Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai

  1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn

“Khi thời kỳ khó khăn qua đi, vị thế của một ngân hàng so với các đối thủ cạnh tranh trên đường đua lúc đó sẽ phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản trị của ngân hàng ngay từ lúc này. Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận rằng trong thời kỳ kinh tế phát triển, các ngân hàng thương mại (NHTM) đã quá mải mê chạy theo các hoạt động tìm kiếm lợi nhuận, tập trung chủ yếu vào các mục tiêu trước mắt mà lơ là việc xây dựng hệ thống quản trị rủi ro.”- Phó Tổng giám đốc Vietcombank Nguyễn Thu Hà, nhận định như vậy khi đề cập đến vấn đề quản trị rủi ro của NHTM Việt Nam trước ảnh hưởng của suy thoái kinh tế. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế tất yếu xuất hiện quan hệ tín dụng giữa các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Sự luân chuyển dòng vốn giữa một bên CẦN vốn và một bên CÓ vốn nhàn rỗi đã xuất hiện quan hệ tín dụng. Ngân hàng là một trung gian tài chính có chức năng: Nhận tiền gửi của dân cư, tài chính kinh tế, tài chính tín dụng và cho vay lại các thành phần kinh tế với lãi suất thích hợp. Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự thanh khoản trong nền kinh tế. Do đó công tác quản trị rủi ro tín dụng có vai trò cực kỳ quan trọng và cần thiết đối với các ngân hàng nói riêng và cả hệ thống tài chính nói chung. Mục đích nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý thuyết cơ bản của quản rủi ro tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó, đề tài còn phân tích và đánh giá quá trình hoạt động của ngân hàngTMCP Ngoại thương nhằm đưa ra được những cái nhìn đứng đắn về quá trình hoạt động quản trị rủi ro của doanh nghiệp, để góp phần xây dựng lên một hệ thống quản trị rủi ro tín dụng hoàn thiện hơn cho doanh nghiệp cũng như đưa ra được những giải pháp hiệu quả cho quá trình quản trị rủi ro của ngân hàng TMCP Ngoại thương nói riêng, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung. Việc đánh giá, thẩm định và quản lý tốt các khoản cho vay, các khoản dự định giải ngân sẽ hạn chế những rủi ro tín dụng mà ngân hàng sẽ gặp phải, và tất yếu sẽ giảm bớt nợ xấu cho Ngân hàng. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: – Đối tượng nghiên cứu là tình hình hoạt động và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng Vietcombank – Phạm vi nghiên cứu tập trung vào việc tài trợ vốn dưới hình thức tín dụng tại khu chi nhánh Gia Lai.

Bên cạnh đó, việc kinh doanh của các Ngân hàng thương mại trong nước hầu như tập trung vào tăng cường hoạt động tín dụng, nhưng chất lượng hoạt động tín dụng trong nước lại chưa cao, việc quản trị rủi ro tín dụng còn nhiều bất cập, tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn vẫn luôn là nỗi lo lớn các nhà quản trị rủi ro. Thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tới hơn 80% thu nhập của các Ngân hàng trong nước và nếu rủi ro tín dụng xảy ra thì thu nhập của các Ngân hàng sẽ sụt giảm đáng kể. Nếu điều này xảy ra thường xuyên với quy mô lớn sẽ làm giảm uy tín của Ngân hàng, thậm chí có thể đẩy Ngân hàng đến nguy cơ phá sản, đồng thời gây tác động tiêu cực đến toàn hệ thống Ngân hàng trong nước.

Thực tế công tác quản trị rủi ro tín dụng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam thời gian qua cũng đã bộc lộ những yếu kém, rất nhiều Ngân hàng thương mại trong nước đã phải gánh chịu hậu quả lớn do rủi ro tín dụng gây ra. Dù là từ nguyên nhân chủ quan hay khách quan thì việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng là rất cần thiết nhằm tạo ra sự tăng trưởng tín dụng một cách ổn định và bền vững đối với hệ thống các Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai nói riêng.

Ttrong quá trình hoạt động, Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai (VietcomBank Gia Lai) luôn quan tâm đến công tác quản trị rủi ro tín dụng. Vì vậy trong giai đoạn 2013-2015 tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của chi nhánh luôn thấp hơn 1%. Tuy nhiên, tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng có xu hướng tăng dần từ năm 2013 trở đi. Đây là một dấu hiệu cho thấy rủi ro tín dụng có xu hướng gia tăng.

Xuất phát từ thực trạng hoạt động tín dụng và công tác quản trị rủi ro tín dụng tại VietcomBank Gia Lai, đồng thời xác định được tính cấp thiết của việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu “Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

3. Mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn

3.1 Mục tiêu

Đề tài nghiên cứu này được thực hiện nhằm hệ thống hóa cơ sở khoa học về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại; thông qua việc phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của VietcomBank Gia Lai để đánh giá công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng; Từ đó, đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng cho VietcomBank Gia Lai để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

3.2 Mục tiêu cụ thể

– Hệ thống hóa cơ sở khoa học về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.

– Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của VietcomBank Gia Lai; qua đó đánh giá công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng.

– Đánh giá những thành công và hạn chế của công tác quản trị rủi ro tín dụng trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp và kiến nghị thích hợp nhằm hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng của VietcomBank Gia Lai.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1 Đối tượng nghiên cứu

– Cơ sở khoa học về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại;

– Công tác quản trị rủi ro tín dụng của VietcomBank Gia Lai.

– Những giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng của VietcomBank Gia Lai.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

– Về mặt nội dung: Quản trị rủi ro tín dụng tại VietcomBank Gia Lai

– Về mặt không gian: Nghiên cứu về công tác quản trị rủi ro tại VietcomBank Gia Lai.

– Về mặt thời gian: Số liệu phân tích thực trạng trong giai đoạn 2013-2017; Các giải pháp đưa ra trong giai đoạn từ năm 2018 trở đi.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1 Phương pháp thu thập số liệu.

Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật tự nhiên và biện chứng duy vật lịch sử. Khi sử dụng phương pháp luận này sẽ cho phép trong nghiên cứu đứng trên quan điểm toàn diện, lịch sử cụ thể đồng thời vận dụng các nguyên lý của phép biện chứng về mối quan hệ phổ biến và vận động. Điều này giúp cho việc xác định, phân loại nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng và những mối liên hệ của quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng, từ đó đưa ra các đánh giá và nhận xét khách quan phù hợp với thực tế.

5.2 Phương pháp xử lý,phân tích số liệu

Trong quá trình thực hiện đề tài này, sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu

Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng để xây dựng khung lý thuyết cho đề tài nghiên cứu. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp này để nghiên cứu những đề tài, luận văn và báo cáo khoa học về quản trị rủi ro tín dụng đã được thực hiện để tham khảo và học tập kinh nghiệm. Phương pháp này cũng được sử dụng để nghiên cứu các văn bản pháp quy về Ngân hàng và các hoạt động của Ngân hàng, các tài liệu của VietcomBank Gia Lai để phục vụ cho việc phân tích sau này.

+ Phương pháp thu thập số liệu

Phương pháp sơ cấp: sao chép các tài liệu, số liệu do Ngân hàng cung cấp.

Phương pháp thứ cấp: sàng lọc phân tích đánh giá số liệu.

+Phương pháp xử lý số liệu

Phương pháp phân tích thống kê như các thống kê mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích cơ cấu, phân tích xu hướng và phương pháp phân tích chỉ số để phân tích và đánh giá hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận

Đề tài hệ thống hóa một cách ngắn ngọn nhưng khá đầy đủ những vấn đề lý luận căn bản về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM dựa trên nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Vì vậy, kết quả của đề tài này có thể được sử dụng như là tài liệu tham khảo về lĩnh vực quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM.

6.2 Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả của đề tài nghiên cứu này là một nguồn thông tin hữu ích cho các nhà quản lý của VietcomBank Gia Lai để đưa ra các quyết định, chính sách phù hợp nhằm hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng trong tương lai, góp phần đảm bảo tính an toàn và nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở khoa học về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai

Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng trong hoạt động của Ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được.

Định nghĩa Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010:

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động Ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm Ngân hàng, tổ chức tín dụng phi Ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.

Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động Ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng bao gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng hợp tác xã.

Ngân hàng thương mại là loại hình Ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.

Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động Ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của KH. Tổ chức tín dụng phi Ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi Ngân hàng khác.

1.1.2. Các hoạt động của Ngân hàng thương mại

Theo Luật các tổ chức tín dụng, các hoạt động chủ yếu của NHTM bao gồm:

  • Hoạt động huy động vốn:

NHTM được huy động vốn dưới các hình thức sau:

– Nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các TCTD khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác;

– Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước;

– Vay vốn của các TCTD khác hoạt động tại Việt Nam và của các TCTD hoạt động tại nước ngoài;

– Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHNN.

  • Hoạt động cấp tín dụng:

NHTM được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của NHNN như bao thanh toán, tài trợ nhập khẩu, tài trợ xuất khẩu, cho vay thấu chi, cho vay theo hạn mức tín dụng, hạn mức tín dụng dự phòng…Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.

  • Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ:

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ của NHTM bao gồm các hoạt
động sau:

– Cung cấp các phương tiện thanh toán;

– Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;

– Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ;

– Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép;

– Thực hiện dịch vụ thu và phát triển tiền mặt cho khách hàng;

– Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên Ngân hàng trong nước;

– Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép.

  • Các hoạt động khác:

Ngoài các hoạt động truyền thống trên, NHTM còn thực hiện một số hoạt động khác, bao gồm: Góp vốn và mua cổ phần; Tham gia thị trường tiền tệ; Kinh doanh ngoại hối; Ủy thác và nhận ủy thác; Cung ứng dịch vụ bảo hiểm; Tư vấn tài chính; Bảo quản vật quý giá: cho thuê két sắt, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.

1.1.3. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.3.1. Khái niệm về tín dụng

“Tín dụng” xuất phát từ tiếng Latin là Creditium, có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì “tín dụng” được hiểu là sự vay mượn. Theo từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tín dụng là một phạm trù kinh tế và nó là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Tín dụng ra đời, tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội. Quan hệ tín dụng được phát sinh ngay từ thời kỳ chế độ công xã nguyên thủy bắt đầu tan rã. Khi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất xuất hiện, cũng đồng thời xuất hiện quan hệ trao đổi hàng hóa thì tín dụng được thực hiện dưới hình thức vay mượn bằng hiện vật – hàng hóa. Về sau, tín dụng đã chuyển sang hình thức vay mượn bằng tiền tệ.

Tín dụng có thể được xem là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người sử dụng và sau đó hoàn trả lại với một lượng giá trị lớn hơn. Nó thể hiện ở ba nội dung: sự chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị từ người này sang người khác; sự chuyển giao này mang tính tạm thời và khi hoàn lại lượng giá trị đã chuyển giao cho người sở hữu phải trả kèm theo một lượng giá trị dôi thêm gọi là lợi tức.

Thực chất, tín dụng là biểu hiện mối quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tín dụng nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vốn tạm thời cho quá trình tái sản xuất và đời sống, theo nguyên tắc hoàn trả.

Theo Nguyễn Minh Kiều (2008), tín dụng Ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ Ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định.

Cũng như quan hệ tín dụng khác, tín dụng Ngân hàng chứa đựng ba nội dung sau:

– Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng.

– Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính chất tạm thời.

– Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí.

Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai
Quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Gia Lai

1.1.3.2. Các hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại

Theo Điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, hoạt động cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác

Hoạt động tín dụng là hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của NHTM. Hoạt động tín dụng cùng với hoạt động đầu tư cấu thành bộ phận chủ yếu và quan trọng của tài sản Có của NHTM.

1.1.3.3. Phân loại tín dụng

Tín dụng Ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau theo những tiêu thức phân loại khác nhau:

  • Căn cứ vào thời hạn tín dụng

Tùy theo mỗi quốc gia khác nhau mà quy định thời hạn tín dụng có thể khác nhau. Theo cách phân loại này, ở Việt Nam tín dụng được chia thành 3 loại:

+ Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm, nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, bổ sung nhu cầu vốn lưu động hoặc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân.

Đặc điểm: đây là loại tín dụng có mức rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về lãi suất, về lạm phát cũng như sự bất ổn của môi trường kinh tế vĩ mô, vì thế lãi suất thường thấp hơn các loại tín dụng khác.

+ Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này thường được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh.

+ Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm. Loại tín dụng này thường được sử dụng để phát triển quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc theo chiều sâu và kết quả là tăng mức sản xuất và của cải xã hội.

  • Căn cứ theo mục đích sử dụng vốn vay

+ Tín dụng đầu tư: là loại tín dụng được cung cấp cho các doanh nghiệp để tiến hành sản xuất và kinh doanh.

+ Tín dụng tiêu dùng: là hình thức tín dụng cấp phát cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.

  • Căn cứ vào đối tượng tín dụng

+ Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu.

+ Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới.

  • Căn cứ vào mức độ bảo đảm

+ Tín dụng có bảo đảm: là hình thức tín dụng có TSBĐ hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay.

+ Tín dụng không có bảo đảm: là hình thức tín dụng không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh mà hoàn toàn dựa trên uy tín của KH.

  • Căn cứ vào mức độ rủi ro

Cách phân loại này đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các nhà quản trị Ngân hàng đánh giá mức độ rủi ro của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Theo cách phân loại này, tín dụng được phân thành:

+ Tín dụng lành mạnh: là các khoản tín dụng an toàn, có khả năng thu hồi vốn cao.

+ Tín dụng có vấn đề: là những khoản tín dụng đã quá hạn với thời hạn ngắn và KH có kế hoạch khắc phục tốt, TSBĐ có giá trị lớn.

+ Tín dụng quá hạn khó thu hồi: là những khoản tín dụng quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ kém, TSBĐ bị giảm giá hoặc mất giá…

Ngoài ra, trong quá trình phân loại, người ta còn phân chia tín dụng căn cứ vào xuất xứ tín dụng, phương pháp hoàn trả và một số các căn cứ khác tuỳ theo mục tiêu nghiên cứu.

1.1.4. Rủi ro tín dụng

1.1.4.1. Định nghĩa về rủi ro tín dụng

Để tìm hiểu về rủi ro tín dụng trong hoạt động Ngân hàng trước hết cần tìm hiểu thế nào là rủi ro ?

Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro:

Theo Frank Knight (1921), rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được.

Theo Allan Willet(1951), rủi ro là sự bất trắc cụ thể liên quan đến việc xuất hiện một biến cố không mong đợi.

Theo Nguyễn Hải Sản (1996), rủi ro thường được định nghĩa là xác suất có thể xảy ra một thiệt hại. Nó là sự may rủi về một hậu quả không có lợi hay là sự tiến triển dẫn tới kết quả gây ra một thiệt hại kinh tế đối với cá nhân hoặc một công ty.

Các định nghĩa đó đều có điểm chung là đề cập đến hai vấn đề:

– Sự không chắc chắn, yếu tố bất trắc.

– Một khả năng xấu: một biến cố không mong muốn.

Tuy nhiên, không phải một sự không chắc chắn nào cũng là rủi ro. Chỉ có những tình trạng không chắc chắn nào đó có thể ước đoán được xác suất xảy ra mới được xem là rủi ro.

P. Volker, cựu chủ tịch Cục dự trữ liên bang Mỹ cho rằng: “ Nếu Ngân hàng không có những khoản vay tồi thì đó không phải là hoạt động kinh doanh”. Như vậy, cũng như các hoạt động kinh doanh khác, hoạt động Ngân hàng luôn hàm chứa rủi ro, đặc biệt và thường xuyên là rủi ro tín dụng. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro tín dụng:

Theo A.Saunder và H.Lange, rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi Ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng.

Theo The World Bank, rủi ro tín dụng tức là việc chi trả bị trì hoãn hoặc tồi tệ hơn là không được chi trả toàn bộ, điều này gây ra sự cố đối với dòng chu chuyển tiền tệ và ảnh hưởng tới khả năng thanh khoản của Ngân hàng.

Theo Phan Thị Thu Hà (2005), rủi ro tín dụng là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với Ngân hàng, gây tổn thất cho Ngân hàng.

Như vậy, khi Ngân hàng thực hiện cấp tín dụng cho khách hàng thì Ngân hàng có thể đối mặt với rủi ro khách hàng không thể trả đầy đủ gốc, lãi hay cả gốc và lãi của khoản vay đúng cam kết. Khi thực hiện giao dịch tín dụng, từ lúc giải ngân cho đến khi thu hồi vốn về lúc này Ngân hàng chưa biết chắc giao dịch đó hoàn thành hay không. Do đó, rủi ro tín dụng thể hiện ở khả năng hay xác suất hoàn thành giao dịch tín dụng đó.

1.1.4.2. Các bộ phận của rủi ro tín dụng

Theo Nguyễn Minh Kiều (2009), rủi ro tín dụng gồm 2 bộ phận là rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.

– Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch, đánh giá khách hàng và xét duyệt cho vay. Rủi ro giao dịch bao gồm:

+ Rủi ro xét duyệt: rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích tín dụng, phương án vay vốn để quyết định tài trợ của Ngân hàng).

+ Rủi ro bảo đảm: liên quan đến chính sách và hợp đồng cho vay như các tiêu chuẩn về bảo đảm mức tiền vay, loại tài sản bảo đảm, chủ thể bảo đảm…

+ Rủi ro kiểm soát: liên quan đến việc theo dõi khoản cho vay.

– Rủi ro danh mục: là rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân thành 2 bộ phận

+ Rủi ro cá biệt: liên quan đến từng loại cho vay.

+ Rủi ro tập trung cho vay: liên quan đến đến việc kém đa dạng hóa cho vay như cho vay quá nhiều vào một số khách hàng, một ngành kinh tế hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định hoặc có thể là cùng một loại hình cho vay có rủi ro cao.

Rủi ro tín dụng

Rủi ro giao dịch

Rủi ro danh mục

Rủi ro xét duyệt

Rủi ro kiểm soát

Rủi ro cá biệt

Rủi ro tập trung cho vay

Rủi ro bảo đảm

Hình 1.1. Các bộ phận của rủi ro tín dụng

(Nguồn: Nguyễn Minh Kiều, Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, 2009)

1.1.4.3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

Kinh doanh Ngân hàng cũng giống như bất kỳ các hoạt động kinh doanh khác luôn luôn đối diện với rủi ro. Vì vậy, việc nhận diện những nguyên nhân gây ra rủi ro rất quan trọng, trên cơ sở đó mà Ngân hàng đưa ra biện pháp phòng ngừa hiệu quả và giảm thiệt hại cho chính bản thân mình. Có các nhóm nguyên nhân cơ bản sau:

  • Nguyên nhân khách quan

Chính sách kinh tế của Nhà nước (như chính sách về tỷ giá, về lãi suất…) phải thay đổi cho phù hợp với những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới vì nếu nền kinh tế có biến động mà Nhà nước không có những chính sách điều hành đúng đắn và kịp thời nhằm can thiệp vào nền kinh tế thì tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn, dẫn đến khả năng trả nợ lãi và gốc cho Ngân hàng bị hạn chế và nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng là cao.

Mặc dù luật các TCTD và các văn bản hướng dẫn thi hành có quy định việc TCTD có quyền xử lý TSBĐ của KH khi KH không trả nợ vay nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thực tiễn cho thấy TCTD không có chức năng trực tiếp cưỡng chế mà phải thông qua Tòa án xử lý, thời gian chờ Tòa án thụ lý hồ sơ là cả một quá trình và việc tiến hành phát mãi, xử lý TSBĐ vẫn còn nhiều vấn đề gây ra sự chậm trễ trong việc thu hồi nợ vay. Đối với hầu hết các Ngân hàng khi có rủi ro tín dụng xảy ra sẽ tiến hành thu hồi nợ bằng nhiều biện pháp và TSBĐ là nguồn thu nợ hữu hiệu nhất đối với các TCTD.

Những khủng hoảng về kinh tế thế giới, kinh tế trong nước, biến động của thị trường, tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không đảm bảo khả năng thanh toán nợ vay cho Ngân hàng và rủi ro tín dụng xảy ra.

Bên cạnh đó thiên tai, những thay đổi bất thường về thời tiết, tác động xấu đến điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho Ngân hàng. Bởi vì, khi doanh nghiệp bị khó khăn do ảnh hưởng của thiên tai, thời tiết…dẫn đến khả năng trả nợ của KH bị hạn chế và nguy cơ mất vốn của Ngân hàng là tương đối cao.

  • Nguyên nhân chủ quan

– Từ phía khách hàng vay vốn:

+ Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh do trình độ và khả năng quản lý còn yếu kém. Việc xây dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chưa khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng không phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế của thị trường.

+ Khách hàng vay sử dụng vốn vay không đúng mục đích: Ngân hàng cấp tín dụng cho KH trên cơ sở phương án sử dụng vốn vay có hiệu quả. Tuy nhiên, trên thực tế khi nhận được tiền vay, một số KH không sử dụng đúng mục đích như phương án đã lập ban đầu, mà đem số tiền đó đầu tư vào các mục đích khác nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn.

+ Thiếu minh bạch và chính xác trong việc cung cấp các báo cáo tài chính: Phần lớn các doanh nghiệp đều có hai đến ba báo cáo với số liệu khác nhau về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh, một báo cáo để theo dõi tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp, một báo cáo để nộp cho cơ quan thuế và báo cáo còn lại là để giải trình cho Ngân hàng khi có nhu cầu vay vốn. Hầu hết các số liệu trong báo cáo cung cấp cho Ngân hàng không còn tính trung thực, họ đưa ra những thông tin sai lệch nhằm đảm bảo các điều kiện để được Ngân hàng cấp tín dụng. Vì vậy, khi nhân viên Ngân hàng phân tích tình hình tài chính và kết quả kinh doanh dựa trên số liệu do các doanh nghiệp này cung cấp thì sẽ không chính xác.

– Từ phía Ngân hàng:

+ Chính sách tín dụng của Ngân hàng không phù hợp với tình hình thực tế: Chính sách tín dụng của Ngân hàng không hợp lý, Ngân hàng không thực hiện việc phân tán rủi ro mà tập trung cho vay đối với một số nhóm KH, một số ngành nghề nhất định. Việc cho vay quá nhiều vào một doanh nghiệp hoặc một ngành kinh tế nào đó dẫn đến rủi ro rất cao cho Ngân hàng khi nhóm KH đó gặp khó khăn hoặc ngành nghề kinh tế mà doanh nghiệp đó đang hoạt động không còn hấp dẫn với thị trường.

+ Trình độ, năng lực chuyên môn của một số nhân viên Ngân hàng còn hạn chế: Trình độ, năng lực chuyên môn của một số nhân viên làm công tác tín dụng còn hạn chế nên đã làm ảnh hưởng đến việc đánh giá đúng tình hình hoạt động của KH. Từ đó, không phân tích được các báo cáo tài chính với kết quả chuẩn xác, không phát hiện ra được những số liệu không phù hợp với tình hình thực tiễn của doanh nghiệp, không am hiểu về thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẫn đến cấp tín dụng và đầu tư không hợp lý.

+ Hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ Ngân hàng chưa được chú trọng: Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ Ngân hàng có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, kiểm tra và giám sát các khoản vay nhằm kịp thời phát hiện ra những sai sót và những vấn đề bất hợp lý có thể sẽ dẫn đến rủi ro cho Ngân hàng để có những giải pháp xử lý kịp thời, hạn chế rủi ro xảy ra. Tuy nhiên, trên thực tế công việc kiểm tra, kiểm soát nội bộ của các Ngân hàng hầu như chỉ tồn tại dưới dạng hình thức, chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, bộ phận kiểm tra kiểm soát nội bộ cần phải được xem như một công cụ hữu hiệu trong vấn đề phát hiện, phòng ngừa rủi ro tín dụng.

+ Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay: Các Ngân hàng thường có thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà không chú trọng trong quá trình kiểm tra, giám sát vốn sau khi cho vay. Khi Ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được theo dõi và giám sát việc sử dụng vốn vay nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích với phương án vay ban đầu. Tuy nhiên, trong thời gian qua các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần là do yếu tố tâm lý sợ gây phiền hà cho KH, một phần do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu.

+ Đạo đức nghề nghiệp của một số nhân viên Ngân hàng: Lĩnh vực tín dụng Ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, nhân viên Ngân hàng rất dễ bị cám dỗ bởi những cái lợi trước mắt mà người vay đem đến và sẽ cực kỳ nguy hiểm khi cán bộ Ngân hàng bị tha hóa, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, bất chấp pháp luật, cố tình không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành đúng quy trình cho vay, không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần thiết, không đảm bảo các nguyên tắc cần thiết của TSBĐ… Thực tế, đã có nhiều trường hợp xảy ra do nhân viên Ngân hàng tiếp tay với KH làm giả hồ sơ vay, định giá TSBĐ lên quá cao so với giá trị trên thị trường để rút tiền Ngân hàng nhằm mục đích trục lợi cá nhân.

+ Rủi ro từ việc nhận tài sản bảo đảm không đúng quy định: Rủi ro có thể xảy ra rất lớn khi Ngân hàng nhận TSBĐ mà không thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý cần thiết theo quy định (như công chứng tài sản, đăng ký giao dịch bảo đảm tài sản, mua bảo hiểm vật chất cho các TSBĐ…); Ngân hàng không tuân thủ quy định hiện hành về định giá TSBĐ nên đã định giá TSBĐ quá cao so với giá trị thực tế. Điều này sẽ đem lại rủi ro cao khi xử lý TSBĐ để thu hồi nợ.

Tóm lại, trên thực tế rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan. Do vậy, bên cạnh việc đánh giá, nhận định các yếu tố kinh tế vĩ mô, các NHTM cần phải có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng ngay từ khi bắt đầu đi thẩm định, kiểm tra tình thực tế để xem xét cho vay và khi cho vay xong thì trong suốt quá trình thu nợ Ngân hàng cũng cần phải quan tâm theo dõi hoạt động kinh doanh của KH một cách chặt chẽ, phải có những biện pháp cụ thể để tránh gặp phải những rủi ro có thể phát sinh do các nguyên nhân trên gây ra.

1.1.4.4. Hậu quả của rủi ro tín dụng

  • Đối với Ngân hàng

– Rủi ro tín dụng là nguyên nhân chủ yếu tạo ra sự tổn thất về vốn của các Ngân hàng thương mại

Thường thu nhập của các NHTM được đem lại chủ yếu là từ nguồn thu nhập của hoạt động tín dụng, do đó rủi ro tín dụng là nguyên nhân chủ yếu gây ra sự tổn thất về vốn, thu nhập cho các NHTM. Vì vậy, rủi ro tín dụng được xem là một trong những nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi các Ngân hàng phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả. Một khi Ngân hàng chấp nhận nhiều khoản cho vay có rủi ro tín dụng cao thì Ngân hàng có khả năng phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn hay tính thanh khoản thấp. Điều này có thể làm giảm hoạt động kinh doanh cũng như lợi nhuận của Ngân hàng, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Chính vì vậy các NHTM cần phải chú trọng hơn nữa đến quản trị rủi ro tín dụng để có những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa và hạn chế tối đa rủi ro tín dụng xảy ra.

– Rủi ro tín dụng là thước đo năng lực kinh doanh, quản lý chất lượng tín dụng của các Ngân hàng thương mại

Tình hình kinh tế ngày càng có nhiều biến động, thị trường tài chính, tiền tệ và Ngân hàng cũng diễn biến phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Mặc dù, trước khi cho vay nhân viên Ngân hàng đã tìm hiểu thị trường và dự đoán những rủi ro có thể xảy ra nhưng sự tiên liệu, phát hiện rủi ro tiềm ẩn và ứng phó của nhân viên Ngân hàng là có giới hạn. Trên thực tế rủi ro tín dụng phát sinh do nhiều nguyên nhân, có thể do nguyên nhân khách quan, chủ quan hay do bất khả kháng…Vì vậy, công tác quản trị rủi ro tín dụng phải được xem là một nhiệm vụ chủ đạo và là thước đo năng lực kinh doanh của các NHTM để ngăn ngừa và hạn chế tối đa những tổn thất do rủi ro tín dụng gây ra.

  • Đối với doanh nghiệp

Khi Ngân hàng đối mặt với rủi ro tín dụng nếu không thể khắc phục có thể dẫn đến phá sản, khi đó các doanh nghiệp làm ăn tốt sẽ không thể tiếp tục vay vốn tài trợ cho các hoạt động của mình. Thiếu vốn làm cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị đình trệ. Điều này sẽ dẫn đến giảm sản lượng, công nhân thất nghiệp kéo theo toàn bộ nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm và làm cho xã hội mất ổn định.

1.2. Quản trị rủi ro tín dụng

1.2.1. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng

Thực tế mọi đơn vị và doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh đều đối mặt với rủi ro và hoạt động Ngân hàng cũng không ngoại lệ. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với Ngân hàng rất khó khắc phục vì vậy vấn đề quản trị rủi ro luôn được Ngân hàng quan tâm.

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chính sách và biện pháp quản lý tín dụng nhằm đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững.

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình Ngân hàng tác động đến hoạt động tín dụng thông qua bộ máy và công cụ quản lý để phòng ngừa, cảnh báo, đưa ra các biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc thu gốc và lãi đúng hạn.

Tóm lại, có thể đề cập khái niệm quản trị rủi ro tín dụng ở các góc độ khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị học, có thể diễn giải khái niệm: Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.

1.2.2. Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng

  • Mức độ rủi ro trong hoạt động tín dụng ngày càng gia tăng

Sự cần thiết của quản trị rủi ro tín dụng không chỉ xuất phát từ tính chất phức tạp và nguy cơ rất lớn của rủi ro tín dụng mà còn do xu hướng kinh doanh của ngân hàng ngày nay càng trở nên rủi ro hơn. Theo nghiên cứu của các chuyên gia, trong giai đoạn từ 1970 đến 1995, trên thế giới trung bình một năm có một cuộc khủng hoảng ngân hàng; thì trong giai đoạn 1980 đến 1995, tỉ lệ này là 1,44. Một số nguyên nhân chủ yếu làm cho mức độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng ngày càng gia tăng bao gồm:

Thứ nhất, do quá trình tự do hóa, nới lỏng quy định trong hoạt động ngân hàng trên phạm vi toàn thế giới. Trong những thập kỷ gần đây, xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa kinh tế, đề cao cạnh tranh đã trở thành phổ biến. Khi gia tăng cạnh tranh cũng đồng nghĩa với rủi ro và phá sản gia tăng. Trong lĩnh vực ngân hàng, cạnh tranh làm cho chênh lệch lãi suất biên ngày càng giảm xuống. Tác động này làm cho các ngân hàng ngày càng có xu hướng mở rộng quy mô kinh doanh để bù đắp sự sụt giảm lợi nhuận, trong đó mở rộng quy mô tín dụng đồng nghĩa với việc rủi ro tín dụng cũng có nguy cơ gia tăng. Bên cạnh đó, quy luật đào thải của cạnh tranh sẽ làm tăng mức độ phá sản của các khách hàng của ngân hàng kéo theo sự thiệt hại cho ngân hàng

Thứ hai, hoạt động kinh doanh của ngân hàng ngày càng theo xu hướng đa năng, với công nghệ ngày càng phát triển, cùng với xu hướng hội nhập cạnh tranh gay gắt vừa tăng thêm mức độ rủi ro và nguy cơ rủi ro mới.Trong lĩnh vực tín dụng các sản phẩm tín dụng có bước phát triển mạnh mẽ, vượt xa so với sản phẩm tín dụng truyền thống. Các sản phẩm tín dụng dựa trên cơ sở của sự phát triển công nghệ như thẻ tín dụng, cho vay cá thể… luôn chứa đựng rủi ro mới. Nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì việc mở rộng và đa dạng hóa sản phẩm cũng như phạm vi của hoạt động tín dụng mang ý nghĩa sống còn với các ngân hàng. Với sự đa dạng phức tạp của sản phẩm tín dụng cũng như rủi ro tín dụng càng đòi hỏi quản trị rủi ro tín dụng phải được chú trọng nâng cấp tương xứng.

Thứ ba, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước đang trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam, thì môi trường kinh tế chưa ổn định, hệ thống pháp luật đang xây dựng, mức độ minh bạch của thông tin thấp, thì hoạt động ngân hàng càng trở nên rủi ro hơn, vì vậy việc bắt tay ngay từ đầu thực hiện tốt công tác quản trị rủi ro tín dụng là một công việc tối quan trọng.

  • Quản trị rủi ro tốt là một lợi thế cạnh tranh và là công cụ tạo ra giá trị của ngân hàng thương mại

Quản trị rủi ro tín dụng được thực hiện tốt sẽ tạo điều kiện cho Ngân hàng sàng lọc được những KH có năng lực pháp lý tốt, năng lực tài chính mạnh, có tiềm năng phát triển… nhằm giúp cho việc tài trợ vốn của Ngân hàng thực sự mang lại hiệu quả và sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong quá trình cạnh tranh.

  • Rủi ro tín dụng là nguyên nhân chủ yếu tạo ra đổ vỡ của ngân hàng

Sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng tại Việt Nam trong những năm 1989 – 1990 do chất lượng các khoản cho vay yếu kém, không thu hồi được. Những năm 1999-2000, cũng từ nguyên nhân này NHNN đã đặt một số ngân hàng vào tình trạng giám sát đặc biệt, những vụ án lớn và việc xử lý một khối lượng hàng ngàn tỷ đồng nợ tồn đọng của các ngân hàng từ năm 2000 về trước đều bắt nguồn từ những khoản cho vay khó đòi. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 bắt nguồn từ Đông Nam Á đã làm cho nhiều ngân hàng ở châu Á bị mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, hoặc buộc phải sáp nhập, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng tăng cao. Thời điểm trước cuộc khủng hoảng, tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng Thái Lan là 13%, Indonesia 13%, Phillipine 14%, Malaysia 10%. Năm 2008 xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ bắt nguồn từ làn sóng cho vay thế chấp nhà đất rủi ro cao đã minh chứng rất rõ căn nguyên cơ bản tạo ra ở vấn đề của ngân hàng là rủi ro tín dụng. Vì vậy, vấn đề quản trị rủi ro tín dụng luôn luôn là vấn đề sống còn của ngân hàng thương mại.

1.2.3. Các mô hình quản trị rủi ro tín dụng

Hiện nay ở Việt Nam đang có hai mô hình quản trị rủi ro tín dụng phổ biến được áp dụng. Đó là mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung và mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán với những ưu, nhược điểm đặc trưng.

1.2.3.1. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung

Mô hình này có sự tách biệt một cách độc lập giữa 3 chức năng: quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Sự tách biệt giữa 3 chức năng nhằm mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất đồng thời phát huy được tối đa kỹ năng chuyên môn của từng vị trí cán bộ làm công tác tín dụng.

Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung giúp quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo tính cạnh tranh lâu dài. Bên cạnh đó, nó còn thiết lập và duy trì môi trường quản trị rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng lực đo lường giám sát rủi ro. Các hoạt động kinh doanh, tác nghiệp, quản trị rủi ro tín dụng được tách biệt hoàn toàn, độc lập với nhau. Chính vì vậy, mô hình này thích hợp với ngân hàng quy mô lớn.

Tuy nhiên, việc xây dựng và triển khai mô hình quản trị tập trung này đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian. Thêm vào đó, đội ngũ cán bộ phải có kiến thức cần thiết và biết áp dụng lý thuyết với thực tiễn.

1.2.3.2. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán

Mô hình này chưa có sự tách bạch giữa chức năng quản trị rủi ro, kinh doanh và tác nghiệp. Trong đó, phòng tín dụng của ngân hàng thực hiện đầy đủ 3 chức năng và chịu trách nhiệm đối với mọi khâu chuẩn bị cho một khoản vay.

Khác với mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung, cơ cấu tổ chức của mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán gọn nhẹ, đơn giản hơn. Do đó, hồ sơ được giải quyết nhanh chóng, tiết kiệm thời gian cho khách hàng. Với những đặc điểm này mà mô hình phân tán hoàn toàn phù hợp với ngân hàng có quy mô nhỏ.

Mô hình phân tán cũng bộc lộ nhiều nhược điểm như nhiều công việc tập trung hết một nơi, thiếu sự chuyên sâu; việc quản lý hoạt động tín dụng đều theo phương thức từ xa dựa trên số liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc quản lý gián tiếp thông qua chính sách tín dụng.

So sánh hai mô hình trên, đồng thời xuất phát từ đòi hỏi thực tiễn của hoạt động tín dụng, theo khuyến cáo của ủy ban Basel và tuân thủ thông lệ quốc tế, căn cứ vào các điều kiện chung về pháp lý, thị trường, công nghệ, con người, mô hình mà các NHTM nên áp dụng là mô hình quản trị rủi ro tập trung.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DONG A\LUAN VAN DONG A\PHAM THANH TOAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *