Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác tin báo về tội phạm

Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác tin báo về tội phạm

Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, bộ máy Nhà nước đang trong quá trình cải cách nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, các cơ quan tư pháp nói riêng. Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật, trong đó có vấn đề THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong pháp luật tố tụng hình sự là một trong những nhiệm vụ cấp thiết.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND 2014, VKSND là cơ quan thuộc hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKS nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ công lý, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này được ghi nhận cụ thể tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “VKS nhân dân THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp”, Điều 2 Luật tổ chức VKS nhân dân 2014 quy định: “VKS nhân dân là cơ quan THQCT, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy, theo đó VKSND vẫn giữ chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án phải đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm. Với tư cách là cơ quan THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp, một trong những chức năng quan trọng của VKSND là THQCT trong giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây là hoạt động đầu tiên của quá trình giải quyết vụ án hình sự nhằm kịp thời phát hiện hành vi phạm tội, các cơ quan tố tụng có trách nhiệm sẽ dựa trên cơ sở đó để xác định việc có dấu hiệu tội phạm hay không nhằm quyết định việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự.

Trong những năm vừa qua, trên cơ sở quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ của VKSND, công tác THQCT và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của ngành Kiểm sát cả nước nói chung và ngành Kiểm sát ở tỉnh Quảng Nam nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định như đã hạn chế tình trạng truy tố oan sai, đã phát hiện, khởi tố, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội và tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy công tác thực hành quyền công tố ở tỉnh Quảng Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập như: vẫn còn một số vụ án truy tố oan, sai gây bức xúc trong nhân dân, tình trạng bỏ lọt tội phạm, còn để xảy ra án trả hồ sơ điều tra bổ sung có liên quan đến trách nhiệm Viện kiểm sát;… Trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, các loại tội phạm mới xuất hiện đặt ra yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

Để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong giai đoạn tiếp theo thì việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về công tác THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là hết sức cần thiết. Với những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ Luật học là “Thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cũng như việc áp dụng trong thực tiễn tại VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam. Qua đó, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn, góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được các mục đích nghiên cứu, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, cụ thể:

– Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm, thẩm quyền, căn cứ pháp luật giải quyết về tố giác, tin báo về tội phạm; nội dung hoạt động THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm; các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

– Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trên cơ sở đó đánh giá thực tiễn thực hiện vấn đề THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm của VKS nhân dân tại tỉnh Quảng Nam, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân cơ bản của tồn tại, hạn chế đó.

– Đề xuất những định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt này trong thực tiễn công tác của VKSND.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn THQCT trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của VKSND trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4.2.Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh chức năng THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKS nhân dân, các quy định của BLTTHS và những văn bản hướng dẫn khác có liên quan, kết hợp với việc nghiên cứu đánh giá thực tiễn thực hiện công tác trên của VKSND tại tỉnh Quảng Nam. Thông qua đó, chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế để kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả thực hiện trong thực tiễn.

Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm trong 04 năm (01/12/2014 – 01/12/2018) trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5. 1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn có sự kế thừa những kết quả nghiên cứu liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm của các công trình nghiên cứu trước.

Tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong luận văn như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử cụ thể, thống kê số liệu, hệ thống.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Giải quyết về mặt lý luận tổng thể, toàn diện nội dung thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay, cũng như đưa ra các kiến nghị hoàn thiện các quy phạm có liên quan đến hoạt động thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học, cũng như góp phần phục vụ hoạt động lập pháp, hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết án hình sự.

Kết cấu của luận văn

Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân.

Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Các giải pháp tăng cường thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIÊN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Những vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân

1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của viện kiểm sát nhân dân

1.1.1.1. Khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Pháp luật quy định tố giác và tin báo về tội phạm là những cơ sở để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Đây chính là một trong những nguồn thông tin quan trọng góp phần giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện dấu hiệu của tội phạm, trên cơ sở đó kịp thời tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh để có căn cứ tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra các vụ án hình sự. Trong mỗi thời kỳ khác nhau và trong mỗi giai đoạn khác nhau, tội phạm trong xã hội luôn có sự biến đổi cả về nội dung lẫn hình thức và mỗi quốc gia khác nhau thì cũng có những quan niệm khác nhau về tội phạm. Tại Việt Nam, khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 trong đó xác định“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện…”.

Để có căn cứ xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có được coi là tội phạm hay không phải dựa trên kết quả xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm.

BLTTHS năm 2003 quy định: ” Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của công dân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ chức; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;…” [14].

Bên cạnh đó là sự ra đời của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN& PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013. Theo đó, tố giác tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Kiến nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị CQĐT xem xét khởi tố vụ án hình sự [1].

Tuy nhiên, việc đưa ra khái niệm về tố giác, tin báo về tội phạm như quy định tại Thông tư liên tịch 06/2013 phần nào đó vẫn chưa đảm bảo tính chính xác, chưa phản ánh được bản chất của tố giác, tin báo về tội phạm. Vì nếu theo cách giải thích từ ngữ tại Thông tư này thì tất cả các thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp thì đều được coi là tố giác về tội phạm, chứ không coi là tin báo về tội phạm và cá nhân cũng có thẩm quyền tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm.

Nhận thức được vấn đề trên, BLTTHS năm 2015 đã kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003 và Thông tư liên tịch số 06, quy định rõ các khái niệm:

Nguồn tin về tội phạm gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân, lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện;

Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền;

Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng;

Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đề nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho CQĐT, VKS có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm [15].

Từ những quy định cụ thể vừa nêu có thể thấy, về bản chất tố giác, tin báo về tội phạm đều là những thông tin chứa đựng những dấu hiệu tội phạm mà các cơ quan tiến hành tố tụng có được thông tin.

Qua những phân tích trên có thể hiểu:

Tố giác về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu về các tội phạm được quy định trong Bộ Luật hình sự, do công dân có tên, tuổi, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan hoặc cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.

Tố cáo về hành vi vi phạm pháp luật hình sự với các cơ quan, tổ chức đó là quyền và nghĩa vụ của công dân. Công dân có quyền tố cáo về tội phạm với mọi cơ quan, tổ chức và sự tố cáo của công dân về tội phạm đều được coi là tố giác. Tố giác tội phạm có thể thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau như: thông qua điện thoại, văn bản hoặc có thể tố cáo trực tiếp bằng miệng … Trường hợp người bị hại trình báo và yêu cầu khởi tố thì bản chất của sự việc cũng là sự tố giác về tội phạm, chính vì thế điều luật không quy định riêng một khoản độc lập.

  • Tin báo về tội phạm là toàn bộ thông tin về những hành vi chứa đựng dấu hiệu về các tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự trên các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài nước hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết.

Tố giác tội phạm là hành vi của công dân là đối với một cơ quan, tổ chức bất kỳ nào đó. Tin báo là sự phản ánh mối liên hệ giữa một bên truyền tin đi với một cơ quan có quyền khởi tố vụ án hình sự. Trong đó, tin báo tội phạm có thể là sự chuyển tiếp những thông tin mà cơ quan, tổ chức đã nhận được từ tố giác tội phạm của công dân. Cũng có thể là những thông tin thu được từ hoạt động nghiệp vụ của ngay chính tổ chức đó (ví dụ, qua thanh tra, kiểm tra) hoặc được phản ánh bằng chính hoạt động truyền thông theo chức năng nghề nghiệp (các cơ quan thông tin đại chúng). Căn cứ vào Điều 144 của BLTTHS năm 2015 thì tin báo tội phạm có thể được phân thành hai loại: Tin báo tội phạm có thể là tin do cơ quan, tổ chức gửi đến cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự (khoản 2) trực tiếp phản ánh về tội phạm; tin báo có thể được chính thức thông báo hoặc phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng mà các cơ quan chuyên trách đấu tranh với tội phạm có thẩm quyền phải xem xét, nghiên cứu để rút ra những kết luận (Khoản 3).

Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, VKS có thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm.

Kiến nghị khởi tố chính là việc các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, kinh tế thông qua công tác kiểm tra, thanh tra và khi thực hiện các nhiệm vụ, công tác khác phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, người có hành vi phạm tội và có văn bản, kèm theo tài liệu liên quan, kiến nghị đến cơ quan có thẩm quyền để xem xét, khởi tố vụ án hình sự, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội để điều tra, xử lý.

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm công tác thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân

VKSND có chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Chức năng của VKSND được thể hiện tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “ Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” và Điều 2 Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”[20].

Xác định khái niệm quyền công tố và theo đó là THQCT sẽ làm rõ hơn vai trò, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong các cơ quan tư pháp; xác định rõ chức năng của VKS, nhất là trong TTHS. Vấn đề khái niệm quyền công tố và THQCT đã được đề cập nhiều trong khoa học pháp lí nước ta với các mức độ khác nhau và nó vẫn đang là vấn đề với nhiều ý kiến khác nhau.

Có quan điểm cho rằng: Quyền công tố là quyền của VKS thay mặt nhà nước bảo vệ lợi ích công (nhà nước, xã hội và công dân) khi có các vi phạm pháp luật. Vì vậy, VKS THQCT không chỉ trong TTHS mà cả trong lĩnh vực tố tụng khác như dân sự, kinh tế và các hoạt động tư pháp khác [5].

Có quan điểm khác cho rằng: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho các cơ quan nhất định khởi tố, điều tra và truy tố người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và thực hiện việc buộc tội trước phiên tòa [23].

Có quan điểm khác lại cho rằng: Công tố không phải là chức năng độc lập của VKS mà chỉ là hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS.

Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau nhưng chúng đều ít nhiều có sự hợp lý, bởi các quan điểm này đều dựa trên quy định của pháp luật và thực tiễn.

Từ những phân tích trên, khái niệm quyền công tố được hiểu như sau: Quyền công tố là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự thuộc về Nhà nước, cơ quan được nhà nước giao cho quyền này (ở nước ta là VKSND) thực hiện các hoạt động nhằm phát hiện, điều tra tội phạm, truy tố người phạm tội trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.

Như vậy, THQCT thực chất là hoạt động đưa những quy định của pháp luật về quyền công tố thuộc chức năng của VKS vào thực tế nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Tuy còn nhiều quan điểm khác nhau về THQCT, nhưng qua nghiên cứu tổng hợp các quan điểm khoa học về THQCT, cũng như thực tiễn quy định của pháp luật về THQCT, chúng tôi đưa ra khái niệm về THQCT như sau:

“Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý mà pháp luật quy định để đưa người (và pháp nhân thương mại) phạm tội ra truy tố và buộc tội trước Tòa án”.

Nội dung THQCT được BLTTHS năm 2015 quy định kể từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền công dân, quyền con người. Thời điểm này là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Bản chất việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, nhất là việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc phê chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chính là việc bắt và tạm giữ hình sự. Việc pháp luật quy định VKS tham gia vào quá trình này chính là sự khẳng định chức năng THQCT của VKS trong việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm. Xuất phát từ khái niệm THQCT đã được phân tích ở trên, tác giả đưa ra khái niệm THQCT trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm như sau:

“Thực hành quyền công tố trong việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự”.

Đặc điểm của công tác THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được thể hiện thông qua các hoạt động cụ thể:

– Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

– Hủy bỏ quyết định tạm giữ, các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;

– Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thực hiện;

– Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKSND đã yêu cầu nhưng không được khắc phục;

– Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác để THQCT theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội;

1.1.1.3. Ý nghĩa của thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân

VKS có hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc VKS thực hiện đồng thời hai chức năng THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình là mang tính khách quan, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật

Để mọi hành vi phạm tội được phát hiện xử lý xử lý đúng quy định pháp luật, không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội thì việc xác định căn cứ cho việc khởi tố vụ án hình sự rất là quan trọng nhằm mở đầu cho những giai đoạn tố tụng tiếp theo. Tuy nhiên, để có được những căn cứ khởi tố vụ án cần phải có những thông tin ban đầu được tiếp nhận, xác minh theo những trình tự thủ tục nhất định được pháp luật quy định.

  • Pháp luật tố tụng hình sự quy định cho các cơ quan tiến hành tố tụng được phép tiến hành kiểm tra xác minh nguồn tin, thu thập tài liệu chứng cứ và được ra một số quyết định tố tụng trước khi khởi tố vụ án hình sự. Để có cơ sở tiến hành các biện pháp nói trên thì trách nhiệm của VKS trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có ý nghĩa rất quan trọng. Quy định chức năng THQCT của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố góp phần đảm bảo các quyết định tố tụng, hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm đúng theo quy định của pháp luật, các chứng cứ, tài liệu được thu thập theo một trình tự thủ tục khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác tạo tiền đề vững chắc cho quá trình điều tra vụ án; những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố sẽ được phát hiện kịp thời, khắc phục và xử lý nghiêm minh.

1.1.2. Nội dung của thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân

1.1.2.1. Chủ thể có quyền thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Bộ luật TTHS 2015 quy định chủ thể có quyền thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố bao gồm: Cơ quan điều tra, VKS tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; cơ quan tổ chức khác tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm. Mọi tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời; cơ quan tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận không được từ chối tiếp nhận tố giác tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố[15].

Bộ luật TTHS cũng quy định cụ thể thủ tục tiếp nhận theo từng nhóm chủ thể.

  • Thủ tục tiếp nhận của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận (có thể ghi âm, ghi hình việc tiếp nhận); nếu tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố được gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận. Sau đó, VKS cần chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận.
  • Thủ tục tiếp nhận của Công an phường, thị trấn, đồn Công an, Công an xã: Công an phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Công an xã có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
  • Đối với cá nhân, tổ chức khác: sau khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm thì chuyển ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trường hợp khẩn cấp thì có thể báo tin trực tiếp qua điện thoại hoặc hình thức khác cho Cơ quan điều tra nhưng sau đó phải thể hiện bằng văn bản.

1.1.2.2. Đối tượng và phạm vi của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một trong những nội dung cụ thể của THQCT trong tố tụng hình sự nên đối tượng của THQCT trong giai đoạn này cũng chính là đối tượng của THQCT trong tố tụng hình sự.Với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm mục đích truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, truy tố họ ra trước Tòa án để xét xử, đối tượng của hoạt động THQCT là tội phạm và người phạm tội.

Phạm vi của hoạt động THQCT:

Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và BLTTHS năm 2015 đã quy định KSV là người đại diện cho VKS THQCT, vì vậy, ngay từ trong giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố KSV đã bắt đầu thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Các giai đoạn của THQCT cũng đã được phân định một cách rõ ràng trong các văn bản luật thực định của nước ta, từ THQCT trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến nghị khởi tố; THQCT trong giai đoạn điều tra; THQCT trong giai đoạn truy tố; THQCT trong giai đoạn xét xử. Như vậy, THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một phần của hoạt động THQCT trong tố tụng hình sự nói chung.

Theo Điều 2 Quy chế THQCT & KSĐT xác định:

THQCT thì thời điểm phát sinh hoạt động THQCT phải là thời điểm được sử dụng các quyền năng pháp lý công khai để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, tức là sau khi tội phạm đã được phát hiện (xác định có dấu hiệu của tội phạm) và có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thời điểm kết thúc hoạt động THQCT có sự trùng khớp với thời điểm kết thúc quyền công tố, đó là khi vụ án hình sự bị đình chỉ hoặc khi có bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật và không bị kháng nghị.

Theo đó, THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố bắt đầu từ khi tội phạm bị phát hiện và cơ quan có thẩm quyền nhận được tin báo, tố giác tội phạm và quá trình này sẽ kết thúc khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết tin báo, tố giác tội phạm.

1.1.2.3. Nội dung và trình tự thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

– Nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.

Tại Điều 159, Điều 160 BLTTHS năm 2015 đã quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của Cơ quan điều tra, Viện trưởng VKS trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, phân công KSV, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản cho Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Đối với tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đã rõ về dấu hiệu của tội phạm mà Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự thì Viện trưởng VKS trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra, phân công KSV, Kiểm tra viên hoặc ra Quyết định phân công Phó Viện trưởng tổ chức, chỉ đạo hoạt động THQCT và kiểm sát việc khởi tố, điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 BLTTHS năm 2015, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, VKS, Toà án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức khác. Điều này có nghĩa là bất kể là cơ quan, tổ chức nào khi công dân tố giác tội phạm đều có trách nhiệm tiếp nhận. Quy định này đã tạo điều kiện cho cơ chế thông tin về tội phạm được nhanh chóng, nhân dân có thể tham gia rộng rãi và thuận tiện vào cuộc đấu tranh với tội phạm, đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc đấu tranh với tội phạm, bảo vệ trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

1.2.1. Khái quát về lịch sử quy định của pháp luật Việt Nam về công tác thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Các quy định của pháp luật về hoạt động THQCT ngày càng được hoàn thiện qua các thời kỳ lịch sử, việc tuân thủ pháp chế và bảo vệ quyền của con người, quyền của công dân trong TTHS ngày càng được tôn trọng và nghiêm ngặt hơn. Vấn đề này được thể hiện rõ ở quy định của pháp luật qua các thời kỳ.

Trải qua các thời kỳ phát triển, ở nước ta có cả hai mô hình là Viện công tố và VKS. Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời (02/9/1945), ngày 13/9/1945 Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ban hành một loạt các sắc lệnh để thiết lập ngay các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Công tố nhằm đấu tranh một cách kịp thời và có hiệu quả với các hành vi phạm tội, bảo đảm cho việc củng cố chính quyền cách mạng và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo các Sắc lệnh, cơ quan Công tố nằm trong cơ cấu tổ chức của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý và có thẩm quyền THQCT (là người buộc tội nhân danh Nhà nước). Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950, đánh dấu sự thay đổi lớn tổ chức các cơ quan tư pháp nói chung, các cơ quan Công tố nói riêng, bằng việc quy định: “Công tố viên có quyền kháng cáo về việc hộ cũng như về việc hình”, đánh dấu sự mở rộng thẩm quyền kiểm sát của các cơ quan Công tố ở nước ta đối với hoạt động xét xử.

Sau ngày hoà bình lập lại, tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá I (từ ngày 16/4/1958 đến ngày 29/4/1958), Quốc hội quyết định lập Toà án tối cao và hệ thống Toà án và hệ thống Công tố, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp, trực thuộc Hội đồng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký ban hành Nghị định số 256/TTg ngày 01/7/1959, Nghị định số 321/TTg ngày 02/7/1959 xác định tương đối cụ thể và rõ ràng vị trí, vai trò, chức năng, thẩm quyền của Viện công tố trong bộ máy Nhà nước ta. Chức năng, thẩm quyền của cơ quan Công tố không chỉ giới hạn ở THQCT, không chỉ điều khiển, giám sát hoạt động điều tra mà còn trực tiếp tiến hành điều tra và thực hiện cả sự giám sát đối với các hoạt động tư pháp và tham gia hoạt động tố tụng dân sự, có quyền kháng cáo cả bản án hình sự và bản án dân sự.

BLTTHS đầu tiên của nước ta, cũng ghi nhận vai trò THQCT của VKS. Như vậy, sự ra đời của VKS ở nước ta gắn liền với yêu cầu của nhiệm vụ bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã thu hẹp phạm vi hoạt động của VKS, VKS thôi không thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội, tập trung thực hiện chức năng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp; thay vì có trách nhiệm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất thì chỉ có trách nhiệm góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi này nhằm đảm bảo VKS tập trung vào nhiệm vụ chính của mình là thực hiện chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. BLTTHS năm 2003 ra đời đã thể hiện được những quan điểm mới về cải cách tư pháp hình sự. Để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt người phạm tội Bộ luật quy định VKS THQCT trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án…. Như vậy, để đáp ứng yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương xã hội pháp luật về THQCT luôn phát triển và dần hoàn thiện qua các thời kỳ lịch sử.

1.2.2. Quy định của pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

1.2.2.1. Chủ thể của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Một trong những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án hình sự là phải quy định rõ thẩm quyền giải quyết của các cơ quan và đề cao trách nhiệm, tính chủ động của VKS trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Trên cơ sở đó, Bộ luật TTHS 2015 quy định thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gắn với thẩm quyền điều tra. Cụ thể là, Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của mình, nhằm bảo đảm nguyên tắc ‘phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực”. Bộ luật quy định VKS chủ yếu thực hiện trách nhiệm THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp; tuy nhiên khi có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, Điểm c, Khoản 2, Điều 145 Bộ luật TTHS quy định VKS phải trực tiếp xác minh, tố giác tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong 02 trường hợp đó là: (1) Trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2)Trường hợp phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.

Đồng thời, nhằm tạo thuận lợi cho việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Bộ luật hình sự 2015 quy định các biện pháp xác minh tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố gồm: a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin; b) Khám nghiệm hiện trường;c) Khám nghiệm tử thi; d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản. Mặt khác, Bộ luật TTHS 2015 cho phép triệu tập người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố để thu thập thông tin và quy định việc dẫn giải họ chỉ được thực hiện khi qua kiểm tra xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan[15].

1.2.2.2. Đối tượng của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

THQCT trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là một trong những nội dung cụ thể của THQCT trong tố tụng hình sự nên đối tượng của THQCT trong giai đoạn này chính là tội phạm và người phạm tội.

Trong BLHS Việt Nam, khái niệm tội phạm được định nghĩa tại Điều 8 như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [12].

Người phạm tội là người có đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm và đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm.

Theo đó, các hoạt động được BLTTHS quy định trong giai đoạn đầu tiên giải quyết nguồn tin về tội phạm, được KSV có nhiệm vụ tiến hành nhằm xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, với yêu cầu của pháp luật giao cho VKSND quản lý và xử lý tin báo tội phạm, BLTTHS năm 2015 đã xác lập nội dung THQCT kể từ khi tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố, xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp hạn chế quyền công dân, quyền con người. Thời điểm này chưa khởi tố vụ án, khởi tố bị can, mới là ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm. Vì bản chất việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, nhất là việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp và việc phê chuẩn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp chính là việc bắt và tạm giữ hình sự. Việc VKS tham gia sớm vào giai đoạn này chính là sự khẳng định chức năng THQCT của VKS trong việc phân loại, xử lý nguồn tin về tội phạm, đảm bảo được án oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm.

1.2.2.3. Nội dung, trình tự, thủ tục, thời hạn của hoạt động thực hành quyền công tố trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Thứ nhất, Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, các lệnh khám xét của cơ quan điều tra, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

VKS nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân như khám người, khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm; thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện, kê biên của CQĐT khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các Quyết định, các Lệnh này như sau:

Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp Về cơ bản, BLTTHS năm 2015 vẫn ghi nhận tinh thần của BLTTHS năm 2003 về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục bắt khẩn cấp, hồ sơ đề nghị phê chuẩn và nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi phê chuẩn, không phê chuẩn việc giữ, bắt người trong trường hợp khẩn cấp. Bên cạnh việc quy định bổ sung thêm căn cứ (1-người cùng thực hiện tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; 2-có dấu vết của tội phạm ở nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ), bổ sung thêm người có thẩm quyền ra lệnh (tại Điểm b khoản 2 Điều 110), đổi mới lớn nhất chính là việc BLTTHS năm 2015 đã chia tách rõ hoạt động giữ và bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

Theo đó, hoạt động tố tụng “bắt khẩn cấp” như quy định của BLTTHS 2003 đã được đổi thành “giữ” người trong trường hợp khẩn cấp. Khi đã có đủ căn cứ, để ngăn chặn một người chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hay ngăn chặn việc một người phạm tội bỏ trốn hoặc tẩu tán, tiêu hủy chứng cứ, người có thẩm quyền có thể “giữ” đối tượng này. Đây chính là bước đệm quan trọng, nhằm hợp lý hóa việc thực tế giữ người có dấu hiệu vi phạm (đặc biệt trong trường hợp sau khi ra lệnh mà đối tượng đã trốn) để trong thời gian giữ, các cơ quan tiến hành tố tụng củng cố chứng cứ và ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho họ nếu không còn đủ cơ sở. Lệnh bắt người khẩn cấp trong trường hợp này (nếu có) là hoàn toàn kịp thời, đúng tính chất, mục đích đề ra.

Phê chuẩn, không phê chuẩn các lệnh khám xét của cơ quan điều tra.

Khám xét là biện pháp điều tra có tính cưỡng chế và tác động trực tiếp tới các quyền cơ bản hiến định của công dân.

Tại khoản 1, điều l93, BLTTHS năm 2015 quy định về thẩm quyền ra lệnh khám xét. Về kĩ thuật lập pháp, điều luật dẫn chiếu đến khoản 1, điều 113 (quy định về thẩm quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam) và khoản 2, điều 35 BLTTHS năm 2015 (quy định về người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra). Theo đó, những người có thẩm quyền ra lệnh khám xét gồm có:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trường, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;

c) Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp, hội đồng xét xử;

d) Người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư … quy định tại khoản 2 điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Như vậy, thẩm quyền ra lệnh khám xét được trao rộng cho người tiến hành tố tụng của cả 3 cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nhằm đảm bảo hiệu quả của biện pháp điêu tra này.

Tuy nhiên, do khám xét là biện pháp ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân, nhà làm luật cũng quy định, lệnh khám xét của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư … quy định tại khoản 2 điêu 35 BLTTHS phải được Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành.

Tại khoản 3, điều 193 ở trên cũng đã quy định rõ về việc kiểm sát hoạt động khám xét. Điều luật quy định trước khi tiến hành khám xét, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian và địa điểm tiến hành khám xét để cử Kiểm sát viên kiêm sát việc khám xét, trừ trường hợp khám xét khẩn cấp. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám xét. Nếu Kiểm sát vắng mặt thì ghi rõ vào biên bản khám xét.

Gia hạn tạm giữ và các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong việc gia hạn tạm giữ được quy định tại Điều 118 BLTTHS năm 2015, cụ thể: Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được VKS cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn[15].

Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự (khoản 3, Điều 159, BLTTHS năm 2015)

Thứ hai, Đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

VKS nhân dân trong công tác thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn phải phối hợp chặt chẽ với CQĐT để nắm chắc tình hình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; phân loại xử lý và theo dõi, đôn đốc việc xác minh, giải quyết của CQĐT. Trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, khi thấy cần thiết VKS có thể đề ra những yêu cầu xác minh để làm sáng tỏ vụ việc và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kiểm tra, xác minh kịp thời đúng quy định.

VKS nhân dân các cấp trong công tác quan hệ phối hợp với CQĐT phải rà soát số liệu tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận, đã phân loại xử lý để xác định những việc CQĐT đã làm và những việc chưa làm, từ đó có văn bản yêu cầu CQĐT thực hiện, hạn chế để xảy ra tình trạng vi phạm thời hạn giải quyết mà không có lý do chính đáng nếu phát hiện có trường hợp chưa được giải quyết trong thời hạn luật định thì yêu cầu CQĐT nêu rõ lý do, hướng giải quyết. Nếu CQĐT không nêu được lý do, tiếp tục vi phạm về thời hạn giải quyết thì VKS cùng cấp phải tập hợp ban hành kiến nghị để rút kinh nghiệm.

Đối với KSV được phân công kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm phải lập kế hoạch theo dõi, kiểm sát chặt chẽ hoạt động giải quyết của Điều tra viên, nắm chắc nội dung và tiến độ giải quyết, chủ động đề ra yêu cầu xác minh ngay từ đầu trong suốt quá trình kiểm sát việc giải quyết đảm bảo kết quả giải quyết được chính xác, khách quan. Khi đề ra yêu cầu xác minh, KSV phải nêu rõ nội dung cần xác minh để kiểm tra tính xác thực của nguồn tin ; thu thập củng cố chứng cứ để làm rõ những tình tiết liên quan đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự. Văn bản yêu cầu xác minh phải được lưu vào hồ sơ tin báo của VKS. Khi xét thấy có vấn đề cần phải xác minh thêm, KSV kịp thời bổ sung yêu cầu xác minh lần 2, lần 3…; nếu Điều tra viên chưa rõ, KSV có trách nhiệm giải thích nội dung những yêu cầu xác minh. Trường hợp Ðiều tra viên không đồng ý thì KSV yêu cầu Điều tra viên nêu rõ lý do và báo cáo lãnh đạo VKS hoặc lãnh đạo đơn vị xem xét, kiến nghị với Thủ trưởng CQĐT; trường hợp CQĐT không thực hiện được đầy đủ các yêu cầu xác minh thì phải nêu rõ lý do trong văn bản kết luận xác minh vụ việc.

Đối với các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị có tính khẩn cấp và yêu cầu đặt ra là cần phải khám nghiệm hiện trường hoặc cần ngăn chặn ngay hành vi phạm tội thì Kiểm sát viên được phân công phải trực tiếp sơ vấn người báo tin để nhanh chóng nắm được thông tin ban đầu và báo cáo ngay với lãnh đạo để có biện pháp xử lý kịp thời.

Điều 159 BLTTHS năm 2015 đã pháp điển hóa một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đó là: Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện.

Thứ ba, Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

Trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành một số hoạt động xác minh, điều tra như: lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi và áp dụng một số biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân như: bắt, tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang; gia hạn tạm giữ, thu giữ, tạm giữ các đồ vật, tài liệu…Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với điều tra, chống oan sai, bỏ lọt tội phạm, việc quy định THQCT từ giai đoạn tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố cần thiết và phải được gắn với vai trò và trách nhiệm của VKS.

Trong những trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu, kiến nghị nhưng không được khắc phục nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền điều tra, VKS thực hiện trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, xem xét việc khởi tố vụ án có đúng với quy định của pháp luật hay không.

Để thực hiện trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, VKS phải bám sát vào quá trình tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; cần làm tốt công tác kiểm sát điều tra từ đầu, tích cực bám sát vào quá trình điều tra thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật quy định như các hành vi trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi…; không bị động chờ Điêù tra viên chuyển hồ sơ sang mới nghiên cứu mà chủ động “bắt cặp” với Điều tra viên, sát sao cùng Điều tra viên thu thập chứng cứ, ghi lời khai, kịp thời nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ việc để tác động với CQĐT, định hướng điều tra và giải quyết các tình huống xảy ra theo quy định của pháp luật và khi ra quyết định thuộc quyền năng pháp lý của mình, phải đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp, nhằm góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những sai phạm có thể xảy ra.

Một trong những những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi THQCT trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được quy định tại Điều 159 BLTTHS năm 2015 là: Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong các trường hợp do Bộ luật này quy định.

Theo đó, Điều 145 BLTTHS năm 2015 quy định: VKS trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà VKS đã yêu cầu bằng văn bản nhưng không được khắc phục.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAM LAM DOT 10\HINH SU\NGUYEN NGOC TINH\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *