Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường từ thực tiễn huyện Huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã được Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường và ngày càng hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới. Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn, góp phần ổn định tình hình kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho người dân. Nhưng những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; chưa đồng đều giữa các vùng miền trong cả nước; nông nghiệp phát triển kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, sản xuất nhỏ phân tán, năng suất chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng chưa cao; việc phát huy nguồn lực cho phát triển sản xuất, chuyển giao khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế; thu nhập của người dân vùng nông thôn còn thấp, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân vùng nông thôn còn gặp nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng như: điện, đường, trường, trạm, kênh mương nội đồng chưa đảm bảo, nhiều công trình đã xuống cấp; vấn đề tiêu thụ sản phẩm (đầu ra) cho bà con nông dân còn bất cập, tình trạng được mùa mất giá liên tiếp xảy ra…nhận thức rõ vấn đề này, tại Hội nghị trung ương 7 (khóa X) của Đảng ra Nghị quyết số 26- NQ/TW về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn” chỉ rõ: xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường [9].

Trên cơ sở Nghị quyết số 26- NQ/TW, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 về Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020; Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về “Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới”; Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 về sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới nhằm thống nhất chỉ đạo việc xây dựng nông thôn mới trên cả nước.

Thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Trong những năm qua, Đảng bộ, quân và dân huyện Đức Phổ đã đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế – xã hội, gắn với xây dựng an ninh quốc phòng, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn như: Điện, đường, trường, trạm, chợ nông thôn được xây dựng khang trang, sạch đẹp; kênh mương nội đồng được bê tông hóa; các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao đạt chuẩn quốc gia; cơ cấu mùa vụ được chuyển đổi; các mô hình kinh tế có hiệu quả và được nhân rộng; làng nghề, hợp tác xã và tổ hợp tác được khuyến khích phát triển; công tác dồn điền đổi thửa được triển khai mạnh mẽ…

Mặc dù, trong những năm qua huyện đã có nhiều cố gắng trong việc triển khai, thực hiện việc xây dựng nông thôn mới trên địa bàn, nhưng kết quả đạt được vẫn còn khá khiêm tốn; còn gặp nhiều khó khăn về cơ chế chính sách; nguồn lực đầu tư và nhất là vấn đề quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường còn nhiều bất cập; đời sống của nhân dân ở nông thôn vẫn còn nhiều khó khăn; một số tiêu chí về giao thông nông thôn, thủy lợi, cơ sở vật chất về văn hóa, y tế, môi trường… ở một số xã còn chưa đạt; Tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn Quốc gia còn thấp; một số cơ sở sản xuất – kinh doanh còn chưa đạt tiêu chuẩn về môi trường cũng như vệ sinh an toàn thực phẩm; Chất thải sinh hoạt, nước thải chưa được thu gom và xử lý theo quy định…

Xuất phát từ thực tiễn trên, để góp phần vào quá trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương, tác giả chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường từ thực tiễn huyện Huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn có mục đích tổng quát là xây dựng luận cứ khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường trên địa bàn huyện Huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, các địa bàn cấp huyện trên phạm vi cả nước nói chung.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước, về xây dựng nông thôn mới trong phát triển kinh tế- xã hội và môi trường của địa phương cấp huyện.

– Phân tích, đánh giá thực trạng, những hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường trên địa bàn huyện Huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

– Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường trên địa bàn huyện Huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, đối với địa bàn cấp huyện nói chung trong những năm tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường của huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nội dung: nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước nhằm thực hiện các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường của huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Phạm vi không gian: nghiên cứu quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường ở các xã thuộc huyện Đức Phổ.

Phạm vi thời gian: đề tài nghiên cứu nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường từ năm 2011 đến nay, định hướng đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực hiện đường lối chính sách của Đảng, nhà nước ta trong công tác quản lý nhà về xây dựng nông thôn mới.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn, bao gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, hệ thống, diễn giải, thu thập số liệu và kết hợp với thực tiễn… để phân tích, tổng hợp thu thập tư liệu từ các nguồn đã công bố liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường trên địa bàn huyện Đức Phổ.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần vào việc Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, đánh giá đúng thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới. Từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường của huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian tới.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, vận dụng vào công tác quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường tại huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường từ thực tiễn huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA, XÃ HỘI, MÔI TRƯỜNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường

1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường

1.1.1.1. Quản lý nhà nước

Thông thường, quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước, bao gồm các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, vận hành như một thực thể thống nhất. Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước là một hoạt động chức năng của nhà nước trong quản lý xã hội và là hoạt động chức năng đặc biệt. Theo đó, quản lý nhà nước có thể hiểu là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.

Trong khoa học pháp lý Việt Nam, “quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN”.

Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chỉ bao gồm hoạt động tổ chức, điều hành do cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định, phát triển xã hội theo những mục tiêu mà lực lượng cầm quyền theo đuổi. Quản lý nhà nước bao gồm: hoạt động chấp hành, điều hành, quản lý hành chính do hệ thống cơ quan hành chính nhà nước thực hiện và được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.

1.1.1.2. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường

Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05 tháng 8 năm 2008 của BCH TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ngày 4 tháng 6 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới được triển khai rộng khắp trên phạm vi nông thôn toàn quốc. Đây là một chủ trương lớn của Đảng, nhà nước, hệ thống chính trị và của toàn dân, đồng thời là mục tiêu có tầm chiến lược cho sự phát triển bền vững và đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay.

Xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân ở địa bàn nông thôn. Mục tiêu mà Đảng và Chính phủ đặt ra đến năm 2020 là nước ta phải cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để thực hiện tốt vấn đề này, nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình hoạch định và thực hiện chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ nguồn lực, vốn, khoa học kỹ thuật cho nhân dân, nhằm giúp nhân dân chủ động tham gia thực hiện các tiêu chí về xây dựng nông thôn mới.

      1. Để tập trung thực hiện tốt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản như: Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới; Quyết định số 135/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; Quyết định số 1013/QĐ-TTg ngày 01 tháng 7 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2010 – 2020; Quyết định số 1738/QĐ-TTg ngày 20 tháng 9 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, giai đoạn 2010 – 2020; Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 2 năm 2013 về việc sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng nông thôn mới; Ngày 16-8-2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg, phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 – 2020…
      2. Bên cạnh những văn bản quản lý nhà nước của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Ban chỉ đạo và các bộ, ngành trung ương cũng ban hành nhiều văn bản nhằm điều chỉnh việc quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới theo từng lĩnh vực. Đặc biệt là quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường.

Vì văn hóa, xã hội và môi trường là những lĩnh vực hoạt động đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới bao gồm: giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người; quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và hoạt động quản lý môi trường.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát các hoạt động của xã hội thành hai loại hình hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Do đó, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Nói về văn hóa, xã hội và môi trường: Trong Dự thảo Báo cáo Chính trị đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2016 – 2020, những nội dung về văn hóa, xã hội được trình bày thành 4 vấn đề: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ; Phát triển văn hóa, xây dựng con người; Quản lý phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.

Do đó, xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường là làm cho môi trường sống của người dân ở khu vực nông thôn đổi mới; trình độ dân trí được nâng cao; kinh tế phát triển; An ninh tốt; môi trường sinh thái được bảo vệ; bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; nông thôn phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại; chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao…

Vậy thế nào là quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới:

Có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, nhưng theo tác giả: Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới là việc nhà nước sử dụng quyền lực để thực hiện vai trò của mình nhằm tác động tới kinh tế – xã hội của khu vực nông thôn, làm cho nông thôn ngày càng phát triển toàn diện và đồng bộ, kết cấu hạ tàng kinh tế xã hội hiện đại; làng xã văn minh, sạch đẹp, sản xuất hàng hóa bền vững, nông thôn ổn định; trình độ dân trí được nâng cao; hệ thống chính trị vững mạnh và tăng cường; an ninh trật tự được giữ vững; môi trường sinh thái được bảo vệ; đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao.

Xuất phát từ định nghĩa trên ta có thể thấy, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường là việc nhà nước tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy của mình để xây dựng các chính sách nhằm tác động tới lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường ở các địa bàn nông thôn..

      1. Đặc điểm quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường 

Xuất phát từ thực tế trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới thì quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường có những đặc điểm sau:

Quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường được thiết lập trên cơ sở mối quan hệ “quyền uy” và “sự phục tùng”, nó mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của nhà nước trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường.

Quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường còn mang tính tổ chức và điều chỉnh được thiết lập trong các xã hội, mối quan hệ giữa con người với con người nhằm thực hiện quá trình quản lý xã hội trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường và đưa vào các công cụ pháp luật để buộc đối tượng bị quản lý phải thực hiện theo quy luật xã hội khách quan nhằm đạt được sự cân bằng trong xã hội về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường.

Quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường mang tính khoa học và tính kế hoạch. Đặc trưng này đòi hỏi nhà nước phải tổ chức các hoạt động quản lý của mình lên đối tượng quản lý; phải có một chương trình nhất quán về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường cụ thể và theo những kế hoạch đã vạch ra trên cơ sở nghiên cứu một cách khoa học.

Quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường mang tính liên tục và ổn định nhằm tác động lên các quá trình xã hội và hệ thống các hành vi xã hội trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường. Cùng với sự vận động biến đổi của đối tượng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước diễn ra thường xuyên, liên tục và không bị gián đoạn trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Các quyết định của nhà nước phải có tính ổn định, nhằm giúp cho các chủ thể quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường có điều kiện kiện toàn các hoạt động của mình và hệ thống hành vi xã hội được ổn định.

      1. Vai trò của của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường 

1.1.3.1. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường góp phần hiện thực hóa chủ trương xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay.

Xây dựng nông thôn mới là một chương trình tổng thể của đảng và nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường góp phần hiện thực hóa các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Nhằm khuyến khích, động viên cộng đồng dân cư ở nông thôn cùng chung tay xây dựng gia đình, thôn, xã của mình ngày càng khang trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện; có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; tăng thu nhập, đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân được nâng cao, làm cho người dân ở vùng nông thôn có niềm tin và đoàn kết cùng nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, công bằng và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

1.1.3.2. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường góp phần bảo đảm các quyền con người, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông thôn, hài hòa giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn nhiều khó khăn

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường góp phần bảo đảm các quyền con người, vì quyền con người đã được thể hiện ngay trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [6].

Do đó, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường không nằm ngoài mục đích là đảm bảo quyền con người. Làm cho mọi người dân vùng nông thôn có môi trường sống trong sạch, lành mạnh; đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng nông thôn không ngừng được nâng cao; hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển; nâng cao thu nhập; giảm nghèo và an sinh xã hội; đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiêu quả; phát triển giáo dục, đào tạo; Phát triển y tế, chăm sóc sức khỏe cho người dân nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các vùng miền, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn; cung cấp nước sạch và đảm bảo vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm cho người dân nông thôn; nâng cao chất lượng các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội trên địa bàn; giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn…

1.1.3.3. Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường phục vụ nhu cầu phát triển bền vững đất nước.

Sau hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, việc phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở nước ta trong những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập như: Nông thôn phát triển mang tính tự phát; cảnh quan, môi trường sinh thái ở một số địa phương không được bảo vệ; bản sắc văn hóa truyền thống bị mai một; kết cấu hạ tầng nông thôn còn yếu kém; môi trường nông thôn bị ô nhiễm, tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng; đạo đức xã hội có nguy cơ xuống cấp; nông nghiệp ở một số địa phương chậm phát triển và thiếu bền vững, sức cạnh tranh thấp, việc chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế; việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn lúng túng, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn cao, vấn đề vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng diễn ra nghiên trọng và phức tạp, môi trường xã hội phát sinh nhiều vấn đề bức xúc…

Do đó, Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường là một tất yếu nhằm phục vụ nhu cầu phát triển bền vững đất nước. Nhằm phát huy tối đa nguồn lực của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương và cộng đồng dân cư nông thôn cùng tham gia xây dựng nông thôn mới, xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh và giàu đẹp; xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.

1.2. Chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường 

1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường 

Lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường chính là một trong số các lĩnh vực thuộc nội dung của chương trình xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, chủ thểquản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường cũng chính là chủ thể quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới.

Chủ thể quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới là các cơ quan quản lý Nhà nước về xây dựng nông thôn mới từ Trung ương đến địa phương gồm:

– Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới: Ngày 01/7/2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1013 về việc thành lập Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 như sau [21]:

Ban chỉ đạo Trung ương gồm 24 thành viên, ban hành quy chế hoạt động, phân công trách nhiệm cho từng thành viên của Ban chỉ đạo Trung ương; thành lập Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương, gồm trưởng ban, phó trưởng ban và 03 ủy viên là lãnh đạo các Bộ: Kế hoạch và đầu tư, Tài chính và xây dựng; thành lập văn phòng điều phối Chương trình giúp Ban chỉ đạo Trung ương đặt tại Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Ban chỉ đạo Trung ương về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới có chức năng, nhiệm vụ: Xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm về mục tiêu, nhiệm vụ, các giải pháp và nhu cầu kinh phí thực hiện Chương trình báo cáo Thủ tướng Chính phủ; chỉ đạo các Bộ, ngành xây dựng, hoàn thiện và hướng dẫn cơ chế, chính sách có liên quan về xây dựng nông thôn mới; chỉ đạo các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng đề án triển khai nội dung chương trình xây dựng nông thôn mới; xây dựng cơ chế phối hợp giữa các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ với các cơ quan của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm huy động cả hệ thống chính trị vào thực hiện nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trong việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

– Ban chỉ đạo tỉnh về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

Ban chỉ đạo của tỉnh do Chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng Ban, Phó Ban thường trực là Phó Chủ tịch UBND tỉnh và một Phó ban là Giám đốc Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn; các thành viên Ban chỉ đạo có thành phần tương tự Ban chỉ đạo Trung ương. Thường trực ban chỉ đạo cấp tỉnh là trưởng Ban, các phó trưởng Ban và 3 ủy viên là đại diện lãnh đạo các sở: Kế hoạch – đầu tư, Tài chính, Xây dựng; Thành lập văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới đặt tại Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, giúp Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình trên địa bàn.

Ban chỉ đạo tỉnh có chức năng, nhiệm vụ: Xây dựng kế hoạch hoạt động, Ban hành quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, các ban ngành liên quan; tổng hợp và xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình gửi BCĐ trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; huy động nguồn lực của địa phương, của các đơn vị, tổ chức, các tầng lớp dân cư trong và ngoài tỉnh và lồng ghép các chương trình, dự án khác trên địa bàn để thực hiện; hoàn chỉnh tài liệu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ xây dựng nông thôn trên cơ sở tài liệu khung của Trung ương; tổ chức tuyên truyền, học tập nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng chuyên mục về xây dựng NTM trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương trong suốt quá trình thực hiện Chương trình xây dựng NTM.

Thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với xây dựng NTM theo hướng dẫn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tổng hợp, công bố các tiêu chuẩn, quy chuẩn đánh giá thực trạng nông thôn theo Bộ tiêu chí quốc gia NTM của Trung ương và địa phương; tổng hợp, báo cáo Ban chỉ đạo trung ương về kết quả đánh giá thực trạng nông thôn so với yêu cầu của Bộ tiêu chí quốc gia trên địa bàn; xây dựng, ban hành quy định cụ thể về thực hiện CTMTQG trên địa bàn; chỉ đạo Ban Chỉ đạo các huyện xây dựng các chỉ tiêu đạt được theo tiến độ từng năm, từng giai đoạn và kết thúc Chương trình để làm cơ sở giám sát đánh giá kết quả Chương trình trên địa bàn toàn tỉnh; chỉ đạo các đơn vị, Ban Chỉ đạo các huyện thường xuyên tổ chức kiểm tra thực hiện Chương trình; tổng hợp, báo cáo kết quả đánh giá về Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; chỉ đạo các sở, ban, ngành, các huyện, các đơn vị liên quan tạo điều kiện để Hội đồng Nhân dân các cấp địa phương, Mặt trận Tổ quốc và cơ quan đoàn thể xã hội các cấp, cộng đồng tham gia giám sát và phối hợp giám sát thực hiện Chương trình.

– Ban chỉ đạo huyện về Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới

Ban chỉ đạo của huyện do Chủ tịch UBND huyện làm trưởng Ban, Phó Chủ tịch UBND là Phó trưởng Ban, thành viên gồm lãnh đạo các phòng, ban có liên quan của địa phương, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (hoặc phòng kinh tế) là cơ quan thường trực điều phối, giúp Ban chỉ đạo huyện thực hiện Chương trình trên địa bàn.

Ban chỉ đạo huyện có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau: xây dựng kế hoạch hoạt động, Ban hành quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên, các phòng, ban liên quan; tổng hợp và xây dựng kế hoạch thực hiện chương trình gửi BCĐ tỉnh, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; huy động nguồn lực của địa phương, của các đơn vị, tổ chức, các tầng lớp dân cư để thực hiện.

Tổ chức tuyên truyền, học tập nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng chuyên mục về xây dựng NTM trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương trong suốt quá trình thực hiện Chương trình xây dựng NTM; thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với xây dựng NTM theo hướng dẫn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tổng hợp, công bố các tiêu chuẩn, quy chuẩn đánh giá thực trạng nông thôn theo Bộ tiêu chí quốc gia NTM của Trung ương và địa phương; hướng dẫn, hỗ trợ xã rà soát, đánh giá thực trạng nông thôn; tổng hợp chung báo cáo Ban Chỉ đạo tỉnh; hỗ trợ xã xây dựng đề án xây dựng NTM; giúp UBND huyện tổ chức thẩm định và phê duyệt đề án theo đề nghị của UBND xã; giúp UBND huyện quyết định đầu tư, phê duyệt báo cáo kinh tế – kỹ thuật các công trình được ngân sách nhà nước hỗ trợ trên 03 (ba) tỷ đồng trong tổng giá trị của công trình; tổng hợp kế hoạch thực hiện các nội dung của Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn hàng năm và 5 năm báo cáo Ban Chỉ đạo tỉnh.

– Cấp xã: Ban quản lý xây dựng nông thôn mới xã do Chủ tịch UBND xã làm trưởng Ban, Phó Chủ tịch UBND xã là Phó trưởng Ban, thành viên là đại diện một số cơ quan chuyên môn và đại diện một số Ban, ngành, đoàn thể chính trị xã.

Ban chỉ quản lý xã có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau: Xây dựng kế hoạch hoạt động, Ban hành quy chế làm việc, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên; tổng hợp, xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch thực hiện chương trình gửi BCĐ huyện; huy động nguồn lực của địa phương, của các đơn vị, tổ chức, các tầng lớp dân cư để thực hiện. – Thành lập tổ khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn trên địa bàn xã; xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch triển khai xây dựng nông thôn mới trên địa bàn xã; tổ chức tuyên truyền, học tập nghiên cứu các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, xây dựng chuyên mục về xây dựng NTM trên các phương tiện thông tin đại chúng của địa phương trong suốt quá trình thực hiện Chương trình xây dựng NTM; thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” gắn với xây dựng NTM theo hướng dẫn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

1.2.2. Đối tượng của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường

Đối tượng của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới là các hoạt động, quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực xây dựng nông thôn mới bao gồm: quản lý việc hoạch định chiến lược; quản lý việc quy hoạch xây dựng nông thôn mới; quản lý việc ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý nhà nước về thực hiện các chính sách về xây dựng nông thôn mới; quản lý việc thực hiện các nội dung xây dựng nông thôn mới như: phát triển hạ tầng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, nâng cao thu nhập, giảm nghèo và an sinh xã hội, phát triển giáo dục đào tạo ở nông thôn, phát triển y tế – chăm sóc sức khỏe cho dân cư nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa, cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn… như vậy đối tượng của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội và môi trường là những hoạt động có quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực vực văn hóa, xã hội và môi trường.

Đối tượng của quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực vực văn hóa, xã hội và môi trường là các cá nhân, tổ chức có liên quan đến các hoạt động trong lĩnh vực vực văn hóa, xã hội và môi trường.

1.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường

1.2.3.1. Nội dung QLNN về xây dựng nông thôn mới.

Nội dung QLNN về xây dựng nông thôn mới bao gồm: Quy hoạch xây dựng nông thôn mới; Phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội;  Phát triển sản xuất gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân.; Giảm nghèo và an sinh xã hội; Phát triển giáo dục ở nông thôn; Phát triển y tế cơ sở, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe người dân nông thôn; Nâng cao chất lượng đời sống văn hóa của người dân nông thôn; Vệ sinh môi trường nông thôn, khắc phục, xử lý ô nhiễm và cải thiện môi trường tại các làng nghề; Nâng cao chất lượng, phát huy vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội trong xây dựng nông thôn mới; cải thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ hành chính công; bảo đảm và tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân; Giữ vững quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội nông thôn; nâng cao năng lực xây dựng nông thôn mới và giám sát, đánh giá thực hiện Chương trình, chuyền thông về nông thôn mới.

1.2.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường.

Nội dung quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường bao gồm [22]:

Xây dựng đời sống văn hóa và thông tin và truyền thông: thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về văn hóa. Phấn đấu xã có trên 70% số thôn, bản đạt tiêu chuẩn “Làng văn hóa” theo Quyết định 62/2006/QĐ-BVHTT ngày 23/6/2006 (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch); thực hiện thông tin và truyền thông nông thôn. Xã có Đài truyền thanh xã hoạt động có hiệu quả.

Bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống với phương châm “mỗi làng một sản phẩm”; đẩy mạnh việc đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn, đưa công nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm, chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn.

Giảm nghèo, an sinh xã hội: Thực hiện có hiệu quả Chương trình giảm nghèo nhanh, bền vững theo Nghị quyết 30a của chính Phủ; tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo; thực hiện an sinh xã hội.

Phát triển giáo dục đào tạo: Đạt và duy trì chuẩn quốc gia về phổ cập tiểu học và chống mù chữ. Đảm bảo việc huy động trẻ 6 tuổi học lớp 1 đạt 90% (xã đặc biệt khó khăn đạt 80%) trở lên. Ít nhất 80% (xã đặc biệt khó khăn đạt 70 %) số trẻ nhóm tuổi 11-14 tốt nghiệp tiểu học và số còn lại đang học tiểu học. Phổ cập giáo dục trung học, đảm bảo tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở hàng năm từ 90% (xã đặc biệt khó khăn đạt 70%) trở lên. Tỷ lệ thanh thiếu niên 15-18 tuổi có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở từ 80% (xã đặc biệt khó khăn đạt 70%) trở lên; nâng cao tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở và tiếp tục học trung học phổ thông; đẩy mạnh công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân: Tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế (theo Quyết định 108/2007/QĐ-Tg, ngày 17/7/2007 của Thủ Tướng Chính Phủ); nâng cao tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế.

Ban hành, thực hiện nội quy, quy ước làng xóm về trật tự, an ninh; phòng chống các tệ nạn xã hội và các hủ tục lạc hậu; hàng năm Đảng ủy có nghị quyết và UBND có kế hoạch về công tác an ninh, xã đạt đơn vị khá trở lên trong “Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” và Công an xã đạt danh hiệu “Đơn vị tiên tiến” trở lên; đảm bảo cho lực lượng an ninh xã, thôn, xóm hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn theo yêu cầu xây dựng nông thôn mới; không để xẩy ra các hoạt động chống đối Đảng và nhà nước; không để xẩy ra mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân, các loại tội phạm và tai nạn giao thông giảm.

Cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn: Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Đảm bảo việc cung cấp đủ nước sinh hoạt sạch và hợp vệ sinh cho dân cư, trường học, trạm y tế, công sở và các khu dịch vụ công cộng; Chỉ đạo nhân dân xây dựng hố xí đảm bảo vệ sinh.

Thực hiện các yêu cầu về bảo vệ, cải thiện môi trường trên địa bàn xã: Xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong thôn, xóm; các thôn, xóm đều có tổ vệ sinh; phát quang và khơi thông cống rãnh; Xây dựng các điểm thu gom và xử lý rác thải đạt yêu cầu chung theo TCVN 6696-2000; bãi chôn lấp chất thải rắn được xây dựng mới theo tiêu chuẩn thiết kế TCXDXN 261-2001; Chỉnh trang và cải tạo nghĩa trang đảm bảo theo tiêu chuẩn TCVN 7956:2008; Cải tạo và xây dựng các hồ sinh thái trong khu dân cư; Trồng cây xanh ở các công trình công cộng.

Xây dựng đường làng, ngõ xóm xanh, sạch, đẹp và không lầy lội vào mùa mưa, trong đó phần lớn được cứng hóa theo tiêu chuẩn 22TCVN 210:1992 hoặc tiêu chuẩn thiết kế áo đường cứng 22 TCN 223-95.

Hoàn thiện các hệ thống công trình phục vụ nhu cầu về hoạt động văn hóa, thể thao trên địa bàn: xây dựng và hoàn thiện trung tâm văn hóa, thể thao xã đảm bảo theo quy định trung tâm văn hóa, thể thao xã của Bộ văn hóa, thể thao và Du lịch; xây dựng, hoàn thiện nhà văn hóa và khu thể thao thôn; hoàn thiện các hệ thống công trình bảo đảm cung cấp điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn đáp ứng quy trình kỹ thuật điện nông thôn; hoàn thiện các công trình phục vụ chuẩn hóa về y tế trên địa bàn theo Quyết định 370/2002/QĐ-BYT, ngày 07/2/2002 của Bộ Y tế; hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hóa về giáo dục trên địa bàn; hoàn thiện các trường mầm non, nhà trẻ có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCXDVN 262:2002 và đảm bảo quy định theo Quyết định số 36/2008/QĐ-BGD&ĐT, ngày 16/7/2008 của Bộ Giáo dục về ban hành Quy chế công nhận trường mầm non đạt chuẩn quốc gia; hoàn thiện các trường tiểu học có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCVN 3978-1984 và đảm bảo quy định theo Quyết định số 32/2005/QĐ-BGD&ĐT, ngày 24/10/2005 của Bộ Giáo dục về ban hành Quy chế về chuẩn công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia; hoàn thiện các trường trung học cơ sở có cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia theo tiêu chuẩn xây dựng Việt Nam TCVN 3978-1984 và đảm bảo quy định theo Quyết định số 27/2001/QĐ-BGD&ĐT, ngày 05/7/2001 của Bộ Giáo dục về ban hành Quy chế công nhận trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chợ nông thôn đạt chuẩn TCXDVN 361:2000 của Bộ xây dựng; xây dựng các điểm phục vụ bưu chính viễn thông theo quy định với diện tích tối thiểu 150m2; xây dựng các điểm cung cấp dịch vụ truy nhập Internet ở nông thôn.

Cải tạo và xây mới các hệ thống thủy lợi trên địa bàn: Xây dựng các đê hoặc bờ bao chống lũ theo tiêu chuẩn hoàn chỉnh của mặt cắt thiết kế, cứng hóa mặt đê và đường hành lang chân đê, trồng cỏ mái đê, trồng cây chân đê; cống dưới đê vững chắc, đồng bộ với mặt cắt đê; xử lý sạt lở đảm bảo ổn định; đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp; có ban chỉ huy phòng chống lụt bão xã, có đội quản lý đê nhân dân, đội tuần tra, canh gác đê trong mùa mưa lũ theo quy định và hoạt động có hiệu quả; Hoàn thiện các công trình tưới tiêu, cấp nước công nghiệp, cấp nước sinh hoạt đảm bảo theo tiêu chuẩn thiết kế đối với từng loại, phát huy trên 75% năng lực thiết kế, 100% công trình có chủ quản lý đích thực; Kiên cố hóa hệ thống kênh mương.

Hoàn thiện trụ sở UBND xã: Trụ sở UBND xã xây dựng ở trung tâm, thuận tiện cho việc đối nội, đối ngoại; diện tích khuôn viên tối thiểu 1000m2, diện tích sử dụng của trụ sở UBND xã đối với khu vực đồng bằng, trung du tối thiểu 500m2, khu vực miền núi hải đảo tối thiểu 400m2; mật độ xây dựng dưới 50%, mật độ cây xanh trên 30%.

Về nhà ở nông thôn: Chỉnh trang các khu dân cư hiện có; xóa nhà tạm, dột nát, xây dựng, hoàn thành nhà ở nông thôn đạt tiêu chuẩn của Bộ xây dựng, phù hợp với Quy hoạch theo Thông tư số: 31/2009/TT-BXD, ngày 10/9/2009 của Bộ Xây dựng…

Tóm lại, quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, và môi trường sẽ làm cho đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao. Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ. Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy. An ninh tốt. Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao.

1.2.4. Phương pháp quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới

Phương pháp quản lý nhà nước nói chung cũng như pháp phương quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới bao gồm những phương pháp: phương pháp thuyết phục, phương pháp cưỡng chế, phương pháp hành chính và phương pháp kinh tế.

1.2.4.1. Phương pháp thuyết phục

 Phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết để tự giác thực hiện những hành vi nhất định hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.

Phương pháp thuyết phục do chủ thể quản lý nhà nước sử dụng để tác động lên đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Bản chất của phương pháp thuyết phục là làm cho đối tượng quản lý hiểu rõ sự cần thiết và tự giác thực hiện hoặc tránh thực hiện những hành vi nhất định.

Phương pháp thuyết phục được thể hiện bằng những hoạt động như: động viên, giải thích, hướng dẫn, chứng minh… làm cho đối tượng hiểu rõ và tự giác chấp hành các yêu cầu của chủ thể quản lý.

1.2.4.2. Phương pháp cưỡng chế

 Phương pháp cưỡng chế là biện pháp bắt buộc bằng bạo lực của các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đối với những cá nhân, tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định buộc cá nhân, tổ chức đó phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải phục tùng những hạn chế về mặt tài sản hoặc tự do thân thể.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAM LAM DOT 10\HANH CHINH\VO THI HAU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *