt đạt kế hoạch hằng năm đề ra.

Công tác giữ chuẩn và phổ cập giáo dục các cấp học được duy trì, trường lớp được mở rộng. Phong trào xây dựng nông thôn – đô thị văn minh trên thị xã tiếp tục được duy trì và đạt được những thành quả đáng khích lệ. Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, tai nạn giao thông xảy ra trên địa bàn giảm. Bộ máy chính quyền các cấp được củng cố và kiện toàn.

Diện tích tự nhiên 216,32 km2. Dân số: 224.953 người được trải đều ở 20 xã, phường, với mật độ dân số: 1019 người/km2 . Điện Bàn có khu công nghiệp Điện Nam- Điện Ngọc, cụm công nghiệp Trảng Nhật – Điện Hòa, cụm công nghiệp An Lưu – Điện Nam Đông. Vì vậy, tỷ lệ tăng dân số cơ học hằng năm trên thị xã Điện Bàn ngày càng tăng, năm 2016 là 9,23%o, đến năm 2018 là 9,63%o.

Với 27 cán bộ, công chức, viên chức, lao động làm công tác dân số trên toàn thị xã. Trong đó, có 7 cán bộ làm việc tại Trung tâm Dân số – kế hoạch hóa gia đình và 20 cán bộ làm việc tại 20 xã, phường với 384 cộng tác viên dân số làm việc tại 182 thôn, khối phố, mỗi cộng tác viên quản lý từ 100 đến 200 hộ gia đình.

Chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được nâng lên, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ y tế ngày càng phát triển; đến nay, 20/20 trạm y tế các xã, phường đạt chuẩn quốc gia về y tế.

    1. 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện Chính sách Dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách dân số và phát triển

Hằng năm, Trung tâm dân số kế hoạch hóa gia đình tham mưu với Thị ủy, Ủy ban nhân dân thị xã Điện Bàn ban hành các Nghị quyết, chỉ thị, quyết định, kế hoạch chỉ đạo việc thực hiện chính sách dân số trên địa bàn thị xã. Trong giai đoạn 2011-2018, Thị ủy, Ủy ban nhân dân thị xã Điện Bàn đã ban hành các văn bản sau:

Nghị quyết số 09/NQ-HĐND ngày 27/12/2012, Nghị quyết về chương trình hành động của Hội đồng nhân dân huyện Điện Bàn; Quyết định số 2851/QĐ-UBND ngày 15/6/2012 về việc Ban hành Kế hoạch hành động về Dân số – Sức khỏe sinh sản huyện Điện Bàn giai đoạn 2011-2015, tầm nhìn đến năm 2020; Nghị quyết số 14/NQ-HĐND ngày 25/12/2013, nghị quyết về chương trình hành động của UBND huyện Điện Bàn; Chỉ thị số 10/CT-UBND ngày 05/5/2014 chỉ thị về việc tiếp tục triển khai thực hiện chính sách Dân số – kế hoạch hóa gia đình; Quyết định số 1015/QĐ-UBND ngày 23/3/2014 Quyết định ban hành quy chế làm việc của Ban chỉ đạo công tác Dân số – kế hoạch hóa gia đình huyện Điện Bàn; Nghị quyết số 10/NQ-HU ngày 22/11/2014, Nghị quyết của Huyện ủy về phương hướng, nhiệm vụ năm 2015; Quyết định số 39/QĐ-UBND, ngày 07/01/2014 về việc Quyết định ban hành công tác DS-KHHGĐ năm 2014; Công văn số 215/UBND, ngày 12/3/2015 của UBND huyện Điện Bàn về việc xây dựng triển khai thực hiện công tác DS-KHHGĐ năm 2015; Chỉ thị số 14-CT/TU ngày 02/02/2017 của Thị ủy Điện Bàn Chỉ thị về tăng cường lãnh đạo công tác DS-KHHGĐ; Chương trình số 18-CT/TU của Thị ủy Điện Bàn về Chương trình thực hiện Kế hoạch số 138-KH/TU ngày 27/02/2018 của Tỉnh ủy Quảng Nam về thực hiện các Nghị quyết tại Hội nghị lần thứ Sau BCH Trung Ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân; về công tác dân số trong tình hình mới; Báo cáo số 07/BC- BCĐ, ngày 25/3/2018 của Ban chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ thị xã Điện Bàn về việc báo cáo Tổng kết chiến lược DS-SKSS giai đoạn 2011-2020.

Ngoài ra, hằng năm Thị xã Điện Bàn đã ban hành Nghị quyết của Thị ủy, Nghị quyết Hội đồng nhân dân, Quyết định của Ủy ban nhân dân chỉ đạo thực hiện công tác dân số kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn thị xã và các quyết định củng cố Ban chỉ đạo công tác Dân số – kế hoạch hóa gia đình, các báo cáo sơ kết, tổng kết công tác dân số – kế hoạch hóa gia đình hằng quý, năm,…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\CHINH SACH CONG\CU THI BA\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *