Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ

Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong cuộc sống hàng ngày, do sự khác biệt về lợi ích kinh tế, quan niệm, nhận thức, lối sống, tính cách… nên việc nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình, giữa các hộ gia đình và giữa các cá nhân với nhau trong cộng đồng dân cư là điều tất yếu không thể tránh khỏi. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn nhưng phần lớn là xuất phát từ những điều rất nhỏ. Do những người trong cuộc thường không đủ tỉnh táo để nhìn nhận sự việc, kiềm chế, chẳng ai chịu nhường ai nhưng nếu không giải quyết kịp thời thì “chuyện bé xé ra to“, từ tranh chấp thuần tuý dân sự, kinh tế, có thể trở thành vụ án hình sự, gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân. Những mâu thuẫn, tranh chấp này có thể giải quyết bằng nhiều hình thức (các bên tự thoả thuận, thương lượng, trọng tài, toà án và hòa giải). Song người Việt Nam vốn coi trọng tình cảm, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái luôn là nền tảng để giải quyết mọi việc nên khi có mâu thuẫn, xích mích xảy ra nhân dân ta đã biết hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp tự thương lượng, “chín bỏ làm mười”,“một điều nhịn, chín điều lành”…để giải toả những bất đồng, mâu thuẫn giữa họ. Hoạt động này được gọi là hòa giải ở cơ sở. Ngày nay, mặc dù dưới tác động của tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống kinh tế – xã hội của người Việt Nam đang có những biến đổi sâu sắc, mạnh mẽ song hoạt động hòa giải vẫn tồn tại và ngày càng phát huy.

Trong thời gian qua, hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn và còn tồn tại một số khó khăn bất cập như: công tác hòa giải chưa được chính quyền một số phường quan tâm đúng mức; việc hòa giải có nơi có lúc chưa thực hiện kịp thời, đúng quy định; kiến thức pháp luật và kỹ năng hòa giải của một số hòa giải viên còn hạn chế…

Trước thực tế như vậy, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” nhằm tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ .

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

2.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài này tác giả tập trung nghiên cứu để tìm hiểu về tổ chức, hoạt động của Tổ hòa giải; quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở và sự phối hợp giữa cơ quan tư pháp với MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở để từ đó tìm ra những nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường và nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ .

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đề ra, luận văn có nhiệm vụ:

– Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở.

– Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế trong quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ

– Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý Nhà nước về hòa giải ở cơ sở và việc áp dụng các quy định này trên địa bàn quận Cẩm Lệ .

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Không gian: Đề tài nghiên cứu tại địa bàn quận Cẩm Lệ , thành phố Đà Nẵng.

Thời gian: Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2009 trở lại đây.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Đề tài lấy triết học Mác- Lênin và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cơ sở phương pháp luận nhằm thừa nhận tính khách quan của các quy luật hoạt động và phát triển của xã hội, thừa nhận quan điểm lịch sử với sự nhận thức các hiện tượng, các quá trình của đời sống xã hội, thừa nhận quan điểm: “Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội”.

4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể

Đề tài sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh các tài liệu, số liệu thu thập được ; các văn bản, tạp chí.

5. Những đóng góp mới của đề tài

Hệ thống hoá cơ sở lý luận chung nhất về hòa giải ở cơ sở và quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở.

Đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ từ năm 2009 trở lại đây.

Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ.

6. Kết cấu của đề tài: gồm ba chương

Chương 1: Cơ sở lý luận của quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ

Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÒA GIẢI VÀ HÒA GIẢI Ở CỞ SỞ

1.1.1. Khái niệm hòa giải

Trong lịch sử phát triển của nhân loại, con người sinh ra, tồn tại và phát triển trong mối quan hệ bền chặt với cộng đồng và xã hội. Thông qua sinh hoạt cộng đồng, các cá nhân đã gắn kết với nhau thành cộng đồng dân cư, dân tộc, quốc gia, hình thành các quan hệ xã hội đa chiều, đa lợi ích đan xen nhau. Động lực vận động và phát triển của các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự nói riêng là nhu cầu thực tiễn của đời sống xã hội.

Như vậy, hòa giải xem xét ở mức độ chung, là một biện pháp giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, theo đó, với sự giúp đỡ của cá nhân, tổ chức giữ vai trò trung gian, các bên mâu thuẫn, tranh chấp tự nguyện thoả thuận giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp phù hợp với quy định pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội.

1.1.2. Khái niệm hòa giải ở cơ sở

Hòa giải ở cơ sở là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hoạt động hòa giải mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người và trên cơ sở tình người. Mục đích chính của công tác hòa giải ở cơ sở nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng đồng, tập thể, hàn gắn, vun đắp sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Hòa giải mang lại niềm vui cho mọi người, mọi nhà góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân.

1.1.3. Quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Ngay sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, các văn bản liên quan đến tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở đã được ban hành như: Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/11/1946, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946…

Và mới đây nhất, ngày 20/6/2013, Quốc hội đã ban hành Luật số: 35/2013/QH13 về hòa giải ở cơ sở thay cho Pháp lệnh số 09/1998/PL – UBTVQH ngày 25/12/1998 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở ; và ngày 27/02/2014 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Đây là hai văn bản luật quy định một cách đầy đủ và đồng bộ các vấn đề về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở, thể hiện tính kế thừa, tính liên tục của truyền thống hòa giải ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng đội ngũ tổ viên Tổ hòa giải và tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội khác, cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang và công dân đối với công tác hòa giải ở cơ sở.

1.1.4. Vai trò của hòa giải ở cơ sở

Công tác hòa giải có vai trò quan trọng trong việc xây dựng tình làng, nghĩa xóm đầm ấm, đùm bọc giúp đỡ nhau, xây dựng xã hội bình yên, giàu mạnh, tăng cường tình đoàn kết trong nhân dân và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân.

1.1.5. Mô hình tổ chức hòa giải ở cơ sở

Theo Điều 2 Luật hòa giải ở cơ sở quy định: “Hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo quy định của pháp luật”. Khuyến khích các bên giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp bằng hình thức hòa giải ở cơ sở và các hình thức hòa giải thích hợp khác.

1.1.6. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ của tổ viên, tổ trưởng Tổ hòa giải

1.1.6.1. Tiêu chuẩn tổ viên Tổ hòa giải

Tổ viên Tổ hòa giải do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận lựa chọn, giới thiệu để nhân dân bầu và được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ra quyết định công nhận. Người được bầu làm hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải và có các tiêu chuẩn sau đây: Có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư; Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật. (Điều 7 Luật hòa giải ở cơ sở).

1.1.6.2. Quyền hạn, nhiệm vụ của Tổ viên Tổ hòa giải

1.1.6.3. Quyền hạn, nhiệm vụ của Tổ trưởng Tổ hòa giải

1.1.7. Thủ tục bầu tổ viên, tổ trưởng Tổ hòa giải

1.1.8. Miễn nhiệm Tổ viên Tổ hòa giải

1.1.9. Nguyên tắc và phạm vi hòa giải

1.1.9.1. Nguyên tắc hòa giải

Nguyên tắc hòa giải là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi tiến hành hoạt động hòa giải phải tuân thủ một cách đầy đủ, toàn diện và nghiêm túc. Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 của Luật hòa giải ở cơ sở.

1.1.9.2. Phạm vi hòa giải

Đây là điểm mới quan trọng của Luật hòa giải cơ sở so với Pháp lệnh trước đây. Luật quy định phạm vi hòa giải ở cơ sở theo hướng loại trừ, chỉ quy định các trường hợp không được hòa giải. Phạm vi hòa giải ở cơ sở được quy định với yêu cầu bảo đảm các vấn đề như: Việc hòa giải ở cơ sở không được ảnh hưởng đến quá trình cơ quan có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm pháp luật, không được lợi dụng hòa giải ở cơ sở để trốn tránh trách nhiệm hành chính, hình sự.

Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

1.2. CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

– Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, xã, phường, thị trấn (3/2002) khẳng định: “Trong hệ thống chính quyền bốn cấp ở nước ta, cấp cơ sở có vai trò rất quan trọng. Hiện nay, 79 triệu dân cả nước cư trú tại 10.538 đơn vị cơ sở, gồm 8947 xã, 565 thị trấn, 1026 phường. Cơ sở là cấp chấp hành, làm cầu nối trực tiếp giữa toàn bộ hệ thống chính trị với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc và làm việc với nhân dân, nắm bắt và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế – xã hội, tổ chức cuộc sống dân cư”.

1.3. VAI TRÒ CỦA UỶ BAN MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VỀ CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức có mạng lưới rộng khắp, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động, quy tụ, tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật…

1.4. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

1.4.1. Khái niệm quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở

Hòa giải ở cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện, tự quản đã trở thành đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Hòa giải ở cơ sở không chỉ đơn thuần góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự và phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, củng cố tình làng, nghĩa xóm, tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.

1.4.2. Ý nghĩa của quản lý nhà nước về hoạt động hòa giải ở cơ sở

Trong những năm qua, trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng hoạt động hòa giải và quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở chưa được quan tâm tương xứng với ý nghĩa vai trò của công tác này. Đội ngũ cán bộ quản lý hòa giải ở cơ sở chưa được quan tâm cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động quản lý còn lơi lỏng, chưa bảo đảm thực chất, tính hiệu quả thấp. Hiện trạng đó có nguyên nhân từ cơ chế tổ chức cán bộ. Đây cũng là một bất cập cần được đổi mới từ tư duy đến hành động, từ chủ trương đường lối đến tổ chức thực hiện.

1.4.3. Nội dung quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở

Theo quy định tại Luật hòa giải ở cơ sở; và Nghị định 15/2014/NĐ-CP ban hành ngày 27/2/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở thì nội dung quản lý nhà nước về công tác hòa giải bao gồm:

Một là, ban hành văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải;

Hai là, hướng dẫn về tổ chức và hoạt động hòa giải;

Ba là, tổ chức bồi dưỡng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ hòa giải cho người làm công tác hòa giải;

Bốn là, sơ kết, tổng kết công tác hòa giải.

1.4.4. Trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở

Các cơ quan quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở bao gồm: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác hòa giải trong phạm vi cả nước; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở cơ sở và chỉ đạo, hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác hòa giải ở địa phương.

1.5. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

1.5.1. Sự hòan thiện của các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở

Từ khi Luật hòa giải ở cơ sở có hiệu lực, công tác hòa giải ở cơ sở càng được quan tâm và làm tốt hơn nữa, là căn cứ pháp lý để các Tổ viên Tổ hòa giải bám sát hoạt động. Nếu như trước đây, các văn bản quy phạm pháp luật chỉ có nội dung chung chung về công tác hòa giải ở cơ sở thì Luật hòa giải cơ sở, Nghị định 15/2014/NĐ-CP ngày 27/2/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở đã quy định rõ ràng, chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của tổ viên, tổ trưởng Tổ hòa giải, những vụ việc được hòa giải, chế độ khen thưởng, thù lao cho hòa giải viên, hổ trợ cho hòa giải viên khi gặp rủi ro, tai nạn ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng trong khi thực hiện hoạt động hòa giải, quy định về xử lý vi phạm.

Như vậy, có thể thấy Đảng và Nhà nước ta đã có những quy định cụ thể về công tác hòa giải ở cơ sở, củng cố và phát triển đội ngũ hòa giải viên, Tổ hòa giải trong thời gian tới là một trong những mục tiêu, định hướng nhằm phát huy hơn nữa vai trò của hòa giải trong đời sống xã hội. Việc duy trì, phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả hòa giải ở cơ sở cũng chính là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội.

1.5.2. Công tác tổ chức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở

Một trong những yếu tố tác động đến quản lý Nhà nước về hòa giải ở cơ sở là công tác tổ chức thực hiện pháp luật về hòa giải ở cơ sở. Đó là quá trình hướng dẫn, chuẩn bị các nguồn lực (như con người, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất,…) bảo đảm sẵn sàng, phù hợp ngay từ khi tổ chức học tập, quán triệt vận dụng để các cơ quan quản lý nhà nước, Tổ hòa giải thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

1.5.3. Năng lực, trình độ, tinh thần trách nhiệm của cán bộ làm công tác hòa giải ở cơ sở

Như chúng ta đã biết, hoạt động hòa giải ở cơ sở liên quan trực tiếp đến việc tự nguyện chấp hành và tôn trọng pháp luật của nhân dân. Hòa giải viên là người làm trung gian dàn xếp, thương lượng, giải thích, thuyết phục mà không hề có bất kỳ một sự áp đặt hay mệnh lệnh nào can thiệp từ phía cơ quan nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân. Kết quả hòa giải hòan toàn phụ thuộc vào ý chí của chính “người trong cuộc”. Thiết nghĩ, hiểu rõ bản chất của hòa giải ở cơ sở sẽ đề ra biện pháp quản lý phù hợp với tính chất, đặc điểm của nó và phát huy cao nhất lợi thế của hoạt động hòa giải. Trên thực tế, chúng ta đang sử dụng châm ngôn của cha ông làm nguyên tắc và mục tiêu hòa giải. Đó là “trăm cái lý không bằng tý cái tình!” (đương nhiên, cái tình ở đây phải phù hợp với pháp luật và phù hợp với thuần phong mỹ tục, phong tục, tập quán của địa phương và cơ sở, phù hợp với truyền thống đạo lý của nhân dân). Hoạt động tuyên truyền pháp luật một cách “thuần tuý” được áp dụng trong quản lý hòa giải có thể rất đúng pháp luật nhưng chưa hẳn đã hiệu quả bởi người cán bộ chỉ có kiến thức pháp luật thôi chưa đủ; không có hiểu biết đầy đủ về hòa giải ở cơ sở chưa chắc đưa ra được đề xuất, tham mưu trúng, đúng trong quá trình quản lý hòa giải; nhất là bản thân cán bộ đó không có nghiệp vụ về hòa giải, lại ít kinh nghiệm cuộc sống. Có như vậy, mới phát huy được sức mạnh của dân, mới khơi dậy được tinh thần tự giác, tích cực trong dân, mới thực sự xã hội hoá được việc giải quyết vi phạm pháp luật. Một khi, cán bộ không có nhiều thực tế cuộc sống, không hiểu biết sâu sắc về nghiệp vụ hòa giải, không có được sự đồng cảm, sẻ chia, tâm huyết với dân, chỉ nắm vấn đề tổng quát, qua loa về ý nghĩa, vai trò công tác hòa giải thì không thể có nhiều sáng kiến, cải cách trong quản lý hoạt động đó.

1.5.4. Nhận thức của cộng đồng dân cư

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức cho nhân dân là biện pháp hiệu quả góp phần bảo đảm ổn định an ninh trật tự và phát triển kinh tế – xã hội, nhất là đảm bảo việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mọi công dân… Trong đó, tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về hòa giải ở cơ sở là hoạt động để quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở đạt hiệu quả cao.

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HÒA GIẢI

Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ

­2.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ VỚI CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

Quận Cẩm Lệ được thành lập theo Nghị định số 102/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ trên cơ sở phường Khuê Trung thuộc quận Hải Châu và xã Hòa Thọ, xã Hòa Phát, xã Hòa Xuân thuộc huyện Hòa Vang. Sau khi thành lập, quận Cẩm Lệ gồm có 6 phường: Khuê Trung, Hòa Thọ Tây, Hòa Thọ Đông, Hòa Phát, Hòa An, Hòa Xuân với tổng diện tích tự nhiên là 3.525,27 ha, dân số 100.877 người.

2.1.2. Thực trạng phát triển kinh tế – xã hội

2.2. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ

2.2.1. Tổ chức và hoạt động của Tổ hòa giải

2.2.1.1. Về tổ chức của Tổ hòa giải

Tổ hòa giải trên địa bàn quận Cẩm Lệ được thành lập ở 100% các tổ dân phố, khu dân cư. Tuỳ đặc điểm, tình hình cụ thể của cơ sở, Chủ tịch UBND các phường quyết định số lượng Tổ hòa giải ở địa phương.

2.2.1.2. Về hoạt động của Tổ hòa giải

Trong những năm qua, các thành viên của Tổ hòa giải sống trong cộng đồng dân cư thường xuyên chăm lo về cuộc sống tinh thần cho từng gia đình. Mỗi khi có những mâu mắc phát sinh trong từng gia đình, thành viên của Tổ hòa giải đã lắng nghe gặp gỡ, phân tích những điều hay lẽ phải, giảng giải cho đôi bên thấy được những sai sót của mình tự nguyện thoả thuận, biến những vụ việc từ to thành bé, biến có thành không.

2.2.2. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý về hòa giải ở cơ sở

Trong những năm qua, công tác tư pháp được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm đổi mới, cải cách, đặc biệt đối với công tác hòa giải ở cơ sở luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Quận uỷ, UBND, UBMTTQ quận và Sở tư pháp thành phố Đà Nẵng đến hoạt động hòa giải và quản lý hòa giải ở cơ sở.

2.2.3. Công tác triển khai, tuyên truyền, phổ biến các văn bản về công tác hòa giải ở cơ sở, tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hòa giải cho đội ngũ Hòa giải viên

UBND quận Cẩm Lệ đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho người dân thông qua công tác hòa giải ở cơ sở, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ Hòa giải viên góp phần nâng cao kiến thức và kỹ năng hòa giải cho họ.

2.2.4. Về công tác sơ kết, tổng kết, thi đua khen thưởng

Trong quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở nói chung và cơ chế chính sách cho công tác hòa giải ở cơ sở nói riêng quận Cẩm Lệ luôn chú trọng tổ chức các hoạt động sơ kết, tổng kết, đánh giá thi đua khen thưởng công tác hòa giải ở cơ sở.

2.2.5. Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở

Bên cạnh việc quan tâm tổ chức tốt hoạt động sơ kết, tổng kết thi đua khen thưởng, Quận cũng còn chú ý đến kiểm tra, hướng dẫn cơ sở trong thực thi văn bản quy phạm pháp luật về hòa giải. Phòng Tư pháp quận thường xuyên chủ động phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc, Ban Tuyên giáo Quận uỷ, Hội liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, v.v… giúp UBND Quận tổ chức kiểm tra, hướng dẫn UBND các phường trong quá trình triển khai, thực hiện các quy định của pháp luật về hòa giải.

2.2.6. Sự phối hợp giữa cơ quan tư pháp với MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hòa giải ở cơ sở

Công tác hòa giải là công tác vận động quần chúng do vậy đòi hỏi sự tham gia tích cực của các ban, ngành, tổ chức chính trị xã hội ở cơ sở và phải gắn chặt với các phong trào quần chúng ở địa phương.

2.3. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ

Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Mạng lưới Tổ hòa giải được thành lập rộng khắp; hoạt động quản lý nhà nước về hòa giải từ Quận đến phường và các Tổ dân phố đã được quan tâm, chỉ đạo và đi vào nề nếp; chất lượng, hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng lên, hàng năm tỷ lệ hòa giải thành đạt trên 80%; hoạt động hòa giải ở cơ sở đã giải quyết kịp thời những mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân, giữ gìn tình đoàn kết, gắn bó trong nội bộ nhân dân, phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân tại cộng đồng, tạo nên sự đồng thuận, ổn định, thúc đẩy kinh tế – xã hội ở địa phương phát triển.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ vẫn còn một số những tồn tại, hạn chế như sau:

Một là, về mô hình tổ chức hòa giải;

Hai là, về hoạt động của Tổ hòa giải;

Ba là, về kinh phí phục vụ cho hoạt động hòa giải;

Bốn là, về công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở;

Năm là, về đội ngũ cán bộ quản lý về công tác hòa giải;

Sáu là, công tác sơ, tổng kết, thi đua khen thưỏng trong công tác hòa giải ở cơ sở;

2.4. NHỮNG NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

2.4.1. Nguyên nhân

Các văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở chưa hòan thiện, một số quy định trong Pháp lệnh và Nghị định về công tác hòa giải ở cơ sở còn chung chung, không rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp dụng chưa được thống nhất;

– Công tác quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở có nơi, có lúc chưa được quan tâm;

– Sự quan tâm, chỉ đạo của một số cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở đối với công tác hòa giải chưa thực sự sâu sát, quyết liệt;

– Đội ngũ cán bộ Tư pháp một số phường chưa được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kiến thức quản lý nhà nước và nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở nên chưa phát huy tốt được vai trò tham mưu cho UBND phường trong việc quản lý nhà nước đối với công tác hòa giải ở địa phương.

– Công tác bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ cho Toà giải viên chưa được tổ chức thường xuyên, chưa cập nhật kiến thức pháp luật kịp thời cho Hòa giải viên; tài liệu còn hạn chế.

– Hòa giải viên phần lớn là những người lớn tuổi, đã nghỉ hưu, sức khoẻ hạn chế trong khi đó để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong nội bộ nhân dân ở cơ sở đòi hỏi mất nhiều thời gian cũng như sức lực.

– Một số phường chưa quan tâm đầu tư kinh phí cho công tác hòa giải ở cơ sở.

– Chế độ thông tin, báo cáo về công tác hòa giải ở nhiều phường chưa kịp thời làm ảnh hưởng đến việc tổng hợp chung của Quận.

2.4.2. Bài học kinh nghiệm

Từ thực trạng công tác hòa giải ở cơ sở tại quận Cẩm Lệ trong những năm qua có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về công tác quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở sau đây:

Một là: Xác định quan điểm chung là đề cao hoạt động hòa giải ở cơ sở đồng thời coi trọng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này.

Hai là: Quán triệt sâu sắc ý nghĩa, vai trò của hoạt động hòa giải ở cơ sở, làm cho tinh thần ấy thấm sâu vào toàn bộ hệ thống lãnh đạo, quản lý mà cụ thể là cấp uỷ từ Thành phố đến quận, huyện, xã, phường và từng cán bộ, đảng viên; phải thực sự biến tư tưởng ấy thành hành động cụ thể, thiết thực.

Ba là: Thường xuyên bám sát cơ sở, kiểm tra thực tế hoạt động của cơ sở; lắng nghe tiếng nói từ cơ sở; trực tiếp tham dự một số buổi hòa giải phức tạp để nắm được Hòa giải viên mạnh yếu gì? Thiếu gì cần bổ sung? Khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ?

Bốn là: Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội.

Năm là: Xây dựng kế hoạch tổ chức, hướng dẫn cơ sở thiết thực, cụ thể. Tránh tình trạng kế hoạch đề ra chung chung.

Sáu là: Thường xuyên tổ chức Hội thi hòa giải viên giỏi, tạo điều kiện trau dồi, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ cho Hòa giải viên.

Bảy là: Cần xác định rõ công tác bồi dưỡng nghiệp vụ hoạt động Tổ hòa giải và Hòa giải viên là công tác thường xuyên để nâng cao chất lượng hòa giải ở cơ sở.

Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ

3.1. SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

Với chủ trương đổi mới toàn diện đất nước, trong đó, đổi mới kinh tế là trung tâm, đổi mới chính trị từng bước thận trọng, trong thời gian gần đây và những năm tiếp theo, Nhà nước quan tâm thực hiện các chức năng xã hội, mở rộng dân chủ ở cơ sở, đổi mới cơ chế để nhân dân trực tiếp tham gia quản lý xã hội ngày càng nhiều hơn và hiệu quả hơn. Nhằm phát huy tinh thần dân chủ, tự giác, tích cực của nhân dân, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tự quản của nhân dân thành lập và phát triển.Việc thành lập Hội và định hướng phát triển hoạt động của các Hội trong nhân dân được Nhà nước ngày càng chú trọng, trên cơ sở tôn trọng pháp luật, phù hợp với Pháp luật.

3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ

Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về hòa giải ở cơ sở trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

3.2.1. Nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở

Trong tình hình hiện nay, việc nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ và nhân dân ngày càng được coi trọng. Phổ biến, giáo dục pháp luật qua hoạt động hòa giải ở cơ sở là một trong các hình thức tuyên truyền, đơn giản, thiết thực và hiệu quả. 

3.2.2. Tăng cường trách nhiệm của UBND các cấp

UBND quận cần thực hiện những nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, tăng cường chỉ đạo công tác hòa giải ở cơ sở, thường xuyên đôn đốc kiểm tra UBND các phường thực hiện các nhiệm vụ về công tác hòa giải.

Thứ hai, định kỳ tổ chức tập huấn nghiệp vụ hòa giải và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ Tư pháp các phường. Tổ trưởng các Tổ hòa giải và các hòa giải viên.

Thứ ba, đưa vào dự toán ngân sách hàng năm một khoản kinh phí để chi thù lao cho các Tổ hòa giải, cho các hoạt động tập huấn nghiệp vụ hòa giải và bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ Tư pháp xã, phường, thị trấn Tổ trưởng các Tổ hòa giải theo Thông tư 63/2005/TT-BTC về hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

UBND các phường cần triển khai tốt các công việc sau:

Thứ nhất, thường xuyên nâng cao nhận thức cho các tổ chức hòa giải, các hòa giải viên cũng như toàn thể cộng đồng dân cư về tầm quan trọng, ý nghĩa chính trị – xã hội của công tác hòa giải ở cơ sở.

Thứ hai, tăng cường sự chỉ đạo hướng dẫn các Tổ hòa giải tích cực, chủ động trong việc hòa giải; bảo đảm 100% các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ được hòa giải ngay tại tổ dân phố; phấn đấu tỷ lệ hòa giải thành ngày càng cao.

Thứ ba, kịp thời củng cố, kiện toàn các Tổ hòa giải và đội ngũ hòa giải viên cơ sở; vận động những người có kiến thức pháp luật, có uy tín xã hội, có sức khoẻ, có nhiệt tình tham gia. Đảm bảo đủ số lượng thành viên trong mỗi tổ hòa giải theo quy định.

Thứ tư, định kỳ tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ hòa giải và kiến thức pháp luật cho các hòa giải viên cơ sở; cung cấp đủ, kịp thời các tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ và sách pháp luật cho các Tổ hòa giải để phục vụ cho công tác hòa giải.

Thứ năm, tiến hành rà soát hương ước, quy ước tổ dân phố thuộc địa bàn quản lý, bảo đảm 100% các tổ dân phố có hương ước, quy ước được xây dựng đúng trình tự, thủ tục, nội dung phù hợp với pháp luật và các quy định của nhà nước.

Thứ sáu, thành lập, củng cố, kiện toàn Ban Tư pháp ở 100% các phường trên địa bàn Quận theo Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-TP-NV ngày 5/5/2005 của liên bộ Bộ Tư pháp – Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp UBND quản lý nhà nước về công tác Tư pháp ở địa phương.

Thứ bảy, thực hiện đúng, đủ thủ tục lập hồ sơ và chi tiền thù lao cho các Tổ hòa giải theo hướng dẫn và các quy định của pháp luật.

Thứ tám, Công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn hoạt động hòa giải cần được tiến hành ở tất cả các cấp, từ cơ sở đến cấp thành phố. Thông qua công tác này, các cấp quản lý kiểm điểm, đánh giá kết quả hoạt động, đặc biệt là đánh giá khuyết điểm thiếu sót, tìm nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm.

3.2.3. Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý

Một là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng: Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện Đảng cầm quyền được Đảng ta xác định trong đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Đối với công tác quản lý hòa giải ở cơ sở, chủ trương đó hòan toàn đúng đắn và cần thiết bởi công tác đó được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các cấp.

Hai là, về đội ngũ cán bộ quản lý: Đối với cán bộ tư pháp cấp quận, huyện, xã, phường; hiện nay, biên chế cán bộ tư pháp ở đây có số lượng rất hạn chế, năng lực quản lý của nhiều người bất cập với chức trách, nhiệm vụ, lại phải kiêm nhiệm quá nhiều công việc.

Ba là, về hoạt động quản lý: Xây dựng cơ chế làm việc chuyên sâu, phân công cán bộ phụ trách chính và chịu trách nhiệm cá nhân về chất lượng công việc quản lý. Lấy hiệu quả quản lý làm thước đo năng lực cán bộ.

3.2.4. Hòan thiện các quy định của pháp luật

Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, mở rộng dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN; xuất phát từ ý nghĩa, vai trò to lớn của công tác hòa giải ở cơ sở đối với đời sống xã hội, từ tình hình quản lý, tổ chức hoạt động hòa giải trong thời gian qua, cũng như thực trạng về pháp luật hiện hành về lĩnh vực này. Việc ban hành văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất là rất cần thiết nhằm:

– Tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện và thống nhất điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng hoạt động đối với công tác hòa giải ở cơ sở.

– Quy định rõ trách nhiệm, cơ chế phối hợp giữa các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng có thẩm quyền quản lý, các tổ chức, các nhân có liên quan đối với hoạt động hòa giải ở cơ sở.

– Thu hút sự quan tâm tham gia của các ngành, các cấp, tổ chức, cá nhân theo hướng xã hội hoá công tác giải quyết tranh chấp, vi phạm, chủ động phòng ngừa vi phạm; tranh thủ nguồn hỗ trợ của tổ chức, cá nhân cũng như toàn xã hội phục vụ cho công tác hòa giải ở cơ sở.

Luật hòa giải ở cơ sở cần sớm được triển khai sâu rộng trong tầng lớp nhân dân để mọi người dân nắm bắt và cùng thực hiện tốt làm cho Luật đi vào cuộc sống.

3.3. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT

Thứ nhất, Cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và sự phối hợp của các tổ chức chính trị – xã hội trong công tác hòa giải ở cơ sở.

Thứ hai, Luật hòa giải ở cơ sở đã được Quốc hội thông qua cần sớm được tổ chức thực hiện cụ thể. Đây là một văn bản có hiệu lực pháp lý cao, điều chỉnh thống nhất về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở.

Thứ ba, Bộ Tư pháp cần có kế hoạch thống nhất để chỉ đạo các Sở Tư pháp và phòng, ban Tư pháp các quận, huyện, xã, phường thực hiện thường xuyên và theo chuyên đề việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ hòa giải ở cơ sở cho các Tổ hòa giải.

Thứ tư, tạo điều kiện về kinh phí cho công tác quản lý tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở: Hiện nay, kinh phí của các địa phương chi cho công tác này còn hạn chế và không thống nhất.

KẾT LUẬN

Trong thực tiễn đời sống cộng đồng dân cư, những va chạm, xích mích, tranh chấp trong nội bộ nhân dân thường xẩy ra và không thể tránh khỏi. Từ những mâu thuẫn ấy, nếu không được giải quyết triệt để từ khi mới phát sinh có thể trở thành những vụ việc phức tạp, dẫn đến khiếu kiện, tranh chấp dân sự, thậm chí phát sinh thành những vụ án hình sự. Không những thế nó còn có nguy cơ trở thành mầm mống gây mất ổn định về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, làm xói mòn tình cảm tương thân, tương ái và mối đoàn kết gắn bó vốn là truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.

Nhận thức rõ vị trí vai trò, tầm quan trọng của công tác hòa giải ở cơ sở là một trong những công tác vận động quần chúng, góp phần “yên dân”, giữ gìn đạo lý truyền thống, mối quan hệ tốt đẹp trong cộng đồng dân cư và tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật, ngày 20/6/2013 Quốc hội đã ban hành Luật hòa giải ở cơ sở. Ngày 27/2/2014 Chính phủ ban hành Nghị định số 15/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hòa giải ở cơ sở. Đây là những căn cứ pháp lý hết sức quan trọng để các cấp, các ngành, đoàn thể và nhân dân tiến hành tổ chức, hoạt động hòa giải ở cơ sở có hiệu quả trong những năm qua.

Với ý nghĩa của công tác hòa giải ở cơ sở, hòa giải không chỉ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp, mà còn thể hiện trình độ văn hoá trong quan hệ xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Xét xử đúng là tốt nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”. Bản chất xã hội và ý tưởng nhân văn, nhân đạo sâu sắc vì con người là cội nguồn, mảnh đất để hòa giải các mâu thuẫn, tranh chấp được duy trì và không ngừng phát triển.

Hòa giải chính là giải quyết vấn đề ngay từ cơ sở, từ gốc rễ những tranh chấp, mâu thuẫn trong nhân dân, là triệt tiêu mầm mống vi phạm pháp luật, không để “cái sẩy nảy cái ung”. Ý nghĩa lớn nhất của công tác hòa giải ở cơ sở là giữ gìn truyền thống đoàn kết, hòa thuận trong nhân dân, phát huy dân chủ, xã hội hoá công tác giải quyết vi phạm, giảm nhẹ gánh nặng quản lý cho Nhà nước để tập trung giải quyết những vấn đề vĩ mô như quốc kế, dân sinh, giảm bớt kinh phí mà Nhà nước phải bỏ ra để giải quyết khiếu kiện của nhân dân. Tuy nhiên, đẩy mạnh hoạt động hòa giải ở cơ sở, cần quan tâm đến công tác quản lý nhà nước đối với công tác này. Trước hết và trên hết là quan tâm tới đội ngũ cán bộ quản lý công tác hòa giải đang công tác trong ngành Tư pháp. Vấn đề đặt ra là cần nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của công tác hòa giải, vai trò của công tác “con người” . Từ đó, có sự bố trí sắp xếp cán bộ, tổ chức quản lý cho hợp lý để phát huy hiệu quả. Đương nhiên, cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, chú trọng trình độ chuyên môn, thường xuyên bồi dưỡng đào tạo lại cán bộ, có cơ chế, chính sách quan tâm tới đội ngũ cán bộ quản lý… Bởi suy cho cùng, mọi vấn đề đều bắt đầu từ con người, cho con người và vì con người.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN HOC VIEN HANH CHINH\HOC VIEN HANH CHINH\PHAN TINH PHONG\LUAN VAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *