Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Thực hiện chính sách bảo trợ  đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, trong đó đối tượng trẻ em dân tộc thiểu số được đặt lên hàng đầu. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước đầu tiên ở Châu Á phê chuẩn Công ước Quốc tế về quyền trẻ em (1990), Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em được Nhà nước Việt Nam ban hành năm 1991, đến ngày 05/4/2016 Quốc hội khóa XIII đã thông qua và thay thế Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em thành Luật trẻ em có hiệu lực kể từ ngày 01/6/2017. Luật trẻ em có quy định về việc chăm sóc và bảo vệ trẻ em không phân biệt tín ngưỡng, dân tộc và đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số. Trong giai đoạn 2011-2016, Chính phủ ban hành 03 nghị định, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt 05 chương trình, kế hoạch về bảo vệ, chăm sóc trẻ em với mục tiêu phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào hoàn cảnh đặc biệt và trẻ em dân tộc thiểu số thuộc nhóm có nguy cơ cao rơi vào hoàn cảnh đặc biệt.

Tuy vậy, theo tổ chức Save The Children, dù chính phủ và các tổ chức xã hội đã cố gắng nhưng sự bất bình đẳng giữa trẻ em thành thị với nông thôn và dân tộc thiểu số vẫn tồn tại. Các báo cáo của UNICEF tại Việt Nam cho thấy, đa phần bố mẹ người dân tộc thiểu số thực sự gặp khó khăn trong việc tiếp cận y học hiện đại và cứ bám theo những thói quen lạc hậu trong chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Bên cạnh đó, ở những vùng sâu vùng xa việc đi lại còn khó khăn nên việc tiếp cận dịch vụ y tế còn nhiều vấn đề bất cập. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi ở Việt Nam luôn nằm ở mức cao so với thế giới và nhóm trẻ vùng dân tộc thiểu số chiếm phần lớn.

        1. Cũng như các tỉnh, thành phố trong cả nước, Quảng Bình đang đối mặt với việc giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có việc chăm sóc hỗ trợ trẻ em ở vùng dân tộc thiểu số đang được đặc biệt chú trọng, xem đây là một phần giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của các huyện vùng núi cao và toàn tỉnh nói chung. Tỉnh Quảng Bình có hai dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn: dân tộc Bru-Vân Kiều và dân tộc Chứt, với 5.607 hộ, 24.499 nhân khẩu, chiếm khoảng 2,3% dân số của tỉnh. Dân tộc Bru – Vân Kiều gồm 4 nhóm: Vân Kiều, Khùa, Ma Coong, Trì. Dân tộc Chứt gồm 5 nhóm: Sách, Mày, Rục, A Rem, Mã Liềng. Các dân tộc thiểu số còn lại với số dân không nhiều như: Thổ, Mường, Tày, Thái, Pa cô… Đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình sinh sống chủ yếu ở các xã vùng sâu, biên giới, nơi có điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội hết sức khó khăn [39]. Năm 2017, theo điều tra, khảo sát của Ban Dân tộc tỉnh, các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số về tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống thì có 68 cặp tảo hôn trong số 308 cặp kết hôn tại các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chiếm 26,30%, tăng 5,89%. Một số xã có tỷ lệ tảo hôn cao như Thượng Hoá (Minh Hóa) chiếm 41,18%, Kim Thuỷ (Lệ Thủy) chiếm 77,42% [21]. 
        2. Trong những năm gần đây, nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch phát triển giữa vùng DTTS, miền núi và các vùng khác trong tỉnh, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định số 3310/QĐ-UBND về việc phê duyệt đề án Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội vùng DTTS và miền núi tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2017-2020. Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình cũng đưa ra đề án 498 “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2025”. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Lương Cương (trưởng phòng Tuyên Truyền và Địa Bàn, Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình) thì tình trạng tảo hôn ở vùng dân tộc thiểu số vẫn còn tồn tại, đến năm 2016 trên địa bàn tỉnh vẫn còn trẻ 13 tuổi bị ép tảo hôn [7]. Qua đó có thể thấy hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa có một đề án hay chính sách bảo trợ riêng biệt, hoàn thiện cho đối tượng là trẻ em thuộc vùng dân tộc thiểu số. Các chính sách đưa ra chỉ là lồng ghép, thiếu toàn diện nên chưa giải quyết được các vấn đề về giáo dục, y tế hay nạn tảo hôn cho trẻ em vùng dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Quảng Bình.

Từ tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sỹ, chuyên ngành Chính sách công nhằm đánh giá đúng thực trạng chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số Quảng Bình, đưa ra giải pháp khắc phục các hạn chế, phát huy những mặt thuận lợi để nâng cao hiệu quả trong việc chăm sóc, bảo vệ trẻ em.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình, đề xuất các biện pháp nhằm thực hiện chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số một cách hiệu quả nhất.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số. 

– Tìm hiểu, phân tích đánh giá về thực trạng quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình.

– Đưa ra một số chính sách, mô hình tổ chức nhằm tạo điều kiện để trẻ em dân tộc thiểu số cũng được hưởng các quyền lợi một cách công bằng. Đồng thời, đề xuất, kiến nghị, giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả trong việc đề ra và thực hiện chính sách bảo trợ cho em đối với dân tộc thiểu số phù hợp với tình hình tỉnh Quảng Bình.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em vùng dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về đối tượng: nghiên cứu một số khía cạnh của chính sách bảo trợ trẻ em vùng dân tộc thiểu số Quảng Bình. Cụ thể là nội dung văn bản chính sách pháp luật; nhân lực đề ra và thực hiện chính sách; đối tượng thừa hưởng chính sách; nghiệp vụ hành chính công trong chính sách bảo trợ cho em đối với dân tộc thiểu số của tỉnh Quảng Bình.v.v…

– Phạm vi về thời gian: Tổng hợp báo cáo và tình hình thực tiễn từ năm 2012 đến năm 2017, giải pháp thực hiện đến 2020.

– Phạm vi về nội dung nghiên cứu: các hoạt động thuộc lĩnh vực hành chính công trong việc đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số dựa trên thực tiễn cơ sở trên bàn tỉnh Quảng Bình.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Trước hết, luận văn được hoàn thành dựa trên quan điểm triết học của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác Lenin để nhìn nhận, đánh giá đối tượng là chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình. Khi tiếp cận vấn đề, tiến hành nghiên cứu tác giả không xem xét chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số là thành tố tồn tại độc lập, mà đặt trong đặc điểm dân tộc, bối cảnh của địa phương; dưới sự tác động của các mối quan hệ gia đình, nhà trường, xã hội; mối quan hệ bổ trợ với các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa xã hội.

Đồng thời luận văn dựa trên tư tưởng của Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chính sách bảo trợ trẻ em, chính sách dân tộc, chính sách phát triển văn hoá trong bối cảnh phát triển kinh tế, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng là phương pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp phỏng vấn sâu và phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia.

a) Phương pháp nghiên cứu tài liệu

– Tổng hợp, phân tích các số liệu từ các báo cáo cơ sở, ấn phẩm, tài liệu, luận văn… có liên quan đến vấn đề Chính sách công trong lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc trẻ em, đồng bào dân tộc thiểu số ở tỉnh Quảng Bình để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.

– Nghiên cứu các hồ sơ lưu trữ tại Ban dân tộc tỉnh Quảng Bình nhằm nghiên cứu các chính sách dành cho đồng bào thiểu số nói chung và trẻ em nói riêng mà tỉnh, huyện đã thực hiện nhằm nghiên cứu và đánh giá thực trạng chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình 

b) Phương pháp thảo luận nhóm

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành thảo luận nhóm lần lượt với các thành phần tham gia là: cán bộ chính sách huyện; trẻ em dân tộc thiểu số; các cặp vợ chồng dân tộc thiểu số. Trong buổi thảo luận về chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số tại tỉnh Quảng Bình, dựa vào thành phần tham gia mà tôi đưa ra hướng thảo luận phù hợp để lấy được thông tin đa chiều, khách quan về: việc thực hiện chính sách bảo trợ; nhu cầu mà trẻ mong muốn và tác động của chính sách với trẻ; vai trò của phụ huynh, gia đình trong việc thực hiện chính sách. Sau khi nhận được các ý kiến đa chiều, tôi tiến hành phân tích tổng hợp. Phương pháp này giúp quá trình nghiên cứu diễn ra khách quan, có góc nhìn đa chiều và giúp nhìn nhận, đánh giá đối tượng một cách toàn diện.

c) Phương pháp phỏng vấn sâu

Đồng bào dân tộc thiểu số phân bố chủ yếu ở các xã vùng cao của 5 huyện Bố Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa, Lệ Thủy, Quảng Ninh. Dựa vào đặc điểm địa bàn, trong quá trình nghiên cứu tôi tiến hành phỏng vấn sâu cho 3 nhóm đối tượng: (1) Phỏng vấn cán bộ quản lý cấp tỉnh, cấp huyện: về thực trạng, thuận lợi, khó khăn và đề xuất kiến nghị về công tác quản lý, thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; (2) Phỏng vấn cán bộ cơ sở về những khó khăn trrong quá trình thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và đề xuất kiến nghị; (3) Phỏng vấn trẻ em và người đại diện hộ gia đình về đánh giá hiệu quả chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

Mẫu phỏng vấn được phân bố cụ thể như sau: Phỏng vấn cán bộ quản lý (18 người): cấp tỉnh 3 người; cấp huyện 15 người (3 người/ huyện). Phỏng vấn cán bộ cơ sở (30 người):

– Huyện Minh Hóa 6 người: chia đều 3 xã Thượng Hóa, Hóa Sơn, Hóa Tiến.

– Huyện Tuyên Hóa 6 người: chia đều 3 xã Lâm Hóa, Lê Hóa, Sơn Hóa.

– Huyện Bố Trạch 6 người: chia đều 3 xã Thượng Trạch, Tân Trạch, Sơn Trạch.

– Huyện Lệ Thủy 6 người: chia đều 3 xã Kim Thủy, Lâm Thủy, Ngân Thủy.

– Huyện Quảng Ninh 6 người: chia đều 3 xã Trường Sơn, Trường Xuân

– Phỏng vấn trẻ em (30 trẻ) và người đại diện hộ gia đình (30người)

– Huyện Minh Hóa 12 người: chia đều 3 xã Thượng Hóa, Hóa Sơn, Hóa Tiến.

– Huyện Tuyên Hóa 12 người: chia đều 3 xã Lâm Hóa, Lê Hóa, Sơn Hóa.

– Huyện Bố Trạch 12 người: chia đều 3 xã Thượng Trạch, Tân Trạch, Sơn Trạch.

– Huyện Lệ Thủy 12 người: chia đều 3 xã Kim Thủy, Lâm Thủy, Ngân Thủy.

– Huyện Quảng Ninh 12 người: chia đều 3 xã Trường Sơn, Trường Xuân.

d) Phương pháp phỏng vấn chuyên gia

– Phỏng vấn ý kiến chuyên gia về ngành hành chính công để giải đáp nguyên nhân các vấn đề tồn tại trong việc đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.

– Phỏng vấn ý kiến chuyên gia luật về quyền lợi trẻ em cần được hưởng và phương thức thực hiện phù hợp với đối tượng trẻ vùng dân tộc thiểu số.

– Phỏng vấn ý kiến chuyên gia dân tộc học để nắm rõ phong tục tập quán dân tộc thiểu số trên địa bàn Quảng Bình để đưa ra các chính sách phù hợp vừa đảm bảo quyền trẻ em vừa không gây tác động tiêu cực đến truyền thống văn hóa của người dân.

Thực hiện chính sách bảo trợ  đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình
Thực hiện chính sách bảo trợ  đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Hệ thống hóa cơ sở lý luận quản lý nhà nước về chính sách bảo trợ trẻ em người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình; trên cơ sở đó phân tích, đánh giá làm rõ hơn hệ thống quản lý nhà nước về hành chính công đối với vấn đề này để hoàn thiện khuôn khổ luật pháp, chính sách, cơ chế, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hành chính công từ cấp trung ương đến cấp cơ sở.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực tiễn quản lý chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, giúp nâng cao nhận thức của các nhà quản lý, cán bộ cơ sở trực tiếp làm việc tại địa bàn với trẻ em vùng dân tộc thiểu số về vai trò của chính sách bảo trợ trẻ em.

Tác giả hi vọng, những phát hiện mới của để tài nghiên cứu sẽ làm cơ sở khoa học cho các nhà quản lý trong việc đề ra cơ chế chính sách phù hợp với và xây dựng các chương trình chiến lược bảo vệ đối với trẻ em dân tộc thiểu số.

Đồng thời, đây cũng là tài liệu tham khảo thiết thực cho các nhà nghiên cứu, quản lý chính sách công xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách về vấn đề bảo trợ trẻ em dân tộc thiểu số. Đây cũng là tài liệu mang tính thực tế cao cho sinh viển, nghiên cứu sinh ngành chính sách công tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và kiến nghị, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số;

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số ở Quảng Bình;

Chương 3: Mục tiêu, giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số ở Quảng Bình

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH BẢO TRỢ ĐỐI VỚI

TRẺ EM DÂN TỘC THIỂU SỐ

    1. Một số khái niệm công cụ
      1. Khái niệm chính sách công

Theo tiến trình lịch sử, những quan tâm đầu tiên về chính sách công xuất hiện cùng với sự ra đời của nền dân chủ Hy Lạp, nhưng khoa học chính sách chỉ mới nổi lên từ giữa thế kỷ XIX, lúc mà khoa học chính trị bắt đầu chuyển trọng tâm nghiên cứu từ triết học – chính trị sang nghiên cứu các thể chế, cơ cấu tổ chức nhà nước, thái độ và hành vi ứng xử của các tổ chức và các cá nhân với nhau trong hoạt động kinh tế, xã hội. Nhiều nhà khoa học trong thời kỳ này đã đi sâu nghiên cứu về các chuẩn mực giá trị hoặc hành vi của chính phủ với mục đích lựa chọn nội dung, phương thức hoạt động nhằm thoả mãn các nhu cầu của đời sống nhân dân. Những tư tưởng mới này là nguyên nhân gây ra các cuộc tranh luận gay gắt về vai trò của nhà nước, về quyền và nghĩa vụ của công dân và nhà nước. Đồng thời, sau các cuộc chiến tranh thuộc địa, hàng loạt các nước bị tàn phá có nhu cầu cơ cấu lại nhà nước của mình, các thể chế quốc tế mới cũng được thiết lập đã dẫn đến sự ra đời của một cách tiếp cận mới về công bằng, bình đẳng, về việc tìm kiếm các giá trị và biện pháp phát triển kinh tế – xã hội. Bối cảnh đặc biệt này làm nảy sinh một số cách tiếp cận mới về khoa học chính sách. Một số cách tiếp cận tập trung vào các hành vi ứng xử ở cấp vi mô, vào khía cạnh tâm lý của quần chúng, của các cử tri và nhà lãnh đạo; một số khác lại tập trung vào những đặc điểm văn hoá, xã hội và một số lại tập trung vào bản chất dân tộc và tính toàn cầu… Chính các cách tiếp cận theo hướng đổi mới trên đây đã tạo ra cơ sở nền tảng cho sự ra đời của khoa học chính sách.

Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng hay các tài liệu công thì “chính sách” được nhắc tới rất nhiều, đây là thuật ngữ được của ngành chính sách công. Đây được xem là một trong những thuật ngữ khó, không dễ để có thể định nghĩa chính xác, đầy đủ các ý hay khía cạnh liên quan. Năm 1972, Thomas Dye đã định nghĩa một cách ngắn gọn về chính sách công như sau: “Chính sách công là bất kỳ những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” [78, tr.4]. Đây là một định nghĩa này khá súc tích, nhưng chưa có hiểu biết sâu sắc về chính sách công. Định nghĩa chưa đưa ra được quy ước hệ thống những hoạt động được gọi là chính sách nhằm phân biệt với các hoạt động cử nhà nước.Đây là một định nghĩa này khá súc tích, nhưng chưa có hiểu biết sâu sắc về chính sách công. Định nghĩa chưa đưa ra được quy ước hệ thống những hoạt động được gọi là chính sách nhằm phân biệt với các hoạt động cử nhà nước. Tuy nhiên, định nghĩa này cũng đã chỉ ra những dấu hiệu nhận biết nhất định về chính sách công. Thứ nhất, chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước.Điều này có nghĩa là các quyết định của các doanh nhân, các tổ chức từ thiện, các nhóm lợi ích, các cá nhân trong xã hội không phải là chính sách công. Khi nói về chính sách công thì phải hiểu rằng đó là các hành động của nhà nước. Cho dù trong thực tế, các hoạt động của các chủ thể phi nhà nước có thể hoặc chắc chắn ảnh hưởng đến những gì nhà nước làm, nhưng bản thân những quyết định hoặc các hoạt động của các chủ thể đó không tạo nên chính sách công. Chính sách công là biện pháp mà nhà nước thực hiện trên thực tế để tác động điều chỉnh hành vi của mọi đối tượng nhằm đạt mục tiêu mong muốn. Thứ hai, chính sách công bao gồm sự lựa chọn cơ bản từ phía nhà nước theo hướng làm hoặc không làm gì. Quyết định này được cán bộ, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Nói một cách đơn giản hơn, chính sách công là sự lựa chọn tối ưu của nhà nước đối với một đường lối hành động. Quan niệm về “không làm gì” có nghĩa là nhà nước quyết định không tạo ra một chương trình mới, hoặc đơn giản chỉ là duy trì tình trạng hiện tại của một quá trình kinh tế – xã hội. Mặc dù vậy, chúng ta phải coi đây là các quyết định có tính toán.

Đến năm 1978, William Jenkins đưa ra định nghĩa mới, theo ông chính sách công “là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà hoạt động chính trị cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu trong một tình huống xác định thuộc phạm vi thẩm quyền“ [78, tr.5]. Theo đó, chính sách được hiểu là cả một quá trình thực hiện một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau. Vì trên thực tế, hiếm khi nhà nước giải quyết một vấn đề công bằng một quyết định đơn lẻ, mà hầu hết đều phải bao gồm hàng loạt các quyết định khác nhau. Do đó, để hiểu một cách đầy đủ về chính sách của nhà nước cần xem xét tất cả quyết định của các cá nhân, cơ quan nhà nước liên quan đến lĩnh vực công mà chính sách hướng tới thực hiện. Hơn nữa, định nghĩa chính sách công của W. Jenkins cũng cho rằng, chính sách chính là hành vi định hướng mục tiêu của nhà nước. Nhìn từ khía cạnh này, chính sách công được xem là hệ thống quyết định do nhà nước đề ra nhằm xác định mục tiêu, đưa ra giải pháp để đạt được mục tiêu đó. Điều này cung cấp một số phương pháp đánh giá chính sách công về sự thích đáng của mục tiêu và mối quan hệ phù hợp giữa mục tiêu và phương tiện thực hiện.

James Anderson vào năm 1984 đã đưa ra định nghĩa về chính sách công một cách khái quát hơn. Ông định nghĩa như sau: “Chính sách công là đường lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [78, tr.6]. Định nghĩa này bổ sung thêm hai thành tố cho các định nghĩa của W. Jenkins và T.Dye. Thứ nhất, định nghĩa này đã chỉ ra rằng các quyết định chính sách thường được ban hành bởi một tập thể các nhà hoạt động chính trị, thay vì một nhóm hoặc một nhà hoạt động duy nhất trong bộ máy nhà nước. Thông thường các chính sách là kết quả không chỉ của nhiều quyết định của một chủ thể, mà còn là kết quả của nhiều quyết định được ban hành bởi các chủ thể ở những cấp và bộ phận khác nhau trong bộ máy nhà nước. Thứ hai, định nghĩa này cũng làm sáng tỏ mối liên hệ giữa hành động của nhà nước và sự nhận thức, mối quan tâm của các chủ thể khác trong xã hội về sự tồn tại một vấn đề phát sinh hoặc đòi hỏi phải được giải quyết.

Đến năm 1990, B. Guy Peters lại đưa ra định nghĩa mới: “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nưóc có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân” [78, tr.6]. Quan niệm này của B. Guy Peters đã bổ sung thêm tác động của chính sách công đến đời sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, đây được xem là một phần quan trọng của chính sách công. Hiểu một cách đơn giản, chính sách công nhằm giải quyết những vấn đề công và quá trình thực hiện sẽ ảnh hưởng đến một vài cá nhân, tổ chức trong xã hội. Điều này cũng đưa ra gợi ý về tiêu chuẩn đánh giá chính sách công là tác động có mang tính xã hội hay không.

Trong cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam, chính sách được giải thích như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [35, tr.475]. Theo định nghĩa này, ta có thể thấy mục đích của chính sách công là đưa ra định hướng, lộ trình cụ thể để thúc đẩy xã hội phát triển. Có thể nói, nhà nước sử dụng chính sách công như một công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị.

Thông qua các định nghĩa, cách hiểu trên đây trên đây về chính sách công, có thể đưa ra khái niệm về chính sách công như sau: Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội.

Khái niệm trên thể hiện rõ đặc trưng của chính sách công là do nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng quản lý. Đồng thời, khái niệm cho thấy bản chất của chính sách công là công cụ định hướng cho hành vi của các cá nhân, tổ chức nhằm phù hợp với định hướng của nhà nước trong việc giải quyết những vấn đề phát sinh trong đời sống xã hội. Để đạt được mục tiêu đề ra, trước hết chính sách phải tồn tại trong thực tế, nghĩa là chính sách phải thể hiện được vai trò định hướng hành động theo những mục tiêu nhất định. Điều kiện tồn tại của chính sách công, bao gồm: những tác động tích cực của hệ thống thể chế do nhà nước thiết lập; tinh thần nghiêm túc thực hiện của các chủ thể tham gia giải quyết vấn đề; chính sách có hiệu lực trong một phạm vi không gian và thời gian nhất định. Điều kiện bảo đảm cho sự tồn tại được thể hiện bằng các nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, môi trường chính trị, pháp lý, văn hóa xã hội và cả sự bảo đảm bằng nhà nước.

      1. Khái niệm chính sách bảo trợ trẻ em

Khái niệm “trẻ em” theo Điều 1 Công ước Liên hiệp Quốc về Quyền trẻ em được quy định: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật có thể được áp dụng với trẻ em có quy định tuổi vị thành niên sớm hơn.” [52, tr.35].

Phù hợp với Công ước của Liên Hợp Quốc, theo quy định tại Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 thì: “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi” [5, tr.7]. Đồng thời, bộ luật cũng đưa ra các quyền cụ thể mà trẻ em được hưởng, trong đó có các quyền cơ bản sau: Quyền sống; Quyền được khai sinh và có quốc tịch; Quyền được chăm sóc sức khỏe; Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu; Quyền vui chơi, giải trí; Quyền giữ gìn, phát huy bản sắc; Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Quyền về tài sản; Quyền bí mật đời sống riêng tư; Quyền được sống chung với cha, mẹ; Quyền được đoàn tụ, liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ; Quyền được chăm sóc thay thế và nhận làm con nuôi;

Quyền được bảo vệ để không bị xâm hại tình dục; Quyền được bảo vệ để không bị bóc lột sức lao động; Quyền được bảo vệ để không bị bạo lực, bỏ rơi, bỏ mặc; Quyền được bảo vệ để không bị mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt; Quyền được bảo vệ khỏi chất ma túy; Quyền được bảo vệ trong tố tụng và xử lý vi phạm hành chính; Quyền được bảo vệ khi gặp thiên tai, thảm họa, ô nhiễm môi trường, xung đột vũ trang; Quyền được bảo đảm an sinh xã hội; Quyền được tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động xã hội; Quyền được bày tỏ ý kiến và hội họp; Quyền của trẻ em khuyết tật; Quyền của trẻ em không quốc tịch, trẻ em lánh nạn, tị nạn.

Bên cạnh những quyền lợi được hưởng, trẻ em còn có bổn phận với gia đình, nhà trường và xã hội, bản thân và quê hương đất nước.

Bổn phận của đối với trẻ em gia đình: Kính trọng, lễ phép, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; yêu thương, quan tâm, chia sẻ tình cảm, nguyện vọng với cha mẹ và các thành viên trong gia đình, dòng họ; học tập, rèn luyện, giữ gìn nề nếp gia đình, phụ giúp cha mẹ và các thành viên trong gia đình những công việc phù hợp với độ tuổi, giới tính và sự phát triển của trẻ em.

Bổn phận của đối với trẻ em nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác: Tôn trọng giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác; Thương yêu, đoàn kết, chia sẻ khó khăn, tôn trọng, giúp đỡ bạn bè; Rèn luyện đạo đức, ý thức tự học, thực hiện nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường, cơ sở giáo dục khác; Giữ gìn, bảo vệ tài sản và chấp hành đầy đủ nội quy, quy định của nhà trường, cơ sở trợ giúp xã hội và cơ sở giáo dục khác.

Bổn phận của đối với trẻ em cộng đồng, xã hội: Tôn trọng, lễ phép với người lớn tuổi; quan tâm, giúp đỡ người già, người khuyết tật, phụ nữ mang thai, trẻ nhỏ, người gặp hoàn cảnh khó khăn phù hợp với khả năng, sức khỏe, độ tuổi của mình; Tôn trọng quyền, danh dự, nhân phẩm của người khác; chấp hành quy định về an toàn giao thông và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ, giữ gìn, sử dụng tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường phù hợp với khả năng và độ tuổi của trẻ em; Phát hiện, thông tin, thông báo, tố giác hành vi vi phạm pháp luật.

Bổn phận của đối với trẻ em quê hương, đất nước: Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tôn trọng truyền thống lịch sử dân tộc; giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của quê hương, đất nước; Tuân thủ và chấp hành pháp luật; đoàn kết, hợp tác, giao lưu với bạn bè, trẻ em quốc tế phù hợp với độ tuổi và từng giai đoạn phát triển của trẻ em.

Bổn phận của trẻ em với bản thân: Có trách nhiệm với bản thân; không hủy hoại thân thể, danh dự, nhân phẩm, tài sản của bản thân; Sống trung thực, khiêm tốn; giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể; Chăm chỉ học tập, không tự ý bỏ học, không rời bỏ gia đình sống lang thang; Không đánh bạc; không mua, bán, sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác; Không sử dụng, trao đổi sản phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy; không sử dụng đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh của bản thân.

Bảo vệ trẻ em là bảo đảm cho trẻ em được hưởng đầy đủ các quyền lợi, đồng thời thực bổn phận ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm quyền, bổn phận của trẻ em theo quy định của pháp luật.

Thực hiện chính sách bảo trợ  đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình
Thực hiện chính sách bảo trợ  đối với trẻ em dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Bình

Thông qua những lý luận về “chính sách công” và “bảo vệ trẻ em” tác giả đưa ra định nghĩa về chính sách bảo vệ trẻ em như sau: “Chính sách bảo vệ trẻ em là tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề bảo vệ trẻ em theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.

      1. Khái niệm chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

“Dân tộc thiểu số” là khái niệm thuộc phạm trù “người thiểu số”- một trong những nhóm người dễ bị tổn thương, được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện pháp lý quốc tế cũng như trong công tác nghiên cứu. Một nhóm người cùng sinh sống trên một quốc gia hoặc địa phương nhất định, có những đặc điểm đồng nhất về chủng tộc, tín ngưỡng, ngôn ngữ và truyền thống, có sự giúp đỡ lẫn nhau và có quan điểm thống nhất trong việc bảo lưu những yếu tố truyền thống, duy trì tôn giáo, tín ngưỡng và hướng dẫn, giáo dục trẻ em trong cộng đồng theo tinh thần và truyền thống của chủng tộc họ được gọi là cộng đồng dân tộc thiểu số.

Khái niệm “dân tộc thiểu số” được dùng phổ biến trong các văn bản pháp luật, tài liệu nghiên cứu, học tập và trong hoạt động hàng ngày. Thuật ngữ này cũng được sử dụng chính thức trong các bản hiến pháp. Nghị định 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ về công tác dân tộc đưa ra khái niệm dân tộc thiểu số như sau: “Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít hơn so với dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Năm 2009, theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở, có 54 dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ nước Việt Nam. Trong đó, có 53 dân tộc thiểu số với số dân 12,253 triệu người, chiếm 14,3% tổng số dân cả nước.

Vậy thông qua các khái niệm về “chính sác bảo trợ trẻ em” và “dân tộc thiểu số” có thể hiểu “chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số” là: tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề bảo vệ trẻ em thuộc những dân tộc ít người theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.

Việc thực hiện chính sách bảo vệ đối với trẻ em dân tộc thiểu số là việc thực hiện hóa các quyết định chính trị về bảo vệ trẻ em cũng như phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi. Đây là khâu đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách bảo vệ trẻ em, đặc biệt là trẻ em dân tộc thiểu số, những đối tượng dễ bị tổn thương và rơi vào nhóm trẻ có hoàn cảnh đặc biệt.

    1. Thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số
      1. Nội dung chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Chính sách bảo trợ trẻ em luôn được nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, vì “trẻ em chính là tương lai của đất nước”. Việc đưa ra và thực hiện chính sách cần phải phù hợp với từng đối tượng và địa bàn, môi trường xã hội mới mang lại hiệu quả cao. Trong những năm gần đây, các chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số đã và đang đạt được những kết quả đáng khen gợi.

Chính sách được nhà nước đưa ra nhằm đảm bảo các quyền lợi, bổn phận của trẻ em vùng dân tộc thiểu số. Những quyền lợi tưởng chừng cơ bản, khá đơn giản với trẻ em nhưng để đảm bảo được thực hiện đối với đồng bào dân tộc thiểu số lại là một vấn đề nan giải. Vượt qua những khó khăn về địa hình, vị trí địa lý, cơ sở vật chất hay văn hóa khác biệt, các cán bộ chuyên trách đã đưa ra và thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số với các nội dung cơ bản sau.

Thứ nhất, đảm bảo nhu cầu thiết yếu cơ bản trong cuộc sống cho trẻ. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng xa xôi, kinh tế nghèo nàn thì việc đủ ăn, đủ mặc là cả một vấn đề lớn. Có nhiều vùng, đồng bào không đủ lương thực hàng ngày, chính vì vậy trẻ em thường phải chịu đói, chất lượng dinh dưỡng bữa ăn không đảm bảo. Nhà nước đưa ra các chính sách cụ thể để giúp người dân nói chung và trẻ em nói riêng khắc phục vấn nạn trước mắt và đề ra chính sách nhằm đảm bảo lương thực lâu dài cho trẻ, nhằm xóa nạn đói triệt để. Các chính sách hỗ trợ gạo, muối cho học sinh các trường dân tộc nội trú đang thực hiện mang lại hiệu quả cao, giúp giải quyết vấn đề lương thực và khuyến khích trẻ em đến trường.

Thứ hai, chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số tiến tới đảm bảo, tăng cường sức khỏe cho trẻ. Trẻ em vùng núi thường sử dụng nguồn nước không đảm bảo trong sinh hoạt hàng ngày, không được tiêm chủng đầy đủ theo chương trình tiêm chủng quốc gia hay bổ sung các vitamin hay dưỡng chất thiết yếu. Chính vì vậy, trong những năm gần đây nhà nước đầu tư xây dựng các trạm y tế tại các thôn bản nhằm chăm sóc sức khỏe cho trẻ một cách toàn diện, đồng bộ: giai đoạn thai kỳ, sơ sinh, trẻ nhỏ, thiếu niên… Các chương trình tiêm chủng, khám chữa bệnh miễn phí đã giúp phần nào cải thiện được tình hình sức khỏe của trẻ em vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ ba, chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số nhằm giúp trẻ có một môi trường giáo dục tốt nhất. Chính sách xây dựng các điểm trường mẫu giáo khang trang, các điểm trường dân tộc nội trú với khu ở đảm bảo đã thúc đẩy người dân đưa trẻ đến trường. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên trẻ nhiệt huyết cùng các chính sách hỗ trợ tài chính, ưu tiên cho trẻ em dân tộc thiểu số đã giúp nâng tỉ lệ học sinh đến trường, giảm tỉ lệ học sinh bỏ lớp.

Thứ tư, chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số đang tiến tới xóa bỏ các hủ tục, bảo vệ trẻ em khỏi nạn tảo hôn, hôn nhân cận huyết, cúng ma… Đây được xem là một trong những nhiệm vụ khó khăn, ảnh hưởng đến vấn đề văn hóa, tín ngưỡng của đồng bào. Tuy nhiên, vì tương lai của trẻ em vùng dân tộc thiểu số, nhà nước đã đưa ra những chính sách phù hợp nhằm kêu gọi tinh thần tự giác của người lớn, vận động, giải thích và hỗ trợ về kiến thức.

Thứ năm, chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số còn gắn liền với việc xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng. Để đảm bảo được các nội dung trên, cần có sự chuẩn bị cơ sở vật chất, hạ tầng làm bước đệm vững chắc. Điện, đường, trường, trạm được hỗ trợ đầu tư, trước hết là tập trung ở những điểm y tế, giáo dục và sinh hoạt văn hóa.

Cuối cùng, chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số còn có thiếu phần nội dung dành cho kinh phí và nhân lực. Bên cạnh việc sử dụng ngân sách chính phủ, chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số còn mở rộng, kêu gọi nguồn tài trợ từ các nhà hảo tâm, các tổ chức thiện nguyện, đầu tư. Chính sách cũng thể hiện rõ việc kêu gọi ngân sách là quan trọng nhưng trên hết việc đảm bảo trật tự xã hội, an ninh tổ quốc vẫn được đặt lên hàng đầu. Nhân lực tham gia chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số bên cạnh cán bộ chuyên trách, có thể có các nhà hảo tâm. Tuy nhiên, họ phải được nhà nước cấp phép, không vi phạm pháp luật và không lợi dụng trẻ em vùng dân tộc thiểu số vì lợi ích kinh tế. Lợi ích của trẻ em vẫn luôn được chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số đặt lên hàng đầu.

Có thể thấy nội dung chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số không chỉ đảm bảo được các quyền lợi, bổn phận của trẻ mà còn tham gia cụ thể vào các đối tượng thực hiện, liên quan đến chính sách. Dù trong quá tình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn và phải thay đổi phù hợp với môi trường, hoàn cảnh nhưng nhìn chung chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số đã và đang đạt được những hiệu quả nhất định và hoàn thiện mình.

      1. Cách tiếp cận và phương pháp tổ chức thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số
        1. Cách tiếp cận thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Khi thực hiện chính sách chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số thì phương pháp tiếp cận truyền thống“từ trên xuống” được áp dụng khá phổ biến tại các địa phương. (Biểu1.1: Mô hình cách tiếp cận bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số)

Cách tiếp cận này đảm bảo được tính thống nhất khi ban hành chính sách xuống địa phương. Đồng thời phương pháp này đảm bảo chính sách được triển khai nhanh chóng, tránh được sự chồng chéo khi thi hành chính sách. Bên cạnh đó, phương pháp này chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của cấp cơ sở. Trong một số trường hợp, phướng pháp này sẽ đưa ra những chính sách thiếu phù hợp với hoàn cảnh kinh tế, xã hội của địa phương thực hiện. Ngược lại, phương pháp tiếp cận “từ dưới lên” tuy khắc phục được những nhược điểm của phương pháp tiếp cận “từ trên xuống” nhưng vẫn gặp phải một số vấn đề bất cập. Trong quá trình thực hiện, phương pháp tiếp cận “từ dưới lên”bộc lộ rõ chủ quan của những cán bộ chuyên trách địa phương. Ngoài ra, trong quá trình thực tiễn phương pháp này chưa vận động được người dân tham gia vào việc cung cấp thông tin, thi hành chính sách.

Vì vậy, để mang lại hiệu quả cao trong việc ban hành cũng như thực hiện chính sách, đảm bảo phù hợp với hoàn cảnh địa phương, thực hiện mục tiêu hướng đến cộng đồng cần kết hợp cả hai phương pháp: phương pháp tiếp cận theo chiều dọc và chiều ngang.

Có thể thấy, Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể xã hội, chính trị chỉ đạo phương pháp tiếp cận đối với chính sách bảo vệ trẻ em thông qua các chương trình, chiến lược, nghị quyết và chỉ thị về mặt chính trị. Quốc Hội thực hiện vai trò giám sát tối cao các hoạt động của Nhà nước, trong đó có các ủy ban làm việc liên quan đến trẻ em như Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, thanh thiếu niên và nhi đồng, Ủy ban Các vấn đề xã hội, Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính và Ngân sách. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội được giao trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các vấn đề về trẻ em, cùng với Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo đóng vai trò chủ chốt. Chính quyền địa phương thực thi việc quản lý nhà nước về các vấn đề trẻ em; xây dựng các kế hoạch hành động phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Đặc biệt, việc thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số còn cần có sự đóng góp của Ban dân tộc để bổ sung các kiến thức về đặc trưng văn hóa từng tộc người, giúp cho chính sách được thực hiện một cách suôn sẻ, đạt hiệu quả cao, tránh đụng chạm, ảnh hưởng đến truyền thống văn hóa các tộc người.

Trong những năm vừa qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam đã thể hiện được vai trò của mình khi xây dựng và tổ chức thực hiện phong trào “Toàn dân chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em”. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là lực lượng đi đầu trong việc thực hiện các hoạt động thanh thiếu niên và nhi đồng. Đặc biệt, sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần được chú trọng. Gia đình có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục, cùng với nhà trường giáo dục hình thành nhân cách và trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết cho trẻ em phát triển toàn diện, xã hội cần chung tay bảo vệ trẻ, tạo môi trường phát triển tốt nhất cho trẻ.

Hiện nay, vai trò của các cơ quan truyền thông tuyên truyền quyền trẻ em, nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề trẻ em tới cộng đồng rất được chú trọng và cần đầu tư hơn nữa.

        1. Xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Để đưa chính sách công nói chung và chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số nói riêng vào thực hiện, trước tiên cần phải xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách cụ thể, triển khai qua từng giai đoạn và các cấp cơ sở. Đây được xem đầu tiên trong việc tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em dân tộc thiểu số. Nó đóng vai trò quan trọng trong sự thành bại của chính sách.

Hiệu quả thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số phụ thuộc vào tính khả thi của bản kế hoạch thực hiện chính sách, bản kế hoạch càng chi tiết, cụ thể càng mang lại tỉ lệ thành công cao.

Bộ phận được giao nhiệm vụ cần phải đầu tư thời gian và công sức xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em dân tộc thiểu số một cách hoàn thiện, dựa trên sự tư vấn của các bên liên quan trước khi đưa chính sách vào cuộc sống.

Các cơ quan có nhiệm vụ triển khai chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số dù là Trung ương hay cấp cơ sở đều phải xây dựng kế hoạch cụ thể. Thông thường, kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em sẽ có các nội dung cơ bản sau: Kế hoạch tổ chức điều hành; Kế hoạch cung cấp nguyên liệu (nhiên liệu, vật liệu, tài liệu); Kế hoạch thời gian; Kế hoạch kiểm tra, đôn đốc đưa chính sách bảo vệ trẻ em vào cuộc sống.

Bên cạnh đó, bản kế hoạch thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số cần có thêm: nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực hiện chính sách; nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước và cán bộ công chức tham gia tổ chức điều hành chính sách; biện pháp, giải pháp khen thưởng, kỷ luật đối với cá nhân, tập thể thực hiện. Cần lập kế hoạch thực hiện chính sách tốt để tránh điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện.

        1. Phổ biến tuyên truyền thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Tiến hành phổ biến, tuyên truyền chính sách giúp các đối tượng thụ hưởng chính sách, gia đình, nhà trường và cộng đồng hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách bảo vệ trẻ em. Đồng thời, công tác tuyên truyền còn giúp các cơ quan ban ngành, các cán bộ công chức và các tổ chức xã hội có trách nhiệm thực thi chính sách được ý thức tầm quan trọng, tính chất cũng như quy mô của chính sách đối với trẻ em nói chung và trẻ em dân tộc thiểu số nói riêng.

Cần đưa ra kế hoạch tuyên truyền chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số với nhiều hoạt động khác nhau như: Tổ chức các chiến dịch truyền thông bảo vệ trẻ em nhằm tạo mối quan tâm, thúc đẩy sự thay đổi nhận thức của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ trẻ em dân tộc thiểu số; xây dựng các chương trình, sáng tạo sản phẩm truyền thông về chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số cho các kênh truyên thông đại chúng như loa đài, ti vi hay treo biển truyền thông; tổ chức tư vấn, trực tiếp tới từng đối tượng thông qua các cuộc thi, diễn đàn, hội nghị, sinh hoạt ngoại khóa…; thành lập các câu lạc bộ tại cộng đồng, trường học để trẻ có điều kiện tham gia tìm hiểu về bảo vệ trẻ em. Việc bảo vệ trẻ em vùng dân tộc thiểu số cần có sự tham gia góp sức của gia đình, nhà trường, xã hội và chính trẻ em.

        1. Phân công phối hợp thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số

Trong tổ chức và thực hiện chính sách bảo trợ đối với trẻ em dân tộc thiểu số thì phối hợp thực hiện chính sách có ý nghĩa quan trọng tác động đến hiệu quả thực hiện chính sách. Để tổ chức thực hiện chính sách bảo vệ trẻ em dân tộc thiểu số hiệu quả cần tiến hành phối hợp một cách chặt chẽ, có sự phân công rõ ràng, hợp lý giữa các cơ quan quản lý từ cấp Trung ương đến cấp địa phương và có sự hợp tác với các cơ quan ban ngành liên quan.

Việc phân công nhiệm vụ chi tiết và trách nhiệm cụ thể với các cơ quan ban ngành liên quan sẽ tránh việc chồng chéo trong quá trình thực hiện. Tiến hành phân công công việc cụ thể, phối hợp nhuần nhuyễn giữa các ban ngành trong quá trình thực hiện chính sách sẽ phát huy được những nhân tố tích cực, giúp việc thực hiện chính sách đạt hiệu quả cao. Để khai thác tối đa nguồn nhân lực, thể hiện tính khoa học và chuyên môn hóa, khi phân công nhiệm vụ cần dựa vào khả năng, trình độ chuyên môn của từng cán bộ cũng như thế mạnh của tổ chức.

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ rõ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều 4: “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng đứng đầu, giương cao ngọn cơ lãnh đạo từ cấp Nhà nước tới cấp cơ sở, trong mọi lĩnh vực xã hội, với toàn thể các tổ chức trong và ngoài nước cũng như các cá nhân thông qua nghị quyết và chỉ thị. Đảng cũng luôn theo dõi, giám sát việc thực hiện của các đối tượng qua các báo cáo tổng kết và thành quả thực tiễn. Từ buổi đầu, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn nhận được sự quan tâm của Đảng. Tháng 6/2000, chỉ thị 55/CT-TW về việc “Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong các hoạt động chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em” đã được ban hành. Đảng thể hiện mong muốn cải thiện nhận thức của cộng đồng và kêu gọi hành động vì trẻ em diễn ra trong toàn xã hội, tiên phong là các Chi bộ Đảng cấp cơ sở.

Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao mọi hoạt động của Nhà nước. Theo Luật tổ chức Quốc Hội sửa đổi năm 2007 có 5 Ủy ban sau có chức năng liên quan đến quyền trẻ em là: Ủy ban Văn hóa, giáo dục, Thanh thiếu niên và Nhi đồng; Ủy ban Các vấn đề xã hội; Ủy ban Kinh tế; Ủy ban Tài chính và Ngân sách; Ủy ban Pháp luật.

Cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước là Chính phủ Việt Nam, đây là cơ quan hành pháp cấp cao nhất làm việc cho Quốc Hội.

Thủ tướng đứng đầu chính phủ, có thẩm quyền ban hành Nghị định, Quyết định, Pháp lệnh đối với cấp cở sở, có hiệu lực trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. Hỗ trợ cho Thủ tướng là Bộ trưởng các ban ngành có quyền ban hành các Quyết định và Thông tư hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật.

Các bộ ban ngành liên quan đến quyền trẻ em bao gồm: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH), Bộ Y tế (Bộ YT); Bộ Giáo dục và Đào tạo (Bộ GD&ĐT), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VH-TT&DL), Bộ Công an (Bộ CA), Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Bộ NN&PTNT), Bộ Tài nguyên và Môi trường (Bộ TNMT), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KH&ĐT), Bộ Tài chính (Bộ TC), Ủy ban Dân tộc (UBDT), ổng cục thống kê (TCTK)

Dựa vào quyền hạn, trách nhiệm mà Chính phủ giao phó, Ủy ban nhân dân cấp cơ sở tiến hành thực hiện quyền trẻ em theo các cấp.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\CHINH SACH CONG\TRAN MINH DUC\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *