Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã tạo dựng và lưu truyền một kho tàng di sản văn hóa vô giá. Từ những nền văn hóa cổ như Đông Sơn, Sa Huỳnh… thuộc thời đại kim khí cách ngày nay trên 2000 năm, đến văn hóa thời kỳ phong kiến tự chủ thuộc các vương quốc Đại Việt, Champa… cho đến khi Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn – địa đầu Tổ quốc – đến đất mũi Cà Mau, nước ta đã hình thành cộng đồng 54 dân tộc anh em; mỗi dân tộc tùy theo điều kiện lịch sử và địa bàn cư trú mà có sự phát triển khác nhau, song dân tộc nào cũng có những nét văn hóa đặc sắc riêng của mình. Những giá trị văn hóa đó đã được bảo tồn và phát huy qua nhiều thế hệ trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam hình thành nên một hệ thông các giá trị di sản văn hóa của dân tộc.

Thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam là vùng đất có nhiều di sản văn hóa có giá trị, có ý nghĩa giáo dục truyền thống, tạo sức hút đối với du khách. Những di sản văn hóa đó là niềm tự hào, và có vai trò quan trọng trong sự phát triển của thành phố. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Tam Kỳ đã tổ chức việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc bảo tồn và phát huy các giá trị di tích văn hóa ở thành phố Tam Kỳ vẫn còn hạn chế, chưa được đầu tư một cách phù hợp, đâu đó vẫn còn tồn tại một số bất cập nhưng chưa tìm ra được định hướng giá trị di tích văn hóa đặc trưng mang màu sắc vùng đất phủ lỵ Tam Kỳ xưa và thành phố trung tâm nay. Các di sản văn hóa chưa được tập trung tôn tạo và phát huy được giá trị của nó. Một số di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố chưa được gìn giữ cẩn thận, bị xâm phạm, lấn chiếm,… Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Tam Kỳ trở thành yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay và những năm tới, nhằm cùng với các địa phương khác trên cả nước “phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc” [6, tr.303].

Trước tình hình đó, tác giả chọn đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ” làm luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính sách công.

  1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ, đề tài đã làm rõ mục tiêu, phương hướng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở thành phố Tam Kỳ hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Từ mục đích nghiên cứu trên, đề tài luận văn hướng đến các nhiệm vụ nghiên cứu quan trọng như sau:

– Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

– Phân tích thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

– Đề xuất một số mục tiêu, phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về không gian: trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

– Về thời gian: từ năm 2015 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa; quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

5.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu

Luận văn thu thập và xử lý dữ liệu cơ bản từ nhiều nguồn khác nhau như: tư liệu của Sở văn hóa thể thao và du lịch Tỉnh Quảng Nam, các chủ trương chính sách của Thành ủy và UBND Thành phố Tam Kỳ. Tác giả đã có được một hệ thống tài liệu toàn diện về chủ đề nghiên cứu và là dữ liệu phục vụ cho phân tích, dẫn luận tại Chương 1 và Chương 2.

5.2.2. Phương pháp phân tích tài liệu

Phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá các công trình liên quan của các tác giả đi trước, sử dụng các phương pháp cần thiết nhằm tối ưu nhất những tài liệu thu thập được trên thực tế, từ đó rút ra những điểm chung. 

5.2.3. Phương pháp quan sát

Thông qua sự trải nghiệm tại các khu di tích văn hóa, tác giả có cơ sở để đánh giá giá trị di tích cũng như tiềm năng của lĩnh vực mà mình đang tìm hiểu. Từ đó, cho phép tác giả tiếp cận vấn đề một cách chủ động, sâu sắc cũng như thẩm nhận được giá trị của di tích và tiềm năng phát triển.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần hệ thống hóa, làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa hiện nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Luận văn cũng có giá trị tham khảo cho các nhà lãnh đạo, quản lý của thành phố Tam Kỳ trong việc nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

– Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu, học tập và áp dụng trong việc thực hiện chính sách bảo bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở địa phương mình.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương, nội dung cụ thể như sau:

Chương 1: Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa: Một số vấn đề lý luận.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa ở thành phố Tam Kỳ.

Chương 3: Mục tiêu và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ.

CHƯƠNG 1

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY

CÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài

      1. Khái niệm chính sách công

Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách, luận văn đồng ý với quan niệm “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa”. [15, tr.475]

Chính sách có thể là chính sách của một cơ quan, đơn vị, một công ty, hoặc một quốc gia, nhà nước. Chính sách của một quốc gia thường được gọi là chính sách công.

Có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công, tùy theo cách tiếp cận, chính sách công có thể được hiểu ở các khía cạnh khác nhau.

Trong công trình Tập bài giảng Chính trị học, tập thể tác giả cho rằng “Chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực cộng cộng”.[39, tr.235]

Các tác giả khác lại cho rằng “Chính sách công là một tập hợp những quyết định liên quan với nhau do nhà nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được các mục tiêu phát triển”. [19, tr.10]

Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề công trong xã hội”. [8, tr.51]

Từ các định nghĩa trên cho thấy, cách quan niệm của các học giả về chính sách công có một số điểm lưu ý sau:

Thứ nhất, chính sách công dùng để chỉ chính sách của nhà nước. Theo nghĩa đó, nó chỉ xuất hiện khi nhà nước xuất hiện.

Thứ hai, việc xuất hiện một chính sách (chính sách công) là để giải quyết một, hay một vài mục tiêu nào đó. Việc xác định thứ tự ưu tiên của các mục tiêu là tùy theo các chủ thể; tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, việc xác định các mục tiêu là không được loại trừ nhau.

Thứ ba, chính sách công phải được xem như một quá trình từ khâu xác định ý tưởng, hoạch định, thực hiện đến đánh giá kết quả thực hiện…

      1. Khái niệm thực hiện chính sách công

Như trên đã đề cập, nói đến chính sách (công) là nói đến một chu trình hành động của chủ thể – chu trình chính sách công. Chu trình chính sách công bao gồm nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại gồm những bước khác nhau. Mỗi tác giả, tùy theo cách tiếp cận, có những cách xác định chu trình chính sách công khác nhau. Nhưng các tác giả đều khẳng định, thực hiện chính sách là một khâu trong chu trình chính sách công và là khâu quan trọng. Theo tác giả Văn Tất Thu “thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định”. [21]

Thực hiện chính sách có vai trò quan trọng trong một chu trình chính sách. Theo đó, “Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được thực hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những không có ý nghĩa, mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà nước). Nếu chính sách không được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước. Điều này hoàn toán bất lợi về mặt chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản lý” [21]. Thực chất, việc thực hiện chính sách là từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách công và giúp cho chính sách công ngày càng hoàn thiện hơn. [9, tr.11-14]

Thực hiện chính sách cũng bao hàm nhiều giai đoạn. Trong luận văn này, tác giả xem xét việc thực hiện chính sách bao gồm những nội dung sau:

Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách

Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách

Thứ tư, duy trì chính sách

Thứ năm, điều chỉnh chính sách

Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách

Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách

1.1.3. Khái niệm về văn hóa và giá trị văn hóa

1.1.3.1. Khái niệm về văn hóa

Hiện nay, trong ngôn ngữ của tất cả các dân tộc trên thế giới đều có khái niệm về văn hóa, nhưng văn hóa là một vấn đề không dễ cắt nghĩa đầy đủ, trọn vẹn. Ngay từ rất sớm, Hồ Chủ tịch đã nhìn nhận: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết; đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng khác. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp những phương thức sinh hoạt và biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. [10, tr.1]

Tại hội nghị thế giới Về Chính sách văn hóa vì sự phát triển (năm 1982 tại Mehico), văn hóa được coi là “tập hợp các đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, và ngoài văn học và nghệ thuật nó còn bao gồm cả lối sống, cách thức cùng chung sống, các giá trị hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng”.[13, tr.20]

Tác giả Trần Quốc Vượng định nghĩa: “văn hóa theo nghĩa rộng, là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người, bao hàm cả kỹ thuật, kinh tế,… để từ đó hình thành một lối sống, một thế ứng xử, một thái độ tổng quát của con người đối với vũ trụ, thiên nhiên và xã hội, là cái vai trò của con người trong vũ trụ, với những hệ thống chuẩn mực, những giá trị, những biểu tượng, những quan niệm… tạo nên phong cách diễn tả tri thức và nghệ thuật của con người”. [39, tr.35-36]

Như vậy, các định nghĩa đều cho rằng văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo trong lịch sử, nhằm đáp ứng nhu cầu của mình trong hoạt động sống. Nó có thể là các sản phẩm vật chất, như: đình, chùa, miếu,…, cũng có thể là giá trị tinh thần, phong tục, tập quán, các chuẩn mực về lối sống,…

Văn hóa được tạo thành và phát triển trên cơ sở hình thành và phát triển của con người. Trình độ phát triển chung của văn hóa phụ thuộc trực tiếp vào trình độ làm chủ tự nhiên, bản thân và xã hội của con người. Nó có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, như: Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) của Đảng đã nêu rõ “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng kinh tế, chính trị, xã hội” [3, tr.2]. Văn hóa thể hiện năng lực bản chất và thể hiện giá trị đích thực của con người, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người. Nói đến văn hóa là nói đến cái tốt đep, chân-thiện-mỹ.

1.1.3.2. Khái niệm về giá trị văn hóa

Nói đến giá trị là nói đến cái có ý nghĩa về con người, xã hội và văn hóa. Hay có thể nói, giá trị là tất cả những đánh giá của con người về bất cứ một hiện tượng trong xã hội về con người, về tự nhiên mang ý nghĩa tốt đẹp. Hệ giá trị được hình thành nên trong một quá trình xã hội tương đối lâu dài, chúng tạo nên cơ sở để đánh giá tính có ích về mặt xã hội cũng như của các thành viên. Do đó, chúng quyết định những nguyên tắc của việc cùng chung sống của cộng đồng hay xã hội. Nhưng giá trị không tùy thuộc vào sở thích của bất kỳ cá nhân nào, mà thỏa mãn những nhu cầu chung, được đại đa số người trong cộng đồng cùng chia sẻ. Không chỉ mang tính khách quan, giá trị mà còn bao hàm cả trong tâm lý, tình cảm của con người, người ta có thể phấn đấu, hi sinh cho những giá trị mà người ta cho là cao đẹp. Giá trị của một nền văn hóa có thể thay đổi, nhưng nhìn chung thì đó là một yếu tố tương đối ổn định và bền vững so với cuộc đời của một cá nhân nào đó.

Giá trị văn hóa là giá trị bản sắc kết quả sáng tạo tích lũy của một cộng đồng, dân tộc biểu hiện qua các chuẩn mực về đạo đức, tư tưởng, tình cảm …của tập thể, cộng đồng hay mỗi cá thể được cộng đồng lựa chọn tiếp nhận và khao khát hướng tới, thông qua sự trải nghiệm lịch sử. Đó không phải là thuật ngữ để mô tả, mà có hàm ý đánh giá. Người ta thường dựa trên một quan điểm văn hóa nhất định để đánh giá về những gì là đúng hay sai, đẹp hay xấu, thiện hay ác, do đó nên hay không nên làm. Nguyên tắc có tính bao quát đó có ảnh hưởng rất lớn đối với tiến trình của xã hội.

1.1.4. Khái niệm di sản văn hóa

Di sản văn hóa là bộ phận cơ bản và trọng yếu trong nền văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc. Di sản văn hóa chính là cơ sở, là nền tảng cho con người trong sự phát triển ngày một cao của xã hội. Từ đó, có thể hiểu: “Di sản văn hóa quy định tại Luật này bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.[15]

Di sản văn hóa vật thể: “Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia” [15]. Theo nghĩa đó, những cổ vật, những công trình kiến trúc hoặc còn ẩn trong lòng đất hoặc đang lưu giữ trong các bảo tàng, các công cụ, sản xuất, đồ dùng bằng sành sứ, những thành quách, chùa tháp, đình làng, phố cổ, lăng tẩm, cung điện… đều thuộc loại hình văn hóa này.

Di sản văn hóa phi vật thể: là toàn bộ những giá trị văn hóa vô hình, được hình thành thông qua đời sống tinh thần, được lưu truyền, biến đổi qua thời gian với quá trình tái tạo, kế thừa rộng rãi trong cộng đồng. Luật Di sản văn hóa xác định: “Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” [15]. Loại hình văn hóa phi vật thể này rất đa dạng, gồm: các thể loại văn học, chữ viết, các hình thức nghệ thuật, sân khấu, ngôn ngữ, triết lý, đạo đức, truyền thuyết, huyền thoại, lễ hội, nghi lễ, phong tục, tập quán, y học dân tộc, ẩm thực,… Sự đa dạng này tương ứng với sự đa dạng của các cộng đồng, dân tộc làm nên tính đa dạng, độc đáo của các nền văn hóa.

1.1.5. Khái niệm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

Văn hóa cũng luôn nằm trong tiến trình vận động, không ngừng phát triển và biến đổi, sự biến đổi và phát triển đó cũng tuân theo những quy luật nhất định. Lịch sử phát triển của loài người, của nhân loại luôn luôn diễn ra và phát triển từ thấp đến cao. Xét cho cùng, tất cả những điều đó là kết quả tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất từ thấp đến cao hơn, tiên tiến hơn để phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Với tư cách là sản phẩm, là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt của xã hội, văn hóa cũng có sự biến đổi nhất định. Song, mặt khác, văn hóa cũng mang tính độc lập tương đối mà biểu thị chủ yếu của nó là tính kế thừa.

Bảo tồn là khái niệm chỉ sự giữ lại, duy trì lại và truyền lại từ trong di sản truyền thống những yếu tố tích cực, hợp lý, những giá trị nhân bản… tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển cái mới, cái tiến bộ.

Phát huy giá trị văn hóa là hoạt động nhằm đưa các giá trị văn hóa truyền thống vốn có thâm nhập vào thực tiễn đời sống xã hội; tạo động lực thúc đẩy xã hội ngày một phát triển và đem lại những điều tốt đẹp về mặt tinh thần lẫn vật chất cho nhân loại. Phát huy các giá trị văn hóa còn bao hàm ý nghĩa tạo ra môi trường tốt nhất để những yếu tố mang tính truyền thống phát huy một cách hữu hiệu, tác dụng tích cực trong cuộc sống đương đại.

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một quá trình thống nhất biện chứng giữa lọc bỏ và kế thừa, giữa tiếp thu và phê phán, giữa việc lưu giữ và phát triển thêm nữa, giữa tu bổ và tôn tạo… các giá trị di sản văn hóa truyền thống để xây dựng và tiếp tục phát triển cái mới, cái tiến bộ. Vì vậy, công tác kế thừa, trùng tu, tôn tạo và ngày càng phát huy các di sản văn hóa của mỗi quốc gia và cả nhân loại luôn là nhu cầu tất yếu đặt ra cho mỗi người dân mà còn là nhiệm vụ của toàn nhân loại.

Đề cập vấn đề này, sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc “phát huy vốn quý báu” của dân tộc. Người đặc biệt nhấn mạnh đến công tác bảo tồn, tu bổ, đồng thời phát huy tốt các giá trị văn hóa sẵn có: “Khôi phục cái cũ thì nên chọn cái tốt, còn cái không tốt thì loại dần ra…”. Đối với Hồ Chủ tịch, khôi phục phải gắn liền với chọn lọc, đánh giá để giữ lại cái tốt, loại bỏ cái xấu hay những tập tục trái với thuần phong mỹ tục. Điều đó không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn cái cũ để xây dựng cái mới, mà bắt nguồn từ tất cả những gì tinh túy nhất của văn hóa cần được gìn giữ và phát huy.

Vì vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng để một quốc gia, dân tộc tồn tại vững bền ở mọi thời kỳ lịch sử, là điều tiên quyết để tạo dựng nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa.

1.1.6. Khái niệm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là một tổng thể hữu cơ các thực hành xã hội dựa trên những nguyên tắc chung đã được Đảng và Nhà nước cân nhắc, tính toán và là một hệ thống các biện pháp của Nhà nước tác động vào các hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hóa của dân tộc.

Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng, là tổng hòa nhiều quyết sách có nội dung tối ưu nhằm chắt lọc, đề xuất các công cụ, giải pháp để thực hiện tốt việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Việc thực hiện chính sách này được đặc biệt quan tâm từ các văn bản pháp luật đến văn kiện các kỳ Đại hội Đảng, được cụ thể qua việc hoạch định chiến lược phát triển văn hóa qua từng thời kỳ, đặc biệt là Luật Di sản văn hóa và các Thông tư, Nghị định hướng dẫn Luật di sản văn hóa được các cơ quan chuyên môn có thẩm quyền ban hành, cùng với các văn bản pháp quy khác. 

1.2. Tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Thứ nhất, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Một nền văn hóa của bất kỳ quốc gia nào bao giờ cũng gắn liền với đặc trưng của dân tộc, mang nét đặc thù để phân biệt, nhận diện mà không nhầm lẫn với một dân tộc nào khác, cái mà nhìn vào đó bất cứ ai cũng có thể biết đó là quốc gia, dân tộc đó. Đó chính là bản sắc văn hóa của một dân tộc. Bản sắc văn hóa dân tộc còn thì dân tộc còn, và ngược lại, nếu nó mất đi thì dân tộc sẽ lụi tàn hoặc diệt vong.

Trải qua không ít các cuộc chiến xâm lăng, sự tàn phá, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, đặc biệt là thời kỳ mở cửa và hội nhập với thế giới hôm nay đã nảy sinh nhiều bất cập, thậm chí cả những mâu thuẫn giữa yêu cầu bảo tồn và phát triển các di tích văn hóa của dân tộc gắn liền với sự phát triển kinh tế xã hội. Trong các tác nhân gây tổn hại cho di sản văn hóa, ngoài sự tác động của yếu tố thiên tai, địch họa thì con người, cách hành xử thiếu văn hóa của chính con người đối với di sản là thủ phạm chính. Bên cạnh đó, xu hướng hiện đại hóa trong cuộc sống hiện nay làm cho con người ta bỏ quên những yếu tố truyền thống. Lối sống thực dụng, sự vị kỉ đã dẫn đến không ít hành động đáng phê phán đối với di sản.

Ngoài ra, quá trình toàn cầu hóa cũng đem đến những tác hại không nhỏ trong việc giữ gìn và phát huy di sản văn hóa. Tình trạng đánh cáp cổ vật tuồng ra nước ngoài khá phổ biến và khó bề ngăn chặn. Cuộc đấu tranh giữa “hòa nhập” với “hòa tan”, “đổi mới” với “đổi màu” đang là cuộc đấu tranh không khoan nhượng trên mọi mặt trận mà trong đó, văn hóa chính là vấn đề đầu tiên quyết định sự thành bại trong công cuộc hội nhập.

Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các di sản văn hóa giữ vai trò là tài nguyên vô giá, Tuy nhiên, bảo tồn di sản không hề đồng nghĩa với việc đóng khung trong di sản. Chủ trương kế thừa, gìn giữ những truyền thống ngàn đời về lòng nhân ái, bao dung, trọng đạo lý, thương người như thể thương thân và kế thừa không chỉ nội dung mà còn cả hình thức trong tất cả các loại hình nghệ thuật: văn thơ, nhạc họa, kiến trúc, mỹ thuật, tuồng chèo,… đến các loại hình dân dã: bài chòi, các làn điệu dân ca, các bài đồng dao cho trẻ em,…

Thứ hai, góp phần xây dựng đất nước

Sắc lệnh số 65-SL ngày 23/11/1945 đã khẳng định “Việc bảo tồn cổ tích là việc rất cần thiết cho công cuộc kiến thiết nước Việt Nam”. Nội dung cơ bản của Sắc lệnh thể hiện tầm nhìn chiến lược và những định hướng cơ bản của Hồ Chí Minh. Cũng đề cập về nội dung này, Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội… Tiếp tục đầu tư cho việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc, các giá trị văn hóa, nghệ thuật, ngôn ngữ, thuần phong mỹ tục của cộng đồng các dân tộc. Bảo tồn và phát huy văn hóa, văn nghệ dân gian. Kết hợp hài hòa việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa với các hoạt động phát triển kinh tế, du lịch”. [2]

Thứ ba, tạo tiền đề cơ bản cho quá trình giao lưu, hợp tác văn hóa

Văn hóa dân tộc là một dòng chảy liên tục phát triển qua các giai đoạn lịch sử và trong sự giao thoa với các nước về nhiều mặt, là sự trao đổi trong quá trình thâm nhập vào nhau, tác động lẫn nhau của những dòng tư tưởng, sự hợp tác và phát triển giữa quốc gia này với quốc gia khác. Chúng ta giao lưu với các nền văn hóa làm cho cái hữu ích, cái đúng, cái tốt, cái đẹp hòa quyện vào nhau, tác động lẫn nhau, làm cho các dân tộc xích lại gần nhau, là cơ sở, tiền đề để các dân tộc và nhân dân thế giới cùng phấn đấu hướng tới mục tiêu cuối cùng là độc lập, tự do, công bằng, bác ái, bình đẳng và dân chủ.

Trong giao lưu văn hóa, không chỉ giao lưu giới thiệu di sản trong nước mà cần phải tiếp nhận một cách có chọn lọc bản sắc văn hóa của dân tộc khác và mở rộng giao lưu quốc tế. Trong quá trình giao lưu hội nhập lại còn phải tính đến sự lợi dụng hợp tác quốc tế để tấn công vào nền tảng tinh thần của dân tộc vào nền văn hóa đậm đà bản sắc của dân tộc ta. Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa sẽ tạo nền tảng vững chắc, tiền đề cơ bản cho sự giao lưu, hợp tác của Việt Nam hiện nay.

1.3. Các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa

Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Để chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đi vào cuộc sống, trước hết nhà hoạch định chính sách ở các cấp cần phải xây dựng kế hoạch triển khai và chương trình cụ thể để thực hiện các nội dung kế hoạch đã đề ra đảm bảo chính sách đem lại kết quả tốt nhất. Một số nội dung của kế hoạch thực hiện chính sách đó là:

– Kế hoạch về tổ chức, điều hành;

– Kế hoạch về cung cấp các nguồn vật lực;

– Kế hoạch về thời gian triển khai thực hiện;

– Kế hoạch về kiểm tra, đôn đốc, thực thi chính sách.

Kế hoạch được xây dựng cần nêu được mục đích, yêu cầu của việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản; quy định về thời gian hoàn thành kế hoạch có thể theo từng giai đoạn thực hiện cho từng hạng mục cụ thể; những nguyên tắc, nội quy cũng như những quy định, chế tài cụ thể đối với từng tổ chức, cá nhân, đơn vị tham gia thực hiện việc điều hành chính sách. Bên cạnh đó, cũng cần đưa ra những quy chế về thi đua, khen thưởng kịp thời nhằm động viên, khích lệ các đối tượng làm tốt công tác này. Ngược lại, phê bình, nhắc nhở các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chưa hoặc chậm hoàn thành nhiệm vụ, không đảm bảo tiến độ như kế hoạch đề ra gây ảnh hưởng chung đến việc thực hiện chính sách. Kế hoạch được xây dựng và thực hiện ở cấp nào thì do cấp đó thông qua và ban hành chính thức đảm bảo tính pháp lý và tiến hành triển khai thực hiện đối với những bộ phận đơn vị, liên quan.

Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Một trong những yếu tố có tầm quan trọng, quyết định sự thành bại của chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hóa là công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung chính sách đến các tổ chức, đơn vị, các cán bộ trực tiếp làm công tác bảo tồn di sản, đặc biệt là đến mỗi người dân. Làm thế nào để họ hiểu được, thấy được tầm quan trọng và sự cần thiết của việc bảo tồn, phát huy di sản. Qua đó, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của mình, ý thức tự giác, trách nhiệm, nghĩa vụ của mỗi người trong việc góp phần bảo tồn, gìn giữ và ngày càng phát huy hơn nữa các giá trị văn hóa. Từ đó, đề ra được nhiều ý kiến hay, cách làm mới, giải pháp phù hợp trong việc thực hiện các mục tiêu mà chính sách đề ra, đem lại những kết quả thiết thực.

Bước 3: Phân công, phối hợp thực hiện chính sách chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Để việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản đạt được những kết quả nhất định, nhất thiết cần phải có sự phân công phân nhiệm cụ thể đối với các tổ chức, đơn vị, bộ phận của các cơ quan chức năng liên quan và chính quyền địa phương nơi có di sản. Đồng thời, có sự phối kết hợp mật thiết, chặt chẽ với nhau trong thời gian chính sách được triển khai thực hiện. Đây là một yếu tố tác động khá lớn đến mục tiêu mà chính sách mong muốn đạt đến cũng như kết quả cuối cùng mà chính sách đem lại. Theo đó, có thể phân công cơ quan tham mưu chính ở cấp Trung ương là Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch, ở các Tỉnh, Thành là Sở Văn hóa, thể thao và du và Phòng Văn hóa, thông tin, truyền thông đối với cấp Huyện, Thị; cơ quan chủ trì thực hiện là chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở và nhiều cơ quan khác phối hợp với nhau, như: tài chính, giáo dục,… Trong quá trình thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa không thể tránh khỏi động chạm đến quyền lợi của một số người dân, bởi liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau nên cần phải có sự phối hợp, phân công nhiệm vụ một cách linh hoạt, nhạy bén và thực hiện chủ động, sáng tạo, phù hợp với mọi tình huống để chính sách được duy trì ổn định, đem lại kết quả nhất định trong công tác quản lý, điều hành.

Bước 4: Duy trì chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Muốn chính sách bảo tồn, phát huy giá trị di sản được tồn tại và đi vào thực tế cuộc sống thì cần phải duy trì việc thực hiện chính sách một cách đều đặn, thường xuyên bằng nhiều hoạt động cụ thể, thiết thực như: đổi mới cách tuyên truyền bằng nhiều hình thức khác nhau theo hướng gần gũi, dễ cảm nhận, dễ đi vào lòng người, từ đó khích thích du khách tìm đến với di sản; trùng tu, tôn tạo các di tích có thể theo từng hạng mục vừa chống xuống cấp vừa đem lại cảnh quang thoáng đãng, sạch đẹp nhưng không mất đi vẻ uy nghi, cổ kính sẵn có; duy trì, phát huy các hoạt động lễ hội gắn với di tích và tạo ra các sản phẩm du lịch; xây dựng môi trường, cảnh quang xung quanh di tích và hình ảnh con người văn hóa,… Trong quá trình duy trì chính sách chắc chắn sẽ gặp phải những thuận lợi và khó khăn, tùy vào từng tình huống các cấp chính quyền sẽ tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được; đồng thời, sẽ sử dụng những quyền hành, công cụ pháp lý vốn có để có thể tạo môi trường thuận lợi để chính sách được tiếp tục thực hiện có hiệu quả.

Bước 5: Điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Từ thực tế quá trình thực hiện và duy trì chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản sẽ có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Từ đó, nhà hoạch định chính sách căn cứ từng trường hợp cụ thể sẽ có những bước điều chỉnh sao cho phù hợp, hài hòa với yêu cầu quản lý, tình hình thực tế và quá trình vận động đi lên của đời sống xã hội. Có một nguyên tắc đặt ra là, cơ quan nào ban hành chính sách thì cơ quan đó mới đủ thẩm quyền sửa đổi chính sách, nhưng thực tế cho thấy công việc này được thực hiện khá thoáng, có nghĩa là: các cơ quan, đơn vị chủ quản trong quá trình theo dõi chính sách được thực thi nếu phát hiện những điểm cần phải thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp thì có thể tự động điều chỉnh đảm bảo đem lại hiệu quả nhưng không làm sai lệch mục tiêu cố hữu của nó là bảo tồn, phát huy giá trị di sản.

Tuy nhiên, cũng cần phải nói nguyên tắc nhất quán của chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản là chỉ được điều chỉnh, thay đổi cơ chế, chính sách hoặc kiện toàn, củng cố, bổ sung những biện pháp thực sự hiệu quả để đảm bảo chính sách vẫn còn nguyên vẹn mục tiêu của nó. Ngược lại, nếu tất cả những điều chỉnh đó làm thay đổi mục tiêu của chính sách thì có khả năng chính sách đó không còn giá trị hiện hữu.

Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Một chính sách nói chung hay chính sách bảo tồn và phát huy di sản nói riêng trong quá trình thực hiện không thể bỏ qua công tác theo dõi, đôn đốc, kiểm tra công tác thực hiện chính sách. Bởi, chính sách được ban hành theo cách nhìn nhận chung, bao quát của các cấp có thẩm quyền; bởi, thấy được sự cần thiết phải ban hành chính sách để công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản được quan tâm thực hiện và hơn hết là giữ lại sự vẹn nguyên của di sản như một nét văn hóa của dân tộc nhằm giáo dục cho thế hệ mai sau truyền thống yêu nước. Tuy nhiên, có một thực tế là điều kiện về tự nhiên, vị trí địa lý, môi trường, nền văn hóa, điều kiện về chính trị, kinh tế, hay như tập quán, thói quen của con người ở mỗi vùng không giống nhau, năng lực của cán bộ làm công tác chuyên môn về bảo tồn, bảo tàng không đồng đều nên việc theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách là thực sự cần thiết. Qua theo dõi, kiểm tra có thể nắm bắt được việc thực hiện chính sách có đảm bảo các nội dung như kế hoạch đề ra hay không? tiến độ thực hiện chính sách đến đâu? có những khó khăn, vướng mắc gì trong quá trình thực hiện?… hay ít nhất có thể phát hiện ra những lỗ hổng trong quản lý, điều hành việc thực hiện chính sách để từ đó có thể đôn đốc các bộ phận liên quan tiếp tục thực hiện đảm bảo hơn hoặc có những giải pháp phù hợp để chính sách bảo tồn, phát huy di sản đem lại kết quả như mong muốn. Từ đó, vừa có thể từng bước hoàn thiện chính sách, vừa có thể kịp thời điều chỉnh sao cho phù hợp công tác thực thi chính sách của đội ngũ cán bộ làm công tác này nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên lĩnh vực bảo tồn di sản,

Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.

Đây là khâu cuối cùng trong quy trình thực hiện chính sách nhằm đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong suốt quá trình thực thi chính sách bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Từ đó, có thể rút ra kết luận chung nhất, một sự nhìn nhận cụ thể nhất về kết quả trên tất cả các mặt, như: công tác lãnh, chỉ đạo, điều hành của các cấp lãnh đạo; tổng kết kinh phí để thực hiện chính sách; công tác phối, kết hợp giữa các đơn vị liên quan; việc chấp hành và thực hiện chính sách của các tổ chức, cá nhân mà đặc biệt là sự đồng thuận của người dân; những mục tiêu, mục đích cuối cùng mà chính sách mang lại,… Bên cạnh đó, cũng cần đánh giá những ưu, khuyết điểm, những thành quả đạt được hay những hạn chế, thiếu sót cần được khắc phục và tiếp tục phát huy. Từ đó, đưa ra những kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản ở từng địa phương cụ thể. Đồng thời, kịp thời biểu dương, động viên và có cơ chế khen thưởng đối với các cá nhân, đơn vị thực hiện tốt chính sách.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 2/ TRAN QUYNH MAI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *