Tăng cường quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn

Tăng cường quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn

Tăng cường quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề “Quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi được chọn nghiên cứu trong luận văn này là tính cấp thiết nhiều mặt của nó, điển hình là:

Thứ nhất, vì việc xây dựng nông thôn mới là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, có ý nghĩa sinh tồn của quốc gia, dân tộc.

Nói đến nông thôn là phải nói đến nông nghiệp, do đó, việc xây dựng nông thôn mới là việc động chạm đến nông nghiệp, mà nông nghiệp đã từng là mặt trận hàng đầu với lương thực là vấn đề số một của đất nước. Trong nhiều năm qua Đảng và Nhà nước ta đã nhấn mạnh trong nhiều văn kiện chính trị, pháp lý của mình điển hình là Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ banh hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định nhiệm vụ xây dựng “ Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới”. Cùng với đó còn có nhiều văn kiện pháp lý của Nhà nước nhằm cụ thể hóa sự chỉ đạo thực hiện Nghị quyết trên.

Thứ hai, công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi tuy cũng đạt được một số kết quả nhất định, bước đầu nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập.

Tiến độ triển khai thực hiện kế hoạch xã đạt chuẩn nông thôn mới huyện Bình Sơn còn chậm, đến nay trên địa bàn huyện chỉ có 06/24 xã đạt chuẩn xã nông thôn mới, đạt tỷ lệ 25%; công tác tuyên truyền, vận động về xây dựng nông thôn mới chưa được làm thường xuyên, sâu rộng, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa đầy đủ, chưa xác định rõ vai trò nhân dân là chủ thể trong xây dựng nông thôn mới; tiến độ kế hoạch triển khai thực hiện hoàn thành các tiêu chí theo Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới ở một số xã còn chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra và chưa thật sự sôi động và liên tục. Công tác phát tiển sản xuất, thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động trên địa bàn huyện còn khó khăn; nhu cầu về vốn rất lớn song khả năng của địa phương và nguồn đóng góp của nhân dân còn hạn chế.

Công tác quản lý Nhà nước đã bộc lộ nhiều khó khăn hạn chế, đối với các cơ quản lý Nhà nước thì đây là Chương trình đòi hỏi mức độ quản lý, tầm nhìn quản lý, phương pháp quản lý và cách thức triển khai thực hiện không giống như những công việc vẫn thường làm. Điều này dẫn tới có những lúng túng, khó khăn nhất định trong việc điều hành, tổ chức thực hiện trong Bộ máy quản lý Nhà nước về Chương trình từ huyện xuống các xã, các thôn, xóm dân cư. Mặt khác, việc triển khai nghiên cứu để đánh gia thực trạng công tác quản lý Nhà nước trong xây dựng nông thôn mới tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất những giải pháp thực hiện là một trong những việc làm quan trọng. Song, cho đến nay chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này.

Với những lý do trên, học viên nhận thấy sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài: “Tăng cường quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi”.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu

Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới và kết quả phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, từ đó xác định những khó khăn, hạn chế, nguyên nhân của những tồn tại cần khắc phục và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, hướng tới mục tiêu hoàn thành 100% số xã trong huyện đạt chuẩn xã nông thôn mới, đồng thời duy trì và nâng cao các tiêu chí theo chuẩn nông thôn mới tại các xã đã đạt chuẩn xã nông thôn mới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

– Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới; làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.

– Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2022.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung của Quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: Nghiên cứu về những nội dung chính trong hoạt động quản lý Nhà nước nhằm thực hiện các tiêu chí trong xây dựng nông thôn mới ở các xã trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

– Phạm vi về không gian: Nghiên cứu về Quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới ở các xã trong phạm vi huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

– Phạm vi về thời gian: Luận văn nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Sơn giai đoạn 2013 – 2017. Đề xuất giải pháp giai đoạn 2018 – 2022.

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài

4.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp sau:

– Phương pháp thống kê: Thu thập các tài liệu, số liệu đã có tại các cơ quan trong huyện và các xã trên địa bàn huyện; Chi cụ thống kê huyện; Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới huyện Bình Sơn, từ đó phân tích và rút ra những kết quả đánh giá khách quan, dự báo xu hướng phát triển trong thời gian tiếp theo. Sử sụng các tài liệu từ các ấn phẩm và các websites chuyên ngành.

– Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập thông tin công bố chính thức của các cơ quan nhà nước, các nghiên cứu của các cá nhân, tổ chức về xây dựng nông thôn mới; những thông tin về tình hình cơ bản của huyện, về xây dựng nông thôn mới do các cơ quan chức năng của huyện cung cấp.

5. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nghiên cứu này gồm có 3 chương với nội dung chính như sau:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn trong quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Bình Sơn giai đoạn 2018 – 2022.

6. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NÔNG THÔN

1.1.1. Khái niệm về nông nghiệp, nông dân và nông thôn

– Nông nghiệp là ngành sản xuất – kinh doanh làm ra thực phẩm nông sản, bao gồm cả sản xuất nông nghiệp, chế biến, marketing và phân phối các thực phẩm nông sản.

– Nông dân là những người dân sống ở nông thôn làm các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ khác nhau tuỳ theo khả năng và lợi thế so sánh của họ.

– Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân xã.

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của nông thôn

Nông thôn được xác định theo ba đặc trưng cơ bản sau:

– Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội: Ở nông thôn con người sinh sống chủ yếu ở đây là nông dân và còn một số đối tượng khác cùng sinh sống như cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang, thợ thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, v.v…

– Về lĩnh vực sản xuất: Đặc trưng rõ nét nhất của nông thôn là sản xuất nông nghiệp.

– Về lối sống, văn hóa của từng loại tập quán: Nông thôn thường rất đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng, xã.

1.1.3. Vai trò của nông thôn

– Nông thôn là địa bàn sản xuất và cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng của cả xã hội; là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm của khu vực thành thị hiện đại.

– Nông thôn là nơi cung cấp nguồn nhân lực cho công nghiệp và đô thị.

– Nông nghiệp, nông thôn cung cấp nguồn nguyên liệu lớn cho công nghiệp.

– Nông thôn là thị trường lớn để tiêu thụ sản phẩm của công nghiệp.

Tăng cường quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
Tăng cường quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi

1.2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NÔNG THÔN MỚI

1.2.1. Khái niệm về nông thôn mới

– Nông thôn mới là nông thôn mà trong đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nông dân được đào tạo, tiếp thu các tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đóng vai trò làm chủ nông thôn mới.

– Xây dựng nông thôn mới: Là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện; có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo

1.2.2. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới

Thứ nhất, nông thôn phát triển tự phát, thiếu quy hoạch, hạ tầng kinh tế – xã hội kém phát triển, ô nhiễm môi trường nhiều tiềm ẩn.

Thứ hai, sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu, quan hệ sản xuất chậm đổi mới.

Thứ ba, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn.

Thứ tư, do yêu cầu nâng cao mức thụ hưởng thành tựu của công cuộc đổi mới đối với nông dân.

Thứ năm, yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn cùng với công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

1.2.3. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới

– Xây dựng nông thôn mới theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng.

– Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu.

– Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương.

– Công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực, phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các công trình, dự án của Chương trình xây dựng nông thôn mới.

– Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp ủy đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, đề án, kế hoạch và tổ chức thực hiện.

1.2.4. Những nội dung cơ bản về nông thôn mới

– Quy hoạch xây dựng nông thôn mới.

– Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội.

– Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập.

– Giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội.

– Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả tại nông thôn.

– Phát triển giáo dục và đào tạo.

– Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân.

– Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền thông .

– Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

– Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chức Đảng và các đoàn thể nhân dân từ cơ sở.

– Giữ vững an ninh, trật tự xã hội ở nông thôn.

1.3. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.3.1. Khái niệm quản lý Nhà nước về nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới

a. Khái niệm quản lý

Thuật ngữ quản lý có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý. Theo khoa học quản lý: F.W Taylor (1856-1915) – một trong những người đầu tiên khai sinh ra khoa học quản lý đã cho rằng: Quản lý là hoàn thành công việc của mình thông qua người khác và biết được một cách chính xác họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.

Henrry Fayol (1886-1925) – người đầu tiên tiếp cận quản lý theo quy trình, quan niệm rằng: Quản lý là một tiến trình bao gồm tất cả các khâu: lập kế hoạch, tổ chức, phân công, điều khiển và kiểm soát các nỗ lực của cá nhân, bộ phận và sử dụng có hiệu quả nguồn lực vật chất khác của tổ chức để đạt được mục tiêu đề ra.

Stephan Robbins quan niệm: Quản lý là tiến trình hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát những hành động của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.

Từ năm 1950 trở lại đây, do vai trò đặc biệt quan trọng của quản lý đối với sự phát triển kinh tế, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về lý thuyết và thực hành quản lý với nhiều cách tiếp cận khác nhau, bao gồm tiếp cận theo kinh nghiệm; theo hành vi quan hệ cá nhân; tiếp cận theo lý thuyết quyết định; tiếp cận toán học; tiếp cận theo các vai trò quản lý…Từ những cách tiếp cận khác nhau đó, có nhiều khái niệm khác nhau về quản lý như:

– Quản lý là hoạt động của các cơ quan quản lý nhằm đưa ra quyết định.

– Quản lý là nghệ thuật nhằm đạt mục đích thông qua những nỗ lực của người khác.

– Quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả cách hoạt động của những người cộng sự cùng chung một tổ chức.

– Quản lý là quá trình phối hợp các nguồn lực nhằm đạt được những mục đích của tổ chức. Hoặc đơn giản hơn nữa, quản lý là sự có trách nhiệm về một cái gì đó…

Như vậy, có thể hiểu: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệuquả nhất các nguồn lực, các thời cơ của tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra trong điều kiện môi trường luôn biến động.

b. Khái niệm về quản lý Nhà nước

Là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước.

c. Khái niệm quản lý Nhà nước về nông thôn mới

Là sự tác động có tổ chức của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương trong vấn đề xây dựng nông thôn mới trên cơ sở các tiêu chí đánh giá về nông thôn mới đối với phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay.

d. Khái niệm quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới chính là việc Nhà nước thực hiện vai trò của mình thông qua việc hoạch định chiến lược, xây dựng các chính sách, kế hoạch và triển khai các chương trình hỗ trợ nhằm tác động tới sự phát triển kinh tế – xã hội của khu vực nông thôn, làm cho nông thôn phát triển toàn diện và đồng bộ, có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại; làng xã văn minh, sạch đẹp; sản xuất phát triển bền vững theo hướng kinh tế hàng hóa; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị vững mạnh và được tăng cường; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng XHCN.

1.3.2. Nội dung quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Quản lý Nhà nước về xây dựng nông tôn mới có nghĩa là quản lý các dự án từ khâu lập kế hoạch, tổ chức và quản lý, giám sát quá trình phát triển của dự án nhằm đảm bảo cho dự án hoàn thành đúng thời gian, trong phạm vi ngân sách đã được duyệt, đảm bảo chất lượng, đạt được mục tiêu cụ thể của dự án và các mục đích đề ra. Mục tiêu cơ bản của việc quản lý dự án thể hiện ở chỗ các công việc phải được hoàn thành theo yêu cầu và bảo đảm chất lượng, trong phạm vi chi phí được duyệt, đúng thời gian và giữ cho phạm vi dự án không thay đổi. Lợi ích của quản trị công việc theo dự án là: giám sát tốt ngân sách và tài nguyên; quản lý tốt nguồn lực; rút ngắn thời gian làm việc, sắp xếp lao động hợp lý; thúc đẩy tinh thần làm việc nhóm; cải tiến năng suất làm việc và tăng lợi nhuận, giảm giá thành.

a. Hoạch định chiến lược, quy hoạch xây dựng nông thôn mới

– Hoạch định là quá trình xác định mục tiêu và quyết định phải làm gì và làm như thế nào để đạt được mục tiêu. Hoạch định chiến lược là tập hợp các hành động, quyết định của lãnh đạo, hướng tới việc soạn thảo các chiến lược chuyên biệt nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Hoạch định chiến lược bao gồm các việc như: xác định các ưu tiên, tập trung các nguồn lực… nhằm hướng đến mục tiêu chung.

– Hoạch định làm tăng khả năng thành công của tổ chức, bởi thông qua hoạch định sẽ phân tích, dự báo được những thời cơ, thách thức, thuận lợi, khó khăn trong quá trình thực hiện mục tiêu. Từ đó có những giải pháp nắm bắt thời cơ, hạn chế rủi ro, phù hợp trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Trong XD NTM, hoạch định chiến lược chính là việc định ra những mục tiêu, nội dung, giải pháp ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho Chương trình mục tiêu quốc gia XD NTM.

– Quy hoạch xây dựng nông thôn mới là một trong những nội dung cơ bản và là bước đi đầu tiên, quan trọng trong tổng thể nhiệm vụ XD NTM nói chung. Quy hoạch nông thôn mới là điều kiện tiên quyết, là cơ sở cho đầu tư xây dựng các công trình, chỉnh trang, phát triển nông thôn. Do đó, để thực hiện thành công, chủ động xây dựng nông thôn mới thì công tác lập quy hoạch cần được quan tâm đặc biệt. Quy hoạch đúng mức tạo ra sự thống nhất giữa tổng thể phát triển kinh tế – xã hội. Quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng, sử dụng đất, gắn chặt với quy hoạch phát triển KT-XH vùng, ngành, địa phương, là công cụ quản lý XD NTM theo hướng văn minh, hiện đại. Ở cấp xã, lập quy hoạch chi tiết xây dựng nông thôn mới phải được nghiên cứu, tham khảo kỹ lưỡng và phải gắn với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đã được lập; tổ chức lại các không gian chức năng, mạng lưới giao thông… gắn với việc tổ chức sắp xếp lại dân cư, hoàn thiện hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội, hạ tầng kỹ thuật; công trình nhà ở và công trình công cộng được cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới phải phù hợp với điều kiện cụ thể, giá trị lịch sử, kiến trúc của các công trình hiện có và bản sắc văn hóa của từng địa phương.

b. Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý Nhà nước và chính sách về xây dựng nông thôn mới

– Văn bản quản lý nhà nước được hiểu là những văn bản chứa đựng những quyết định và thông tin quản lý do các cơ quan nhà nước ban hành theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý hành chính nhà nước giữa các cơ quan nhà nước với nhau và giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân. Văn bản QLNN thể hiện ý chí, mệnh lệnh, mang tính quyền lực Nhà nước, là phương tiện để điều chỉnh những quan hệ xã hội thuộc phạm vi Nhà nước, đồng thời thể hiện kết quả hoạt động quản lý của các cơ quan, tổ chức.

– Trong lĩnh vực XD NTM, hệ thống các văn bản QLNN chính là các văn bản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục nhất định, trong đó chứa quy tắc xử sự chung, điều chỉnh các vấn đề về xây dựng nông thôn mới. Thông qua hệ thống các văn bản này đảm bảo cho chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về XD NTM được triển khai đạt kết quả cao trong thực tiễn.

– Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm xây dựng, ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động XD NTM nhằm chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương căn cứ thực hiện, như: Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị quyết 24/2008/NĐ-CP ngày 28/10/2008 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Quyết định số 491/2009/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới; Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016-2020; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2010-2020; Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình MTQG XD NTM giai đoạn 2016 -2020;…

– Bên cạnh đó, các Bộ, ngành liên quan ở Trung ương và địa phương cũng đã ban hành đồng bộ hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, để tiết kiệm nguồn vốn hiện có, Nhà nước đã triển khai việc nối tiếp một số chương trình từ giai đoạn trước và trong giai đoạn 2006-2010.

– Đã có 11 Chương trình mục tiêu quốc gia được thực hiện trên địa bàn cả nước, tác động chủ yếu đến khu vực nông thôn. Trong đó, đáng chú ý là các chương trình như: xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao khoa học và công nghệ, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn 2004-2010; nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; kiên cố hóa kênh mương; điện nông thôn; xóa đói giảm nghèo,….

c. Tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới

– Tổ chức bộ máy và biên chế là hai nhân tố quan trọng bảo đảm cho sự vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước. Việc đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và sử dụng, bố trí đúng, đủ biên chế có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong bộ máy nhà nước.

– Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước với những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nó luôn được quy định chặt chẽ trong Hiến pháp và cũng có thể khẳng định, nội dung quan trọng nhất của các bản Hiến pháp chính là những quy định về bộ máy nhà nước. Tương tự như vậy, đối với mỗi cấp hành chính, mỗi ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý hành chính Nhà nước nói chung, tổ chức bộ máy quản lý nhà nước cũng được kiến tạo theo những quy định chặt chẽ, cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật. Tổ chức bộ máy quản lý trong XD NTM chính là các bộ phận tham mưu, giúp việc, giúp cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý trong XD NTM một cách thống nhất, khoa học.

– Ngày 01/7/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1013/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, trên cơ sở đó Ban Chỉ đạo Trung ương tiếp tục xây dựng và ban hành kế hoạch triển khai Chương trình MTQG XD NTM, giai đoạn 2010- 2020. Trong đó nêu rõ việc thành lập Ban Chỉ đạo – cơ quan tham mưu giúp việc trong quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở các cấp như sau:

* Ban Chỉ đạo Trung ương:

+ Theo Quyết định số 1013/QĐ-TTg, Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 gồm 24 thành viên; Ban hành Quy chế hoạt động, phân công trách nhiệm cụ thể đối với các thành viên của Ban Chỉ đạo Trung ương; thành lập Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương gồm Trưởng ban, phó Trưởng ban và 3 Ủy viên là lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch & Đầu tư, Tài chính và Xây dựng.

+ Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình giúp Ban Chỉ đạo Trung ương đặt tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định.

Ban Chỉ đạo cấp tỉnh:

+ Ban Chỉ đạo của tỉnh do đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh làm Trưởng ban, Phó Ban thường trực là đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh và 01 Phó ban là Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các thành viên Ban Chỉ đạo có thành phần tương tự Ban Chỉ đạo Trung ương. Thường trực Ban Chỉ đạo cấp tỉnh là Trưởng ban, các phó trưởng ban và 3 ủy viên là đại diện lãnh đạo các Sở: Xây dựng, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính;

+ Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đặt tại Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giúp BCĐ tỉnh thực hiện Chương trình trên địa bàn.

Cấp huyện, thị xã (gọi chung là huyện):

+ Ban Chỉ đạo của huyện do Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng ban; Phó Chủ tịch UBND huyện làm Phó Trưởng ban. Thành viên gồm lãnh đạo các phòng, ban có liên quan của địa phương.

+ Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới huyện đặt tại Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan thường trực điều phối, giúp Ban Chỉ đạo huyện thực hiện Chương trình trên địa bàn.

Cấp xã: Thành lập BCĐ xã do đồng chí Bí thư Đảng ủy xã làm Trưởng ban, đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Phó trưởng ban; thành lập BQL xã do đồng chí Chủ tịch UBND xã làm Trưởng ban, Phó Chủ tịch UBND xã là Phó Trưởng ban; thành viên là một số đại diện cơ quan chuyên môn và đại diện một số Ban, ngành, đoàn thể chính trị của xã.

Cấp thôn: Thành lập Ban phát triển thôn do đồng chí Bí thư chi bộ làm trưởng ban, Phó trưởng ban là các thôn trưởng, trưởng các khu cư và thành viên là các Ban, ngành, đoàn thể chính trị của thôn và những người có uy tínn trong thôn.

– Đi đôi với thành lập bộ máy giúp việc, cần tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, xây dựng chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm việc ở nông thôn, đặc biệt là cán bộ chuyên trách về nông thôn mới. Kinh nghiệm thành công trong xây dựng nông thôn mới chỉ ra rằng, một tập thể lãnh đạo có năng lực, có trách nhiệm chính là điều kiện quan trọng quyết định thành công.

– Chính vì vậy, công tác đào tạo cán bộ cơ sở được coi trọng, bởi đây là lực lượng trực tiếp triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Sự năng động và tinh thần trách nhiệm của họ đã dẫn dắt và khơi dậy tính sáng tạo của nông dân. Nhiều năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước đã xây dựng và triển khai thực hiện nhiều Đề án về tuyển chọn, sử dụng và có những chế độ đãi ngộ để thu hút những người có đủ năng lực, trí tuệ và phẩm chất tham gia XD NTM.

d. Tổ chức chỉ đạo thực hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể về phát triển KT-XH, chính trị và an ninh quốc phòng. Do đó, QLNN về xây dựng nông thôn mới chính là việc tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện 11 nội dung xây dựng nông thôn mới. Trong đó, trọng tâm là các nội dung sau:

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển, trở thành một Quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và thương mại – dịch vụ. Đồng thời, giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp).

Để chuyển dịch cơ cấu cần tập trung thực hiện một số vấn đề như: tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong GDP; phát triển mạnh các ngành nghề phi nông nghiệp; chuyển mạnh sang sản xuất các loại sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao; phát triển mạnh chăn nuôi với tốc độ và chất lượng cao hơn; xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với việc chuyển giao công nghệ sản xuất, bảo quản và chế biến; Tiếp tục rà soát, bổ sung, điều chỉnh lại quy hoạch sản xuất nông nghiệp theo hướng: phát huy lợi thế tự nhiên của từng vùng, lợi thế kinh tế của từng loại cây trồng, con gia súc, tăng tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ; Ðưa nhanh khoa học công nghệ vào sản xuất; ứng dụng mạnh công nghệ sinh học và XD các khu nông nghiệp công nghệ cao; Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp và hợp tác xã đầu tư phát triển công nghiệp bảo quản, chế biến nông, lâm thủy sản….

Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ở nông thôn

Về cơ bản, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó cũng là yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh, mạnh và bền vững. Xuất phát từ thực tiễn tiến hành công nghiệp hóa trước đây và căn cứ vào thực trạng kinh tế của nước ta cũng như yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ mới, đòi hỏi phải không ngừng phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là kết cấu hạ tầng nông thôn làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.

Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay đó là vốn đầu tư từ Nhà nước, trong khi cần phải tăng tỷ lệ đầu tư cho phát triển hạ tầng nông thôn theo hướng đồng bộ, hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất.

Do đó, cần khuyến khích hơn nữa các thành phần kinh tế, tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng nông thôn. Đổi mới cơ chế, chính sách để huy động mạnh nguồn lực đất đai vào phát triển hạ tầng. Có chính sách phù hợp thu hồi đất, đấu giá quyền sử dụng đất để tạo vốn hỗ trợ cho xây dựng công trình hạ tầng. Mở rộng hình thức Nhà nước và nhân dân cùng làm theo hướng Nhà nước đầu tư vốn, người dân đóng góp thêm vốn hoặc nhân công. Khuyến khích, vinh danh các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có nhiều đóng góp cho xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc…

Quản lý các vấn đề xã hội, an ninh và trật tự khu vực nông thôn

Đó là việc quản lý, chỉ đạo thực hiện trên các lĩnh vực: Phát triển giáo dục và đào tạo theo hướng nâng cao chất lượng toàn diện; chú trọng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện Bảo hiểm y tế toàn dân; thực hiện các tiêu chí về văn hóa xã hội; đảm bảo vệ sinh môi trường; xây dựng môi trường nông thôn ổn định về chính trị, an toàn về trật tự xã hội; tạo thuận lợi cho kinh tế – xã hội địa phương phát triển ổn định.

Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới

Đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý, qua đó nhằm huy động nguồn lực vật chất, tài chính và cả nguồn lực về tinh thần toàn xã hội để xây dựng nông thôn mới, tạo bước chuyển biến đáng kể về cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của cư dân nông thôn.

Thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 và đến nay được sửa đổi ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 -2020. Đây là một chương trình khung toàn diện nhất để cộng đồng chung sức XD NTM. Trong đó, huy động nguồn lực thực hiện là vấn đề rất được quan tâm. Theo Quyết định, nguồn vốn ngân sách chiếm tỷ lệ khoảng 30% tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia XD NTM, tiếp đến là vốn tín dụng khoảng 45%, vốn từ các doanh nghiệp, hợp tác xã và các loại hình kinh tế khác khoảng 15% và huy động đóng góp của cộng đồng dân cư khoảng 10%.

Do vậy, đòi hỏi trong quản lý nhà nước về XD NTM phải có cơ chế huy động được thực hiện theo hướng đa dạng hóa các nguồn vốn, thông qua: lồng ghép các nguồn vốn của các chương trình MTQG, các chương trình, dự án hỗ trợ có mục tiêu trên địa bàn; huy động tối đa nguồn lực của địa phương, kêu gọi sự đóng góp của nhân dân; các khoản viện trợ không hoàn lại của các DN, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cho các dự án đầu tư; các nguồn vốn tín dụng; các nguồn vốn hợp pháp khác.

Huy động và quản lý các nguồn lực đầu tư xây dựng nông thôn mới luôn được triển khai để đảm bảo tính cân đối phù hợp, tính hiệu quả trong huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới nói riêng và thu ngân sách ở địa phương nói chung. Vai trò của Nhà nước ở đây là tạo lập, huy động mọi nguồn vốn đầu tư, mở rộng hệ thống quỹ tín dụng để phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng các quỹ phòng chống thiên tai, quỹ xóa đói giảm nghèo… để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đáp ứng các tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới.

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, để huy động tối đa nguồn lực cho chương trình, các địa phương cần tranh thủ sự giúp đỡ của các cấp, các ngành, sự đóng góp của tổ chức, cá nhân, các nguồn vốn trong và ngoài nước; lồng ghép các chương trình dự án… Bên cạnh đó, phát huy nội lực bằng các biện pháp như: tăng thu từ đất, đấu giá quyền sử dụng đất; có giải pháp khuyến khích nhân dân cùng tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, trong đó xác định rõ cơ chế huy động vốn của các thành phần cùng tham gia; đặc biệt là phát huy nguồn lực tại chỗ, vận động nhân dân hiến kế, tham gia góp đất, góp công, góp kinh phí đầu tư xây dựng hạ tầng NTM. Đồng thời cũng cần quan tâm tới vai trò của các tổ chức đoàn thể trong huy động nguồn lực XD NTM. Quan tâm thu hút sự hỗ trợ nguồn lực từ bên ngoài thông qua việc xây dựng công khai, kế hoạch về các dự án cụ thể theo từng năm để huy động nguồn lực cho xây dựng Chương trình MTQG XD NTM.

đ. Kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm

– Kiểm tra, giám sát các hoạt động xây dựng nông thôn mới là việc Nhà nước xem xét, đánh giá tình trạng đạt hay không đạt các tiêu chí về XD NTM; đảm bảo việc tuân thủ những quy định của pháp luật trong tổ chức triển khai thực hiện xây dựng nông thôn mới theo các quy định, tiêu chí của Chương trình MTQG XD NTM. Đây là một trong những chức năng, nhiệm vụ cần thiết để thanh kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chính sách, các thể chế quản lý của nhà nước. Qua đó kịp thời phát hiện những sai sót và ngăn chặn, chấn chỉnh các hành vi sai phạm, kiểm soát các sai lầm, lệch lạc. Đồng thời, xử lý các vi phạm, điều chỉnh các tiêu chí cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.

– Việc kiểm tra, giám sát các hoạt động thực hiện quá trình XD NTM cần tiến hành:

+ Kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch và pháp luật của nhà nước về nông thôn mới.

+ Kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn lực của nhà nước và các nguồn lực khác.

+ Kiểm tra, giám sát việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật; công tác quy hoạch và giám sát về kinh tế, tổ chức sản xuất.

+ Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chức năng và việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

– Đi đôi với kiểm tra, giám sát, định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để kịp thời tháo gỡ khó khăn, nhân rộng những kinh nghiệm, cách làm hay và những điển hình trong xây dựng nông thôn mới; biểu dương khen thưởng các tập thể, cá nhân điển hình, tạo động lực cho phong trào thi đua chung sức xây dựng nông thôn mới.

1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

a. Sự lãnh đạo của Đảng

Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khóa X đã đề ra Nghị quyết số 26- NQ/TW, đề cập một cách toàn diện quan điểm của Đảng ta về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, trong đó có xây dựng nông thôn mới. Nghị quyết khẳng định: NNNDNT có vai trò to lớn, chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó không phải chỉ là nhiệm vụ của nông dân ở khu vực nông thôn mà là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Thực hiện đường lối của Đảng, ngày 28/10/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã thống nhất nhận thức, hành động về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Nối tiếp Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2011-2016 cũng đã nêu: “Tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc điểm từng vùng theo các bước đi cụ thể, vững chắc trong từng giai đoạn, giữ gìn và phát huy nét văn hóa bản sắc của nông thôn Việt Nam”.

Thực hiện đường lối của Đảng, thời gian qua phong trào XD NTM ở các địa phương đã thu hút sự tham gia tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và nhân dân, bước đầu làm thay đổi đáng kể diện mạo khu vực nông thôn tại nhiều địa phương, đời sống vật chất và tinh thần của người dân có bước tiến bộ rõ rệt. Tuy nhiên, quá trình xây dựng nông thôn mới còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đây là một chương trình mới nên phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm, năng lực thực tiễn của cán bộ các cấp chưa nhiều, công tác chỉ đạo, triển khai còn lúng túng. Trong nhận thức một bộ phận nhân dân vẫn cho rằng xây dựng nông thôn mới là dự án do Nhà nước đầu tư, do đó còn tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, để mọi người dân đều nhận thức được trách nhiệm của mình và sẵn sàng chung sức XD NTM.

b. Vai trò quản lý và năng lực của bộ máy chính quyền các cấp

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng hợp bao gồm mọi mặt công tác của Đảng, Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Để thực hiện nội dung đó, Nhà nước phải đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ tợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện và kích thích tinh thần nhân dân thực hiện; nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định chính sách trong việc thực hiện các tiêu chí về XD NTM.

Xây dựng nông thôn mới là một vấn đề phức tạp vì liên quan đến nhiều ngành, nhiều chính sách và hoạt động có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khu vực nông thôn và đời sống của người dân. Việc triển khai XD NTM là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp đóng vai trò nòng cốt, có tính chất quyết định. Vì vậy, nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành của UBND các cấp, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực thực tiễn của đội ngũ cán bộ thực thi nhiệm vụ chính là vấn đề cần được quan tâm, chú trọng.

c. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể quần chúng

Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, trong đó vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng là hết sức quan trọng. Cùng với chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chính là nơi tập hợp, đoàn kết, động viên các hội viên, đoàn viên và toàn thể nhân dân tích cực tham gia thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước do địa phương phát động, trong đó có chương trình chung sức xây dựng nông thôn mới. Do đó, để xây dựng nông thôn mới thành công cần đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể theo hướng ngày càng đa dạng, thiết thực và hiệu quả.

d. Sự tham gia chủ động, tích cực của người dân nông thôn

Người dân, nhất là cư dân nông thôn chính là chủ thể trong xây dựng nông thôn mới. Thể hiện ở chỗ: người dân trực tiếp tham gia phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn; chủ động xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; tham gia vào quá trình quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới; xây dựng và giữ gìn đời sống văn hóa; đảm bảo vệ sinh môi trường; duy trì ổn định về trật tự xã hội; xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

Sự tham gia của người dân, của cộng đồng trong xây dựng nông thôn mới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao tính dân chủ ở nông thôn. Từ đó huy động được cả cộng đồng tham gia tích cực vào các quá trình xây dựng nông thôn mới, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

1.4. KINH NGHIỆM QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở MỘT SỐ HUYỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN BÌNH SƠN

1.4.1. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở một số huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

a. Xây dựng nông thôn mới của huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi

Huyện Sơn Tịnh là một huyện đồng bằng ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Ngãi. Phía đông giáp biển Đông, phía tây giáp hai huyện miền núi Trà BồngSơn Hà, phía nam giáp huyện Tư Nghĩa và thành phố Quảng Ngãi (sông Trà Khúc là ranh giới tự nhiện), phía Bắc giáp huyện Bình Sơn. Là huyện nông nghiệp, tổng diện tích tự nhiên 34.357,4 ha; dân số là 194.738 người; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực: nông nghiệp, dịch vụ, công nghiệp, nông, lâm nghiệp. Sau hơn 6 năm thực hiện Chương trình MTQG XD NTM ở huyện Sơn Tịnh đã có bước phát triển tốt. Sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ, chuyển dần sang sản xuất hàng hóa, chuyên canh. Hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo quy hoạch, đạt 33% trong cơ cấu kinh tế (trồng trọt chiếm 48,5%, chăn nuôi chiếm 51,5%). Giá trị sản xuất trên 1ha canh tác ước đạt gần 125 triệu đồng/ha. Tốc độ tăng trưởng của ngành ước đạt 6%.

Xây dựng NTM bước đầu đạt kết quả tiến bộ; tổ chức bộ máy từ huyện đến xã được thành lập. Nông thôn các xã từng bước được thực hiện theo quy hoạch và nâng cao nhận thức của nhân dân trong khu vực nông thôn về quyền và nghĩa vụ tham gia XD NTM. Trong chương trình MTQG XD NTM, các xã đều tăng từ 2 đến 4 tiêu chí mỗi năm. Hiện nay, huyện có 3 xã đã đạt xã nông thôn mới là Tịnh Giang, Tịnh Bắc, Tịnh Minh; 2 xã đang phấn đấu về đích nông thôn mới năm 2018 là Tịnh Sơn và Tịnh Trà; tiếp theo lộ trình, 3 xã về đích NTM năm 2019 là Tịnh Đông, Tịnh Phong, Tịnh Hà; 3 xã về đích NTM năm 2020 là Tịnh Bình, Tịnh Hiệp, Tịnh Thọ. Cở sở hạ tầng kinh tế, xã hội từng bước được đầu tư đáng kể: 82,23% đường trục liên xã, 46,7% đường trục liên thôn, 40% đường trục xóm và 20% đường nội đồng được bê tông và nhựa hóa. Hệ thống thủy lợi đảm bảo kịp thời công tác tưới tiêu cho trên 24.400,8 ha đất sản xuất nông nghiệp hàng năm; 100% hộ dân có điện thắp sáng đảm bảo trong sinh hoạt và sản xuất. Trên lĩnh vực giáo dục đã có 29/116 trường đạt chuẩn quốc gia, chất lượng giáo dục ngày càng tăng. Thực hiện tốt nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Đời sống nông dân được từng bước cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đạt 31 triệu đồng/người/ năm (trong nông thôn đạt 24,5 triệu đồng/người/năm). Tỷ lệ lao động trong nông nghiệp giảm xuống còn 75%, qua đào tạo đạt 36,5%, tỷ lệ hộ nghèo còn 6,02%. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên đạt 85% và tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 55%.

Có thể nói, thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới huyện Sơn Tịnh đạt được những kết quả đáng khích lệ; cùng với sự quyết tâm, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong huyện, Sơn Tịnh sẽ phát huy được vị trí quan trọng của lĩnh vực kinh tế nông nghiệp trong sự phát triển chung của nền kinh tế huyện nhà; Chương trình MTQG XD NTM huyện Sơn Tịnh giai đoạn 2011 – 2017 đã đạt kết quả đáng phấn khởi, khẳng định một điều đây là một chủ trương đúng đắn “Ý Đảng hợp lòng dân” (nguồn trang Thông tin điện tử, huyện Sơn Tịnh).

b. Xây dựng nông thôn mới của huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi

Huyện Tư Nghĩa phía đông và đông bắc giáp Thành phố Quảng Ngãi, phía bắc giáp huyện Sơn Tịnh, phía tây giáp huyện Sơn Hà, phía tây nam giáp huyện Minh Long, phía nam giáp huyện Nghĩa Hành, phía đông nam giáp huyện Mộ Đức. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi – Bình Định đi qua đang được xây dựng. Huyện Tư Nghĩa có 15 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 13 Nghĩa ĐiềnNghĩa HiệpNghĩa HòaNghĩa KỳNghĩa LâmNghĩa Mỹ,Nghĩa PhươngNghĩa SơnNghĩa ThắngNghĩa ThọNghĩa ThuậnNghĩa ThươngNghĩa Trung) và 2 thị trấnLa Hà (huyện lị), Sông Vệ. Diện tích tự nhiên trên 22.729 ha, diện tích đất nông nghiệp 10.443 ha, dân số của huyện là 180.980 người. Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ còn nhỏ lẻ, chưa phát triển.

Xây dựng mới 185,3km đường giao thông nông thôn, kiên cố hoá 37,5km kênh cấp 3, xây mới 17 trạm biến áp, nâng cấp 92,79km đường dây hạ thế; 07 trường đạt chuẩn quốc gia, 100% trạm y tế xã đạt chuẩn xây dựng và nâng cấp 128 nhà văn hóa thôn. Mạng lưới bưu chính viễn thông được nâng cấp và hiện đại hoá. Thu nhập bình quân đầu người đạt 17,6 triệu đồng/người/năm. Các cấp ủy đảng, chính quyền, UBMTTQ, các đoàn thể và các ngành đã tích cực vào cuộc, nhân dân đồng thuận hưởng ứng, đến nay đã đạt được những kết quả quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2017 đạt 10,5%, đạt 100% kế hoạch, trong đó: Công nghiệp – Xây dựng tăng 11,1%, Dịch vụ tăng 14,4%, Nông nghiệp tăng 5,2%. Cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ thương mại, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp: so với năm 2011 công nghiệp – xây dựng 37,8%, tăng 1,6%, dịch vụ – thương mại 33,1%, tăng 3,8%, nông nghiệp 29,1%, giảm 5,4%. Năm 2017, thu nhập bình quân đầu người của huyện đạt trên 25 triệu đồng/người/năm (tăng 247% so với năm 2011 sau khi tính đủ); năng suất lúa bình quân đạt 63,3 tạ/ha (tăng 6,0% so với năm 2010), sản xuất nông nghiệp tăng trưởng mạnh, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 250 triệu đồng/ha (giá trị canh tác đạt 105 triệu/ha); sản xuất nông nghiệp có bước phát triển mới về chuyển dịch cơ cấu.

Đến nay toàn huyện đã có 08/13 xã được công nhận xã NTM là Nghĩa Lâm, Nghĩa Hòa, Nghĩa Thương, Nghĩa Sơn, Nghĩa Phương, Nghĩa Kỳ, Nghĩa Điền và Nghĩa Thuận; có 01 xã đạt 16 tiêu chí là xã Nghĩa Trung, có 03 xã đạt 15 tiêu chí, gồm: Xã Nghĩa Hiệp, Nghĩa Mỹ và Nghĩa Thắng và có 01 xã đạt 14 tiêu chí là xã Nghĩa Thọ. Diện mạo nông thôn có bước thay đổi đáng kể, cán bộ làm công tác xây dựng nông thôn mới từ huyện đến xã, thôn được nâng lên rõ rệt cả về cả trình độ lý luận và thực tiễn, tạo được lòng tin của nhân dân, đã dần loại bỏ tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước; nhận thức của người dân về dồn điền đổi thửa và chương trình xây dựng nông thôn mới có nhiều chuyển biến, tiến bộ; cộng đồng dân cư gắn kết chặt chẽ hơn, tình làng, nghĩa xóm được thắt chặt; nhân dân phấn khởi và tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tạo sự đồng thuận cao so với khi mới triển khai chương trình. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân dần được cải thiện và nâng cao. Nông thôn từng bước được phát triển theo hướng toàn diện, hiện đại, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư, xây dựng, nhất là các hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh như: Hệ thống giao thông nông thôn được nhựa hóa, bê tông hóa đạt trên 93%, tỷ lệ trường lớp được kiên cố hóa đạt 98%; 100% trạm y tế trên địa bàn có y bác sỹ; công tác vệ sinh môi trường được quan tâm thường xuyên; bản sắc văn hóa được giữ gìn và phát huy; hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Tuy nhiên, Huyện Tư Nghĩa cũng còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ như tính chủ động trong chỉ đạo, tạo kinh phí, vận động nhân dân ở một số xã còn hạn chế, tiến độ còn chậm. Một số xã chủ yếu dựa vào đơn vị tư vấn và sự hỗ trợ của phòng ban chuyên môn huyện nên chưa chủ động sáng tạo trong cách làm, xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, trường học, trạm y tế… tiến độ XD NTM còn chậm so với yêu cầu (nguồn trang Thông tin điện tử, huyện Tư Nghĩa).

c. Xây dựng nông thôn mới của huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

Đức Phổ là một huyện đồng bằng, nằm về phía Đông Nam tỉnh Quảng Ngãi, tiếp giáp với tỉnh Bình Định, có diện tích tự nhiên 37.276 ha, dân số trên 146.183 người. Huyện Đức Phổ có 14 xã: Phổ AnPhổ ChâuPhổ CườngPhổ HòaPhổ KhánhPhổ MinhPhổ NhơnPhổ NinhPhổ PhongPhổ QuangPhổ ThạnhPhổ ThuậnPhổ VănPhổ Vinh và thị trấn Đức Phổ. Triển khai thực hiện Chương trình MTQG XD NTM là nhiệm vụ trọng tâm; do đó huyện xác định đích đến cuối cùng là nâng cao đời sống người dân. Quan trọng hơn, XD NTM phải thật sự trở thành phong trào quần chúng rộng khắp với sự vào cuộc đầy đủ, quyết liệt của các cấp, ngành, đặc biệt là nhân dân – chủ thể thụ hưởng thành quả từ xây dựng nông thôn mới. Một trong những thành công quan trọng trong xây dựng nông thôn mới của Đức Phổ là huy động được mọi nguồn lực, đặc biệt là sức dân. Huyện đã phát huy và nhân rộng mô hình đường làng, ngõ xóm sáng – xanh – sạch – đẹp cùng với mô hình “nhân dân hiến đất và đóng góp ngày công lao động làm đường làng, ngõ xóm” với tổng diện tích hiến đất 15.125 m2 đất và trên 56.000 ngày công. Trong 6 năm, huy động trên 1.700 tỷ đồng (trong đó ngân sách nhà nước là 233 tỷ đồng) được huy động để đầu tư xây dựng nông thôn mới. Huyện đã tập trung xây dựng và hoàn chỉnh nhiều công trình quan trọng về kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tại các xã, nhất là giao thông nông thôn, thủy lợi, nước sạch, trường học, chợ nông thôn, các thiết chế văn hóa. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, với mức thu nhập 30 triệu đồng/người/năm (gấp 1,5 lần so với năm 2013), tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 2,8% xuống còn dưới 1%.

Đến cuối năm 2017, huyện Đức Phổ đã có 2 xã đạt chuẩn xã NTM là Phổ Vinh, Phổ Hòa; 2 xã đạt từ 16 – 18 tiêu chí là Phổ An, Phổ Ninh, 10 xã còn lại đạt từ 10 – 14 tiêu chí. Để có kết quả đó là nhờ huyện đã vận dụng cơ chế, chính sách của thành phố một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế địa phương, tiết kiệm tối đa kinh phí nhưng lại có hiệu quả cao. Công tác dồn điền đổi thửa được huyện đặc biệt quan tâm. Năm 2017 toàn huyện đã triển khai dồn được 813 ha đất nông nghiệp (đạt 100% theo kế hoạch), không có đơn thư khiếu kiện. Ngay sau dồn điền đổi thửa, huyện Đức Phổ đã ban hành cơ chế hỗ trợ phát triển kinh tế với tổng kinh phí hơn 23,6 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ đầu tư 92 máy phục vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Ngoài mô hình trồng cây ăn quả có múi, huyện vận động nhân dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, bước đầu đã hình thành vùng sản xuất lúa tập trung, vùng nuôi trồng thủy sản và mô hình kinh tế trang trại… Nhờ đó, giá trị sản xuất đạt 160 triệu đồng/ha/năm, vượt 45 triệu đồng so với Nghị quyết Đại hội. Dẫu vẫn còn khó khăn về cơ chế, chính sách, thu hút đầu tư, song trong nhiệm kỳ 2015 – 2020, Đảng bộ huyện Đức Phổ sẽ tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với ứng dụng khoa học kỹ thuật, nâng cao giá trị canh tác lên 210 triệu đồng/ha/năm.

Tình đến nay, huyện Đức Phổ đã bê tông xi măng, sửa chữa nâng cấp trên 125 km đường giao thông nông thôn; có 14 trường học được đầu tư xây dựng, nâng tổng số trường chuẩn của huyện lên 48 trường, đạt tỷ lệ 75%; 46 nhà văn hóa được xây dựng mới, cải tạo bảo đảm làng nào cũng có nhà văn hóa; 14/14 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Hệ thống chính trị cơ sở được củng cố, dân chủ được mở rộng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Tuy nhiên, đến nay việc XD NTM trên địa bàn huyện đang gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn do huy động nguồn lực từ đấu giá quỹ sử dụng đất chậm do thị trường bất động sản chững lại. Huy động vốn từ các doanh nghiệp hạn chế. Huy động vốn từ nhân dân rất chậm, khó do ảnh hưởng chung từ nền kinh tế. Lực lượng cán bộ làm NTM còn mỏng, ít kinh nghiệm, phải kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ. Về cơ chế, chính sách, các văn bản của thành phố chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế khi thực hiện (nguồn trang Thông tin điện tử, huyện Đức Phổ).

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DONG A\LUAN VAN DONG A\DO HUU HIEU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *