Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần

Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần

Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập như hiện nay, một trong những vấn đề đặt ra cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại là khả năng quản trị rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng một cách toàn diện và hệ thống. Phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng là vấn đề khó khăn, phức tạp. rủi ro tín dụng thường khó kiểm soát và dẫn đến những thiệt hại, thất thoát về vốn và thu nhập của ngân hàng. Hoạt động phòng ngừa hạn chế rủi ro tín dụng được thực hiện tốt sẽ đem lại nhiều lợi ích như: Giảm chi phí, nâng cao được thu nhập, bảo toàn vốn cho ngân hàng; Tạo niềm tin cho khách hàng gửi tiền và nhà đầu tư; Tạo tiền đề để mở rộng thị trường và tăng uy tín, vị thế, hình ảnh, thị phần cho ngân hàng.

Thời gian qua, ở Việt Nam hệ thống tổ chức tín dụng đã giữ được ổn định một bước căn bản, nhất là quản trị rủi ro đã có chuyển biến mạnh mẽ và tích cực, từng bước đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quản trị rủi ro trên thị trường tài chính vẫn là vấn đề cần đặc biệt chú trọng của các NHTM Việt Nam, bởi hệ thống ngân hàng đang gánh số nợ xấu cao so với chuẩn quốc tế…Kinh tế – xã hội ngày càng phát triển với trình độ cao, thị trường ngày càng được mở rộng, mối quan hệ trong khu vực và quốc tế ngày càng được gia tăng. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng nói riêng phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội và tiềm năng mà nền kinh tế hội nhập mang lại thì nó gắn liền với nhiều rủi ro và thách thức.

Với xuất thân là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần thì Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên việt có địa bàn hoạt động rộng khắp trên cả nước. Tuy có nhiều lợi thế nhưng Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên việt vẩn không thể tránh khỏi hoàn toàn những khó khăn chung mà nền kinh tế mang lại, không những thế mà ngày càng đối mặt với nhiều rủi ro trong hoạt động tồn tại và phát triển của mình.

Xuất phát từ thực tế tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên việt- Chi nhánh Quảng Bình thì hoạt động tín dụng tuy đã mang lại nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh trong nhiều năm qua, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại rất nhiều hình thái rủi ro mà cơ chế kiểm tra-giám sát hiện chưa thực sự đồng bộ. Chính vì vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là rủi ro tín dụng phải được quản lý, kiểm soát một cách hợp lý và có hiệu quả, đảm bảo rủi ro tín dụng xảy ra trong phạm vi cho phép nhằm giảm thiểu những thiệt hại phát sinh từ rủi ro tín dụng để tăng thêm lợi nhuận kinh doanh cho ngân hàng, góp phần nâng cao uy tín và tạo ra lợi thế cạnh tranh lâu dài. Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề tôi quyết định chọn đề tài “Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình” để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Tổng hợp, hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại.

– Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng, xác định những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

– Qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về rủi ro tín dụng, thực trạng và các biện pháp nhằm quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình trên cơ sở dữ liệu từ năm 2017 đến năm 2019.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đó là: Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và phương pháp diễn giải.

5. Tổng quan tài liệu nghiên cứu đề tài

6. Kết cấu của đề tài

Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo nội dung chính của luận văn được chia thành ba chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại

Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG CÁC NGÂN THƯƠNG MẠI

1.1.1. Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng ngân hàng

1.1.1.1. Khái niệm và bản chất của tín dụng ngân hàng

Khái niệm tín dụng ngân hàng

Danh từ “tín dụng” xuất phát từ gốc latinh “Creditumco” – nghĩa là một sự tín nhiệm, tin tưởng lẫn nhau hay nói một cách khác đó là lòng tin. Còn theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, thì tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.

Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản phẩm của nền sản xuất hàng hoá. Nó tồn tại song song và phát triển cùng với nền kinh tế hàng hoá và là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên những giai đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, đã có nhiều khái niệm khác nhau về tín dụng đ­ược đư­a ra. Song khái quát lại có thể hiểu tín dụng theo khái niệm cơ bản sau:

Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể, trong đó một bên chuyển giao một lư­ợng giá trị sang cho bên kia đư­ợc sử dụng trong một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận đư­ợc phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã thoả thuận.”

Mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:

– Ngư­ời cho vay chuyển giao cho ng­ười đi vay một lư­ợng giá trị nhất định. Giá trị này có thể d­ưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như­: hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.

– Ng­ười đi vay chỉ đư­ợc sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận, ngư­ời đi vay phải hoàn trả cho ngư­ời cho vay.

– Giá trị hoàn trả thông thư­ờng lớn hơn giá trị lúc cho vay ban đầu hay nói cách khác ng­ười đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay).

Tóm lại, tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa các chủ thể trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi.

Bản chất của tín dụng ngân hàng

Bản chất của tín dụng là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình huy động các phương tiện thanh toán tạm thời nhàn rỗi nhằm bù đắp sự tạm thời thiếu hụt về vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế hay tầng lớp dân cư theo nguyên tắc có hoàn trả cả vốn lẫn lãi trong một thời gian nhất định.

Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có đặc trưng sau:

  • Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm ba hình thức là cho vay (bằng tiền), cho thuê (bất động sản và động sản) và tín dụng chữ ký.
  • Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn.
  • Giá trị hoàn trả thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc.
  • Trong quan hệ tín dụng ngân hàng thì tiền vay được cấp dựa trên cơ sở bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.

1.1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng

  • Đối với khách hàng

Trong nền kinh tế thị trường sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một tất yếu khách quan và cũng như các loại hình doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp này cũng sử dụng vốn tín dụng ngân hàng để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn cũng như để tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn của mình. Vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất quan trọng,nó chẳng những thúc đẩy sự phát triển khu vực kinh tế này mà thông qua đó tác động trở lại thúc đẩy hệ thống ngân hàng, đổi mới chính sách tiền tệ hoàn thiện các cơ chế chính sách về tín dụng, thanh toán ngoại hối… Vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện qua một số điểm sau:

+ Tín dụng ngân hàng góp phần đảm bảo cho hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ được liên tục.

Trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại đứng vững và phát triển trong cạnh tranh. Trên thực tế không một doanh nghiệp nào có thể đảm bảo đủ 100% vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng của ngân hàng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị cải tiến phương thức kinh doanh. Từ đó góp phần thúc đẩy tạo điều kiện cho quá trình phát triển sản xuất kinh doanh đựơc liên tục.

+ Tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Khi sử dụng vốn tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp phải tôn trọng hợp đồng tín dụng phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều khoản của hợp đồng cho dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp muốn có vốn tín dụng của ngân hàng phải có phương án sản xuất khả thi. Không chỉ thu hồi đủ vốn mà các doanh nghiệp còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả, tăng nhanh chóng vòng quay vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả.

+ Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Trong nền kinh tế thị trường hiếm doanh nghiệp nào dùng vốn tự có để sản xuất kinh doanh. Nguồn vốn vay chính là công cụ đòn bẩy để doanh nghiệp tối ưu hoá hiệu quả sử dụng vốn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ do hạn chế về vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp vì nếu sử dụng thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Để hiệu quả thì doanh nghiệp phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lý nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay nhằm tối đa hoá lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.

+ Tín dụng ngân hàng góp phần tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ .

Cạnh tranh là một quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, muốn tồn tại và đứng vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, do có một số hạn chế nhất định, việc chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết, tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị kỹ thuật hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát triển trong khi vốn tự có lại hạn hẹp, khả năng tích luỹ thấp thì phải mất nhiều năm mới thực hiện được. Và khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Như vậy có thể đáp úng kịp thời, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ có thể tìm đến tín dụng ngân hàng. Chỉ có tín dụng ngân hàng mới có thể giúp doanh nghiệp thưc hiện được mục đích của mình là mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh.

  • Đối với nền kinh tế

Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, tiền tệ phát triển, góp phần đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông qua chức năng phân phối lại vốn tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả, các nguồn vốn và vật tư được đưa vào luân chuyển và được sử dụng hợp lý trong sản xuất. Tín dụng ngân hàng góp phần thỏa mãn các nhu cầu vốn tiền tệ tạm thời của doanh nghiệp, đảm bảo tính liên tục của quá trình sản xuất cũng như mở rộng sản xuất. Đồng thời tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ cấu tối ưu trong phát triển kinh tế, là phương tiện để Nhà nước cung ứng tiền cho nền kinh tế phù hợp với sự phát triển kinh tế.

Tín dụng ngân hàng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhờ nguồn vốn vay của ngân hàng mà doanh nghiệp có thể khắc phục khi gặp khó khăn trong kinh doanh, hoặc doanh nghiệp có nguồn vốn để mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ…giúp doanh nghiệp ngày càng phát triển.

Tín dụng ngân hàng góp phần mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế toàn cầu, vay nợ nước ngoài trở thành một nhu cầu khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới, nó lại càng tỏ ra bức thiết đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển và nâng cao mức sống vật chất của nhân dân.

  • Đối với ngân hàng

Hoạt động tín dụng góp phần tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại mở rộng được các hoạt động kinh doanh khác nhằm tăng thu nhập cho ngân hàng. Đây là hoạt động sinh lời lớn nhất của ngân hàng với tỷ lệ 70% tổng tài sản. Như vậy nếu hoạt động tín dụng có vấn đề thì ngân hàng cũng khó khăn trong việc kinh doanh.

Tín dụng được xem như là xương sống của ngân hàng, nó quyết định sự tồn tại phát triển của mọi ngân hàng thương mại. Một ngân hàng thương mại chỉ có thể tồn tại và phát triển khi xác định được phạm vi, giới hạn và mức độ tín dụng phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng. Đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng thời hạn và có lãi.

Mặt khác tín dụng ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến vị thế của ngân hàng. Nó là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định vị thế của ngân hàng.

Như vậy, tín dụng ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với ngân hàng mà còn với cả xã hội. Tuy nhiên, để tín dụng ngân hàng phát huy được hết vai trò của nó thì các nhà quản lý ngân hàng cũng như các cơ quan chức năng phải tạo ra một hành lang pháp lý cũng như các quy định chặt chẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho cả bên vay và bên cho vay.

1.1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng

Rủi ro là những biến cố không mong đợi khi xảy ra dẫn đến tổn thất về tài sản của ngân hàng, giảm sút lợi nhuận thực tế so với dự kiến hoặc phải bỏ ra thêm một khoản chi phí để có thể hoàn thành được một nghiệp vụ tài chính nhất định.

Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tín dụng là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng nhưng cũng là nghiệp vụ tiềm ẩn rủi ro rất lớn. Các thống kê và nghiên cứu cho thấy, rủi ro tín dụng chiếm đến 70% trong tổng rủi ro hoạt động ngân hàng. Mặc dù hiện nay đã có sự dịch chuyển trong cơ cấu lợi nhuận của ngân hàng. Theo đó thu nhập từ hoạt động tín dụng có xu hướng giảm xuống và thu dịch vụ có xu hướng tăng lên nhưng thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm từ 1/2 đến 2/3 thu nhập ngân hàng. Vì vậy, rủi ro tín dụng là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây tổn thất và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng kinh doanh ngân hàng.

Rủi ro tín dụng, theo khái niệm cơ bản nhất, “là khả năng khách hàng nhận khoản vốn vay không thực hiện, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng, đó là khả năngkhách hàng không trả, không trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng”.

Theo khoản 1 Điều 2 Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì:“Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết”.

Theo tài liệu “Financial Institutions Management–A Modern Perpective”, A. Saunder và H.Lange định nghĩa rủi ro tín dụng là “khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng, nghĩa là khả năng các nguồn thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của ngân hàng không thể được thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời hạn”.

Các định nghĩa khá đa dạng, nhưng chúng ta có thể rút ra các nội dung cơ bản của rủi ro tín dụng như sau:

– Rủi ro tín dụng khi người vay sai hẹn trong thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn và/hoặc lãi. Sự sai hẹn có thể là trễ hạn hoặc không thanh toán.

– Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến tổn thất tài chính, tức là giảm thu nhập ròng và giảm giá trị thị trường của vốn. Trong trường hợp nghiêm trọng có thể dẫn đến thua lỗ, hoặc ở mức cao hơn có thể dẫn đến phá sản.

– Rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng là hai đường đại lượng đồng biến với nhau trong một phạm vi nhất định (lợi nhuận kỳ vọng càng cao, rủi ro tiềm ẩn càng lớn).

– Rủi ro mang tính khách quan cho nên người ta không thể nào loại trừ hoàn toàn được mà chỉ có thể hạn chế sự xuất hiện của chúng cũng như tác hại do chúng gây ra.

Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rủi ro tín dụng theo nghĩa xác suất, là khả năng, do đó có thể xảy ra hoặc không xảy ra tổn thất. Điều này có nghĩa là một khoản vay dù chưa quá hạn nhưng vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tổn thất, một ngân hàng có tỉ lệ nợ quá hạn thấp nhưng nguy cơ rủi ro tín dụng sẽ rất cao nếu danh mục đầu tư tín dụng tập trung vào một nhóm khách hàng, ngành hàng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Cách hiểu này sẽ giúp cho hoạt động quản trị rủi ro tín dụng được chủ động trong phòng ngừa, trích lập dự phòng, đảm bảo chống đỡ và bù đắp tổn thất khi rủi ro xảy ra.

Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình
Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Bưu điện Liên việt – Chi nhánh Quảng Bình

1.1.2.2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng

  • Rủi ro tín dụng có tính tất yếu

Rủi ro tín dụng luôn tồn tại và gắn liền với hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Tình trạng thông tin bất cân xứng đã làm cho ngân hàng không thể nắm bắt được các dấu hiệu rủi ro một cách toàn diện, đầy đủ và kịp thời, điều này làm cho bất cứ khoản vay nào cũng tiềm ẩn rủi ro đối với ngân hàng. Chính vì thế mà việc chấp nhận rủi ro là tất yếu trong hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được cũng như nằm trong phạm vi khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của ngân hàng.

  • Rủi ro tín dụng mang tính bị động

Trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng vốn cho khách hàng. Như vậy, rủi ro tín dụng xảy ra sau khi ngân hàng giải ngân, tức là trong quá trình sử dụng vốn vay của ngân hàng. Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn vay, nên chính bản thân khách hàng mời là người có đầy đủ thông tin về chất lượng và hiệu quả của việc sử dụng vốn vay. Điều này cho thấy, do tình trạng thông tin bất cân xứng nên ngân hàng thường rơi vào thế bị động. Ngân hàng là người biết thông tin sau hoặc biết không chính xác, không đầy đủ về những khó khăn, thất bại của khách hàng trong kinh doanh nói chung và trong việc sử dụng vốn vay nói riêng, khiến cho ngân hàng thường bị chậm trễ trong ứng phó.

  • Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp

Do tính chất đa dạng và phức tạp về khách hàng vay vốn, đối tượng cho vay, loại hình tín dụng,… đã làm cho rủi ro tín dụng trở nên có tính chất đa dạng phức tạp. Chính sự đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng buộc ngân hàng phải chú trọng nhiều hơn đến công tác quản trị rủi ro tín dụng, từ việc thiết lập chính sách tín dụng, sử dụng các công cụ quản trị rủi ro, đến quy trình quản trị trong khâu nhận dạng, đo lường, xử lý và giám sát rủi ro tín dụng.

1.1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng

Có nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng khác nhau tuỳ theo mục đích, yêu cầu nghiên cứu. Tuỳ theo tiêu chí phân loại mà người ta chia rủi ro tín dụng thành các loại khác nhau.

  1. Căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro

Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia thành các loại sau:

Rủi ro tín dụng

Rủi ro giao dịch

Rủi ro danh mục

Rủi ro lựa chọn

Rủi ro bảo đảm

Rủi ro nghiệp vụ

Rủi ro nội tại

Rủi ro tập trung

Sơ đồ 1.1: Các loại rủi ro tín dụng

  • Rủi ro giao dịch: là một hình thức của rủi ro tín dụng, có liên quan đến từng khoản vay hoặc từng khách hàng cụ thể. Nguyên nhân phát sinh rủi ro là do những hạn chế trong quá trình giao dịch, đánh giá khách hàng và xét duyệt cấp tín dụng. Rủi ro giao dịch có 03 bộ phận chính là rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ.

+ Rủi ro lựa chọn: là rủi ro có liên quan đến quá trình đánh giá và phân tích khách hàng trước khi ra quyết định cấp tín dụng. Khi tiếp nhận hồ sơ đề nghị vay vốn của khách hàng, do hiện tượng thông tin bất cân xứng nên ngân hàng sẽ phải đối diện với hai sự lựa chọn: đó là khả năng chấp thuận một khách hàng xấu – từ chối một khách hàng tốt và ngược lại.

+ Rủi ro bảo đảm: là loại rủi ro phát sinh từ các tiêu chuẩn bảo đảm như các điều khoản trong hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể bảo đảm, cách thức đảm bảo và mức cho vay trên giá trị của tài sản đảm bảo.

+ Rủi ro nghiệp vụ: là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các khoản cho vay có vấn đề.

  • Rủi ro danh mục: là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của ngân hàng, được phân chia thành 02 loại : rủi ro nội tại và rủi ro tập trung.

+ Rủi ro nội tại: là rủi ro xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc mỗi ngành, mỗi lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.

+ Rủi ro tập trung: là loại rủi ro phát sinh trong trường hợp mức dư nợ cho vay được ngân hàng tập trung cho một số đối tượng khách hàng, cho nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một ngành – lĩnh vực kinh tế, hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một loại hình cho vay có mức độ rủi ro cao.

  1. Căn cứ vào tính khách quan và chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng
  • Rủi ro khách quan: là rủi ro do các nguyên nhân khách quan như từ sự biến động của môi trường kinh tế toàn cầu hay nội địa, những bất cập trong cơ chế, chính sách của nhà Nước; hay là hành lang pháp lý cho hoạt động của ngân hàng chưa hoàn thiện và những nguyên nhân bất khả kháng khác như: thiên tai, dịch bệnh, người vay bị chết – mất tích,… làm thất thoát vốn vay của ngân hàng trong khi người vay đã thực hiện nghiêm túc chế độ và chính sách vay.
  • Rủi ro chủ quan: là loại rủi ro do nguyên nhân thuộc về chủ quan của người vay và người cho vay. Ở người vay đó là tình hình sản xuất kinh doanh thiếu ổn định vững chắc, tình hình tài chính không thuận lợi, công tác quản lý kinh doanh còn nhiều hạn chế và một số hiện tượng cố ý lừa đảo. Người cho vay tồn tại một số nguyên nhân đó là thiếu chính sách tín dụng nhất quán, quy trình cho vay còn có nhiều kẻ hở, ngân hàng không có đủ thông tin về các số liệu thống kê, quá trình giám sát trước, trong và sau khi cho vay còn lơi lỏng, cán bộ ngân hàng có trình độ yếu kém,…
  1. Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng
  • Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn: là loại rủi ro mà đến thời hạn thanh toán theo quy ước trong hợp đồng tín dụng, ngân hàng vẩn chưa thu hồi được khoản vốn vay đó.
  • Rủi ro do không có khả năng trả nợ: là rủi ro xảy ra trong trường hợp cá nhân hoặc doanh nghiệp đi vay mất khả năng chi trả do kinh doanh yếu kém hoặc do một nguyên nhân nào đó dẩn đến ngân hàng phải thanh lý tài sản đảm bảo để thu nợ.
  1. Căn cứ vào mức độ tổn thất

Căn cứ vào mức độ tổn thất, có thể chia rủi ro tín dụng làm 2 loại là rủi ro mất vốn và rủi ro đọng vốn.

  • Rủi ro mất vốn: Là rủi ro khi người vay không có khả năng trả được nợ theo hợp đồng, bao gồm vốn gốc hoặc lãi vay, ngân hàng chỉ trông chờ vào giá trị thanh lý tài sản của doanh nghiệp. Rủi ro mất vốn sẽ làm tăng chi phí do nợ khó đòi tăng, chi phí quản trị, chi phí giám sát; giảm lợi nhuận do các khoản dự phòng gia tăng cho những khoản vốn mất đi.
  • Rủi ro đọng vốn: Là rủi ro xảy ra trong trường hợp đến hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi vốn vay, dẫn đến các khoản vốn bị đông cứng và ảnh hưởng đến ngân hàng trên hai phương diện: một là ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng, hai là gặp khó khăn đến việc thanh toán cho khách hàng.

Ngoài ra còn nhiều hình thức phân loại khác như phân loại căn cứ theo những cơ cấu các loại hình rủi ro, phân loại theo nguồn gốc hình thành, theo đối tượng sử dụng vốn vay,…

1.1.2.4. Các nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng

a. Nguyên nhân xuất phát từ bản thân ngân hàng

Thực tế kinh doanh của Ngân hàng trong thời gian qua cho thấy rủi ro tín dụng xảy ra là do những nguyên nhân sau:

  • Ngân hàng đưa ra chính sách tín dụng không phù hợp với đặc điểm và thực trạng của nền kinh tế, hướng mạnh vào mục tiêu lợi nhuận dẫn đến cho vay đầu tư liều lĩnh, kèm theo đó là thể lệ cho vay còn tồn tại nhiều kẻ hở để khách hàng lợi dụng chiếm đoạt vốn bất hợp pháp. Ngân hàng có xu hướng tập trung nguồn vốn vay chủ yếu vào một đối tượng, một khu vực hoặc một lĩnh vực kinh doanh nào đó làm hạn chế tính linh hoạt của ngân hàng trước những biến động của thị trường cạnh tranh gây tổn thất cho ngân hàng.
  • Cán bộ Ngân hàng chưa chấp hành đúng quy trình cho vay như không đánh giá đầy đủ tính chính xác khách hàng trước khi cho vay, cho vay khống, thiếu tài sản đảm bảo, cho vay vượt tỷ lệ an toàn. Đồng thời cán bộ Ngân hàng lơi lỏng trong quá trình kiểm tra, giám sát sau khi cho vay nên không phát hiện kịp thời hiện tượng sử dụng vốn vay không đúng mục đích.
  • Trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng còn hạn chế, tắc trách trong việc thu thập thông tin về các số liệu thống kê, chỉ tiêu để phân tích và đánh giá khách hàng,.. dẫn đến việc xác định sai hiệu quả phương án xin vay, hoặc ấn định thời hạn cho vay và kế hoạch trả nợ không phù hợp. Thiếu am hiểu về thị trường, thiếu thông tin hoặc phân tích thông tin không đầy đủ dẩn đến tình trạng dự án thiếu tính khả thi mà vẫn cho vay.
  • Cán bộ Ngân hàng còn thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm đạo đức kinh doanh như thông đồng với khách hàng lập hồ sơ giả để vay vốn, chiếm dụng vốn vay, còn hiện tượng nể nang trong quan hệ khách hàng.
  • Ngân hàng quá chú trọng về lợi nhuận, đặt những khoản tín dụng có lợi nhuận cao trước những khoản tín dụng lành mạnh
  • Do áp lực cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại ngày càng mạnh mẽ nên bản thân ngân hàng chủ động nới lỏng điều kiện cần có của khách hàng để thu hút.

b. Nguyên nhân xuất phát từ khách hàng của ngân hàng

  • Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, sử dụng vào các hoạt động có rủi ro cao dẫn đến thua lỗ không trả được nợ cho Ngân hàng. Đa số các khách hàng khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể và khả thi. Tuy nhiên, trên thực tế thì có một số khách hàng khi nhận được tiền vay họ không sử dụng đúng mục đích như phương án đã lập ban đầu mà đem số tiền đó đầu tư vào các mục đích khác nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn.
  • Do trình độ kinh doanh yếu kếm, khả năng tổ chức điều hành sản xuất kinh doanh của lãnh đạo còn hạn chế. Trình độ của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, năng lực quản lý, điều hành của Ban lãnh đạo có tính chất quyết định đến hiệu quả sử dụng vốn vay, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thực hiện cam kết với ngân hàng. Do đó, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý rủi ro tín dụng. Nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao, để đạt được mục đích của mình họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với Ngân hàng, như cung cấp thông tin sai sự thật, mua chuộc…Nhiều khách hàng vay vốn không tính toán kỹ lưỡng, mở rộng đầu tư quá mức, hoặc không có khả năng tính toán kỹ những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trường hợp còn lại là khách hàng vay vốn kinh doanh có lãi nhưng vẫn không trả nợ đúng hạn, họ chây ỳ với hy vọng có thể được xoá nợ, sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
  • Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém và thiếu minh bạch trong việc cung cấp các báo cáo tài chính. Năng lực tài chính là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng bởi nếu khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh, hoạt động kinh doanh ổn định, có uy tín thì khi có biến cố xảy ra, khách hàng có khả năng chống đỡ rủi ro bằng vốn chủ sở hữu và hạn chế ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nghĩa vụ với ngân hàng. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
  • Khách hàng chủ ý lừa đảo, chiếm dụng vốn của ngân hàng, họ làm giả hồ sơ giấy tờ, con dấu, nhất là giấy tờ tài sản đảm bảo và tư cách pháp nhân

c. Nguyên nhân khách quan

* Môi trường vĩ mô

– Môi trường chính trị và luật pháp: Sự thay đổi về thể chế, luật pháp và bất ổn chính trị,… có thể đe dọa đến khả năng tồn tại và phát triển của bất cứ ngành nào. Ngoài luật pháp trung ương, các doanh nghiệp còn phải tuân theo luật pháp của khu vực

– Môi trường kinh tế: Thông thường các doanh nghiệp luôn dựa vào môi trường kinh tế để đề ra các quyết định kinh doanh và chiến lược đầu tư. Vì vậy, môi trường kinh tế không những có ý nghĩa đối với doanh nghiệp mà còn đối với ngân hàng cho vay. Các yếu tố thuộc môi trường kinh tế tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng gồm: tính chu kỳ của nền kinh tế, các biến số kinh tế vĩ mô như lãi suất, lạm phát, tỷ giá; các chính sách của Chính phủ như tiền lương, đầu tư công, các hướng ưu tiên đầu tư, miễn giảm thuế, trợ cấp; triển vọng kinh tế như mức gia tăng GDP, tỷ lệ thất nghiệp,…

– Môi trường văn hóa – xã hội: Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, những yếu tố này phản ánh đặc điểm của người tiêu dùng và quyết định đến đầu ra của các doanh nghiệp. Do đó, đặc điểm của giá trị văn hóa – xã hội của các nhóm khách hàng khác nhau như tuổi thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, thu nhập trung bình, lối sống, học thức, các quan điểm về thẩm mỹ, tâm lý sống,… tác động đến định vị sản phẩm-dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp, qua đó tác động đến sự thành công hay thất bại của khách hàng vay vốn.

– Môi trường công nghệ: Công nghệ đã và đang là yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ứng dụng và nắm bắt được xu hướng phát triển công nghệ là một trong những yếu tố then chốt để tồn tại và phát triển.

* Môi trường vi mô

Môi trường vi mô hay còn gọi là môi trường ngành tác động đến khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn khi gặp các rủi ro:

– Từ phía nhà cung cấp: Như không giao hàng, giao hàng chậm, kém chất lượng, không thực hiện bảo hành – bảo trì như thỏa thuận, không cung cấp hàng phụ tùng thay thế,…

– Từ phía khách mua hàng: Hủy đơn mua hàng trong khi hàng đã được sản xuất, nhận hàng nhưng thanh toán chậm dây dưa, không thanh toán,…

– Từ phía tài sản bảo đảm:

+ Tài sản bảo đảm khó định giá do ngân hàng thiếu thông tin, kỹ thuật thẩm định,…

+ Tài sản bảo đảm có tính khả mại thấp, đặc biệt với các tài sản chuyên dụng, đặc chủng

+ Giá trị tài sản bảo đảm biến động theo chiều hướng bất lợi hoặc thay đổi hiện trạng

+ Phát sinh tranh chấp về mặt pháp lý, dẫn tới khó khăn trong việc xử lý tài sản

+ Khách hàng không thiện chí trong quá trình giao tài sản và có hành vi đe dọa cán bộ tín dụng

1.1.2.5. Hậu quả của rủi ro tín dụng

a. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng

  • Rủi ro tín dụng làm phát sinh chi phí, giảm doanh thu, giảm lợi nhuận

Rủi ro tín dụng gây ra những thiệt hại về mặt tài chính cho ngân hàng khi không thu được vốn và lãi trực tiếp làm giảm doanh thu, mất thời gian và chi phí cho việc thu hồi nợ, giảm vòng quay vốn tín dụng, bỏ qua các chi phí cơ hội cho các cơ hội đầu tư khác, tăng chi phí từ việc trích lập dự phòng rủi ro. nếu rủi ro xảy ra ở mức độ lớn, nguồn vốn của Ngân hàng không đủ bù đắp, vốn khả dụng bị thiếu, lòng tin của khách hàng giảm tất nhiên sẽ dẫn tới phá sản Ngân hàng.

  • Rủi ro tín dụng làm giảm khả năng thanh toán của ngân hàng

Rủi ro tín dụng ảnh hưởng tới việc hoàn trả tiền gửi của ngân hàng. Các khoản đầu tư, cho vay thu hồi chậm hoặc không thu hồi được trong khi ngân hàng vẩn phải trả vốn huy động một cách đều đặn cả vốn và lãi đúng kỳ hạn làm hạn chế khả năng thanh toán của ngân hàng.

  • Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín và khả năng kinh doanh của ngân hàng

Ngân hàng hoạt động kém hiệu quả là ngân hàng gặp nhiều rủi ro. Điều này tác động đến uy tín của ngân hàng và làm giảm lòng tin của khách hàng vào ngân hàng. Ảnh hưởng trực tiếp tới lượng khách hàng giao dịch tại ngân hàng và quy mô hoạt động của ngân hàng gây ra những tổn thất lớn về tài chính.

  • Rủi ro tín dụng có nguy cơ dẩn đến phá sản ngân hàng

Rủi ro tín dụng làm giảm lòng tin của khách hàng đối với ngân hàng, tâm lý sợ mất những khoản tiền đã gửi vào ngân hàng vì thế họ đến rút tiền một cách đồng loạt chính điều này dẩn đến nguy cơ phá sản của ngân hàng và vô hình chung làm cho các ngân hàng khác cũng có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.

b. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với khách hàng

  • Các chủ thể kinh doanh chủ yếu dựa vào nguồn vốn của ngân hàng thì khi có rủi ro tín dụng xảy ra sẻ bị giảm hoặc mất nguồn vốn đầu tư, ảnh hưởng tới tính liên tục của quá trình sản xuất và có thể nghiêm trọng hơn là gây ra phá sản doanh nghiệp.
  • Đối với các chủ thể kinh doanh gây ra rủi ro tín dụng thì không chỉ mất đi nguồn vốn từ phía ngân hàng đó mà còn khó tìm được nguồn vốn khác trong nền kinh tế vì không còn uy tín trong khả năng trả nợ.

c. Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế

Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng liên quan đến rất nhiều các thành phần kinh tế từ cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức kinh tế cho tới các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, kết quả kinh doanh của Ngân hàng phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế và đương nhiên nó phụ thuộc rất lớn vào tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và khách hàng. Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không thể có kết quả tốt khi hoạt động kinh doanh của nền kinh tế chưa tốt hay nói cách khác hoạt động kinh doanh của Ngân hàng sẽ có nhiều rủi ro khi hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro. Rủi ro xảy ra dẫn tới tình trạng mất ổn định trên thị trường tiền tệ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, làm ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế và đời sống xã hội.

1.1.3. Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng

Trong quá khứ, nói đến quản trị rủi ro phần lớn người ta nghĩ đến các hoạt động bảo hiểm. Đây là các dịch vụ trọn gói, trong đó người mua bảo hiểm sẽ không phải chịu các rủi ro trong trường hợp nó xảy ra. Tuy nhiên, khái niệm quản trị rủi ro ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Với những yêu cầu của pháp luật, yêu cầu của người lao động, quản trị rủi ro đã trở thành một yếu tố quản trị ngày càng quan trọng như quản trị tài chính hay quản trị các nguồn lực khác trong tổ chức.

Theo Nguyễn Minh Duệ (2007) “Quản trị rủi ro tín dụng là dự kiến, ngăn ngừa và đề xuất biện pháp kiểm soát các rủi ro nhằm loại bỏ, giảm nhẹ hoặc chuyển chúng sang một tác nhân khác tạo điều kiện sử dụng tối ưu nguồn lực của doanh nghiệp”.

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng nhằm tối đa hoá lợi nhuận trong phạm vi mức rủi ro có thể chấp nhận.

Kiểm soát rủi ro tín dụng ở mức có thể chấp nhận là việc NHTM tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, nhằm tăng doanh thu tín dụng, giảm thấp chi phí bù đắp rủi ro, nhằm đạt được hiệu quả trong kinh doanh tín dụng cả trong ngắn hạn và dài hạn. “Hiệu quả quản lý rủi ro tín dụng là một bộ phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai trò cốt tử cho sự thành công của Ngân hàng trong dài hạn” (Basel Committee on Banking Supervision, 2000).

Tóm lại, có thể đề cập khái niệm quản trị rủi ro tín dụng ở các góc độ khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau và đứng trên góc độ của quản trị học, chúng ta có thể diễn giải khái niệm: Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các Ngân hàng tiến hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hoá lợi nhuận của Ngân hàng với mức rủi ro có thể chấp nhận.

1.1.4. Mục tiêu của quản trị rủi ro tín dụng

Một trong những hoạt động chủ đạo của Ngân hàng Thương mại là kinh doanh tín dụng. Vì thế mà quản trị rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ngay trong các điều kiện thị trường đầy biến động và nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng.

Mục tiêu chính của các nhà quản trị rủi ro tín dụng là đảm bảo lợi nhuận tối đa ở các mức rủi ro có thể chấp nhận được. Trong điều kiện cạnh tranh, việc cung cấp dịch vụ tài chính – ngân hàng gia tăng và bị áp lực từ nhiều phía, do đó có thể nói rằng tình trạng rủi ro và đặc biệt là rủi ro tín dụng của ngân hàng đang được hết sức chú trọng.

Quản trị rủi ro tín dụng góp phần nâng cao uy tín và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho ngân hàng. Khi ngân hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có năng lực tài chính lành mạnh và quản lý được rủi ro trong giới hạn cho phép sẽ tạo được niềm tin của khách hàng và nâng cao được vị thế, uy tín đối với các tổ chức kinh tế, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Đây là điều vô cùng quan trọng giúp ngân hàng đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững cũng như thực hiện thành công các hoạt động hợp tác, liên doanh, liên kết trong xu thế hội nhập.

1.2. NỘI DUNG CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG

1.2.1. Nhận diện rủi ro tín dụng

Là quá trình xác định liên tục và có hệ thống trong hoạt động kinh doanh tín dụng của Ngân hàng. Nhận diện rủi ro tín dụng bao gồm các công việc theo dõi xem xét, nghiên cứu môi trường hoạt động tín dụng và toàn bộ hoạt động tín dụng của Ngân hàng, nhằm thống kê được tất cả những rủi ro, không chỉ những loại rủi ro đã và đang xảy ra, mà còn dự báo được những dạng rủi ro mới có thể xuất hiện đối với khách hàng, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đo lường, kiểm soát và tài trợ rủi ro tín dụng phù hợp.

Đây được coi là bước đầu tiên trong quá trình quản lý rủi ro tín dụng tại ngân hàng. Nhận diện rủi ro được xét trên hai góc độ: thứ nhất là về phía ngân hàng, rủi ro tín dụng sẽ được phản ánh rõ nét qua quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, nợ quá hạn, nợ xấu và dự phòng rủi ro. Hai là về phía khách hàng, khi khách hàng có những dấu hiệu tiềm ẩn rủi ro, ngân hàng cần nhận biết được khả năng xảy ra rủi ro để ứng phó kịp thời.

Những biểu hiện của nợ xấu ít nhiều khác nhau trong các tình huống khác nhau nhưng một số đặc điểm chung cho hầu hết các khoản tín dụng có vấn đề được biểu hiện như sau:

Bảng 1.1: Những biểu hiện của một khoản tín dụng xấu và một chính sách tín dụng kém hiệu quả

Các biểu hiện của một tín dụng có vấn đềCác biểu hiện của chính sách tín dụng kém hiệu quả
  1. Trả nợ không đúng kỳ hạn hoặc thất thường
1. Sự lựa chọn khách hàng không đúng với cấp độ rủi ro của họ
  1. Thường xuyên sửa đổi thời hạn hoặc xin gia hạn tín dụng
2. Chính sách cho vay phụ thuộc vào những sự kiện có thể xảy ra trong tương lai. (VD: hợp nhất)
  1. Có hồ sơ đảo nợ (mỗi lần vay mới thì nợ gốc giảm xuống một ít)
3. Cho vay trên cơ sở lời hứa của khách hàng duy trì số tiền gửi lớn
  1. Lãi suất tín dụng cao hơn bình thường (để bù đắp rủi ro tín dụng)
4. Thiếu kế hoạch rõ ràng để thanh lý từng khoản tín dụng
  1. Tài khoản phải thu hay hàng tồn kho tăng lên không bình thường
5. Tỷ lệ tín dụng cao cho khách hàng có trụ sở ngoài lãnh địa hoạt động của ngân hàng
  1. Tỷ lệ “Nợ/Vốn chủ sở hữu” tăng
6. Hồ sơ tín dụng không đầy đủ, thiếu sót và không đồng bộ
  1. Thất lạc hồ sơ (đặc biệt là các báo cáo tài chính của khách hàng)
7. Tỷ lệ cho vay nội bộ cao
  1. Chất lượng tín dụng thấp
8. Có xu hướng thái quá trong cạnh tranh (cấp tín dụng xấu giữ chân khách hàng)
  1. Dựa vào đánh giá lại tài sản để tăng vốn chủ sở hữu của khách hàng
9. Cho vay hỗ trợ các mục đích đầu cơ
  1. Thiếu báo cáo lưu chuyển luồng tiền hay dự báo luồng tiền
10. Không nhạy cảm với sự thay đổi các điều kiện môi trường kinh tế
  1. Khách hàng dựa vào nguồn thu bất thường để trả nợ

(Nguồn: Quản trị ngân hàng thương mại – GS.TS Nguyễn Văn Tiến, trang 315)

* Các nội dung chủ yếu trong giai đoạn nhận diện rủi ro gồm có:

  • Phân tích danh mục tín dụng của ngân hàng: để nhận biết những nguy cơ rủi ro phát sinh từ quy mô tín dụng, cơ cấu tín dụng, ngành nghề, loại tiền…
  • Phân tích đánh giá khách hàng: nhằm phát hiện những nguy cơ rủi ro trong từng khách hàng và từng khoản nợ cụ thể. Phân tích đánh giá khách hàng là cả một quá trình từ khi tiếp xúc với khách hàng, tiếp nhận các thông tin từ phía khách hàng, tiến hành phân tích, thẩm định khách hàng trước, trong và sau khi cho vay

* Các phương pháp nhận diện rủi ro tín dụng gồm có: Phương pháp phân tích tài chính, phương pháp thẩm định đi thực tế khách hàng – thanh tra hiện trường, phương pháp lập bảng điều tra – thiết lập bảng kê, phương pháp phân tích các tổn thất, phương pháp tham khảo các chuyên gia, phương pháp phân tích lưu đồ, phương pháp thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau

Mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng, việc áp dụng như thế nào cho khoa học, hiệu quả tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng ngân hàng.

1.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng

Đo lường rủi ro trong hoạt động tín dụng chính là việc tính toán ra con số cụ thể về mức độ rủi ro mà ngân hàng đang đối mặt và những tổn thất mà nó gây ra. Đo lường rủi ro phải tính được biên độ dao động của các dòng thu nhập và xác suất rủi ro xảy ta trong một số trường hợp xác định trước.

Các ngân hàng áp dụng một số mô hình trong việc xác định mức độ rủi ro tín dụng của khách hàng trên cơ sở xử lý những thông tin thu thập được hay còn gọi là phân tích rủi ro tín dụng cụ thể như sau:

1.2.2.1. Mô hình 6C

Đối với mỗi khoản vay, câu hỏi đầu tiên của ngân hàng là liệu khách hàng có thiện chí và khả năng thanh toán khi khoản vay đến hạn hay không ? Điều này liên quan đến việc nghiên cứu chi tiết “6 khía cạnh – 6C” của khách hàng bao gồm:

Tư cách người vay – Character: Ngân hàng phải làm rõ mục đích đề nghị cấp tín dụng của khách hàng, mục đích đó có phù hợp với chính sách tín dụng của ngân hàng hay không, có phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng hay không và khách hàng có thiện chí nghiêm chỉnh trả nợ khi đến hạn.

Năng lực của người vay – Capacity: Khách hàng phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và phải là đại diện hợp pháp của doanh nghiệp.

Thu nhập của người vay – Cash: Nguồn trả nợ của khách hàng như: Luồng tiền từ thu nhập bán hàng hay thu nhập, nguồn thu từ bán thanh lý tài sản hoăc nguồn thu từ phát hành chứng khoán,…

Bảo đảm tiền vay – Collateral : Đây là điều kiện để ngân hàng cấp tín dụng và là nguồn thu thứ hai để trả nợ cho NH.

Các điều kiện – Conditions: Ngân hàng quy định các điều kiện tùy theo chính sách tín dụng theo từng thời kỳ cụ thể của mỗi ngân hàng.

Kiểm soát – Control: Tập trung vào những vấn đề như sự thay đổi của luật pháp có liên quan và quy chế hoạt động mới có ảnh hưởng xấu đến khách hàng hay không, nhu cầu tín dụng của khách hàng có đáp ứng được các tiêu chuẩn của ngân hàng hay không?

o Ưu điểm: Sử dụng mô hình này tương đối đơn giản.

o Nhược điểm: Nó phụ thuộc vào mức độ chính xác của nguồn thông tin thu thập, khả năng dự báo cũng như trình độ phân tích, đánh giá của cán bộ tín dụng.

1.2.2.2. Phương pháp điểm số

🞴 Mô hình điểm số Z

Điểm số Z được xây dựng bởi giáo sư I. Altman (1968), Đại Học New York phát minh dựa trên các nghiên cứu trong quá khứ các công ty ở Mỹ. Mặc dù chỉ số Z này phát minh tại Mỹ nhưng nó vẫn được sử dụng tại nhiều nước với độ tin cậy khá cao.

Chỉ số Z là công cụ cảnh báo sớm khả năng phá sản của công ty và là khả năng mất vốn trong tương lai của ngân hàng. Đại lượng Z là thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối với người vay và phụ thuộc vào:

– Trị số của các chỉ số tài chính của người vay (Xj)

– Tầm quan trọng của các trị số này trong việc xác định xác suất vỡ nợ của người vay (trọng số)

Điểm số Z giá trị tổng hợp của các chỉ số với các trọng số của chúng. Các giá trị trọng số không cố định mà có sự thay đổi phụ thuộc vào công ty thuộc ngành nghề sản xuất hay dịch vụ, đã cổ phần hoá hay chưa. Điểm số Z có quan hệ tỷ lệ nghịch với khả năng phá sản của doanh nghiệp.

  • Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành sản suất:

Z = 1,2X1 + 1,4X2 + 3,3X3 + 0,64X4 + 0,999X5

Trong đó: X1: tỷ số vốn lưu động ròng/tổng tài sản

X2: tỷ số lợi nhuận giữ lại/tổng tài sản

X3: tỷ số lợi nhuận trước thuế và tiền lãi/tổng tài sản

X4: tỷ số thị giá cổ phiếu/giá trị ghi sổ của nợ dài hạn

X5: tỷ số doanh thu/tổng tài sản

– Nếu Z > 2,99: Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản.

– Nếu 1,8 < Z < 2,99: Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có

nguy cơ phá sản.

– Nếu Z < 1,8: Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DUY TAN\LUAN VAN DUY TAN\NGUYEN QUANG PHUC

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *