Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu kinh tế mở

Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu kinh tế mở

Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam

Tính cấp thiết của đề tài

Khu Kinh tế mở Chu Lai (Khu KTM) là Khu kinh tế ven biển đầu tiên của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ thành lập vào ngày 05/6/2003 và được Chính phủ lựa chọn là một trong tám nhóm KKT trọng điểm quốc gia. Việc thành lập Khu KTM, nhằm mục tiêu: (1) Áp dụng các thể chế, cơ chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế cho các loại hình đầu tư, kinh doanh của nhà đầu tư (NĐT) trong nước và ngoài nước; (2) Áp dụng các mô hình, động lực mới cho phát triển kinh tế nhằm khắc phục những vướng mắc trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành trong khi chưa có điều kiện thực hiện trên phạm vi cả nước; (3) Phát triển sản xuất, tạo ra những sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao; đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng ra thị trường thế giới; (4) Tạo việc làm, thúc đẩy việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (5) Khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, kinh tế và chính trị trong giao thương, dịch vụ quốc tế và trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội (KT-XH) tỉnh Quảng Nam, góp phần tạo động lực phát triển KT-XH cho toàn bộ khu vực miền Trung, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa khu vực này với các vùng khác trong cả nước; (6) Đẩy nhanh tốc độ đầu tư xây dựng và phát triển Khu KTM cùng với KKT Dung Quất để sau năm 2010, các KKT này từng bước trở thành những hạt nhân tăng trưởng, trung tâm đô thị – công nghiệp – dịch vụ của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và làm động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khu vực miền Trung [18].

Để đạt được những yêu cầu đã đặt ra, vai trò quản lý của nhà nước là rất quan trọng, trong đó cần: (1) Tập trung phát triển các ngành dịch vụ như du lịch, đô thị, vận tải hàng hoá và hành khách quốc tế, dịch vụ thương mại; (2) Có cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư thực sự thông thoáng, vượt trội, hấp dẫn và được hưởng những cơ chế đặc thù nhằm huy động tổng hợp các nguồn lực tạo ra hạ tầng hoàn thiện để thu hút được các NĐT lớn trong và ngoài nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh; (3) Phát triển sản xuất, tạo ra những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, nằm trong chuỗi giá trị toàn cầu; (4) đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng ra thị trường thế giới; (5) tạo việc làm, tập trung đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các NĐT.

Mặc dù nguồn vốn đổ vào đầu tư tại Khu KTM ngày càng lớn không chỉ vốn trong nước mà các nguồn vốn FDI, liên quan đến các yếu tố nước ngoài hiện nay còn nhiều cơ chế quản lý chồng chéo lên nhau, nên cần có một mô hình quản trị công, một cơ chế quản trị công về đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ cho Quảng Nam mà còn nhiều địa phương trong cả nước. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam” để nghiên cứu.

Mục tiêu nghiên cứu

– Làm rõ cơ sở lý luận về quản lý nhà nước (QLNN) về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

– Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN về FDI vào Khu Kinh tế mở Chu Lai thời gian qua.

– Đề xuất một số phương hướng, giải pháp hoàn thiện QLNN về FDI vào Khu KTM trong thời gian tới.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động QLNN đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vào Khu KTM.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung: QLNN về FDI vào Khu KTM.

– Về không gian: Các doanh nghiệp FDI đang hoạt động trên địa bàn Khu KTM.

– Về thời gian: Số liệu sử dụng cho phân tích thực trạng thu thập giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018, đề xuất các giải pháp trong thời gian đến.

Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp luận: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm nền tảng cơ sở phương pháp luận.

– Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, điều tra, khảo sát thực tế, xử lý số liệu, so sánh để khái quát thành những luận điểm có căn cứ lý luận thực tiễn.

Bố cục đề tài

Đề tài luận văn gồm 03 chương:

Chương 1. Cơ sở lý luận QLNN về đầu tư FDI.

Chương 2. Thực trạng QLNN về FDI vào Khu KTM

Chương 3. Giải pháp hoàn thiện công tác QLNN về FDI vào Khu KTM.

Tổng quan tài liệu nghiên cứu

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1. ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Tổng quan về quản lý công

1.1.1.1. Khái niệm nhà quản lý công

Có một số cách hiểu từ “ nhà quản lý” (Manager) như sau:

  • Nhà quản lý là một cá nhân trong tổ chức chỉ huy người khác hoạt động và thông qua người khác để đạt được mục tiêu.
  • Nhà quản lý là người chịu trách nghiệm quản lý, điều hành một bộ phận hay toàn bộ một tổ chức.

Nhà quản lý công là những cá nhân hay nhóm người thực hiện các hoạt động quản lý trong khu vực công. Những người này có thể chia ra hai nhóm chủ yếu: những người nắm giữ quyền lực nhà nước để điều tiết xã hội (nhóm cán bộ, công chức) và những người thực hiện các hoạt động sự nghiệp (nhóm nhân viên chức sự nghiệp). Trong khi nhóm thứ nhất có hoạt động mang tính tương đối đặc thù (sử dụng quyền lực nhà nước) thì nhóm thứ hai hoạt động gần giống như trong khu vực tư nhân.

Căn cứ vào chức năng quản lý, nhà quản lý công có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, tất cả những người tham gia vào bộ máy quản lý, bao gồm nhà quản lý cấp cao, nhà quản lý tham mưu và nhà quản lý nghiệp vụ đều là nhà quản lý công.

  • Nhà quản lý cấp cao:

Là những người đứng đầu một tổ chức, một bộ phận. Họ có quyền ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình trước cấp có thẩm quyền.

  • Nhà quản lý tham mưu:

Là những người có trình độ và thông thạo về một lĩnh vực chuyên môn nào đó. Họ không có quyền ra quyết định mà chỉ giúp nhà quản lý cấp cao soạn thảo các quyết định quản lý và chịu trách nhiệm về mặt chuyên môn.

  • Nhà quản lý nghiệp vụ:

Là những người thành thạo và tinh thông nghiệp vụ, như thông tin, kiểm tra, giám sát, kế toán, kiểm kê… Họ không có quyền ra quyết định nhưng giúp nhà quản lý cấp cao trong việc bảo đảm cho tổ chức vận hành theo mục tiêu, kế hoạch đã định.

Theo nghĩa hẹp,nhà quản lý công chỉ bao gồm những người trực tiếp ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý.

  • Phân biệt khái niệm nhà lãnh đạo và nhà quản lý:

Thông thường chúng ta cho rằng , nhà lãnh đạo và nhà quản lý có thể sử dụng thay thế cho nhau. Tuy nhiên, hai khái niệm này có sự khác nhau.

Peter Ferdinand Drucker (1909 – 2005) là cha đẻ của quản trị kinh doanh hiện đại đã nói: Nhà quản lý tìm cách làm thật tốt một công việc, còn nhà lãnh đạo lại cố gắng xác định đúng công việc để làm (Manager is doing things right; leadership is doing right things).

Sự tương đồng:

  • Hoạt động của nhà lãnh đạo và nhà quản lý đều nhằm phục vụ mục tiêu cuối cùng của tổ chức.
  • Có người vừa được coi là nhà lãnh đạo (leader) vừa được coi là nhà quản lý (manager). Nhưng không phải nhà quản lý nào cũng là nhà lãnh đạo và không phải nhà lãnh đạo nào cũng là nhà quản lý. Nhà quản lý có thể đóng vai trò của người lãnh đạo, nhưng nhà lãnh đạo không phải lúc nào cũng là nhà quản lý.
  • Nếu tách công việc quản lý ra thành ba khâu: ban hành quyết định; thực hiện quyết định quản lý; kiểm tra, đánh giá quyết định quản lý thì ban hành quyết định quản lý là công việc chủ yếu của nhà lãnh đạo; tổ chức thực hiện quyết định là công việc chủ yếu của nhà quản lý; kiểm tra, đánh giá việc thực hiện quyết định là công việc của nhà lãnh đạo và nhà quản lý.

 Sự khác nhau:

Nhà lãnh đạoNhà quản lý
Là người xuất hiện trong tập thể hoặc có thể là người được bổ nhiệm.Là người được bổ nhiệm.
Đề ra chủ trương, đường lối, chính sách, sách lược và tổ chức động viên thực hiện.Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu nhất định.
Chỉ đường, vạch lối để hướng tới mục tiêu cuối cùng của tổ chức.Tổ chức và điều khiển các hoạt động theo các yêu cầu của tổ chức.
Quan tâm đến những vấn đề có tính chiến lược, những mục tiêu lâu dài.Quan tâm đến những vấn đề có tính chiến thuật, những mục tiêu ngắn, cụ thể.
Lãnh đạo thuộc lĩnh vực chính trị, người lãnh đạo là nhà chính trị.Quản lý thuộc lĩnh vực hành chính, người quản lý là nhà hành chính.
Nhà lãnh đạo chủ yếu dùng biện pháp động viên, thuyết phục, gây ảnh hưởng. Người lãnh đạo phải có phẩm chất của một lãnh tụ tinh thần.Nhà quản lý sử dụng quyền lực mang tính pháp lý; biện pháp tổ chức chặt chẽ, ràng buộc bởi thể chế, pháp luật.
Lãnh đạo thuộc phạm trù tư tưởng, đạo đức, không có tính cưỡng chế.Quản lý thuộc phạm trù pháp luật, pháp quy, có tính cưỡng chế.
Chức năng chủ yếu: xây dựng phương hướng, chủ trương, mục tiêu lâu dài, động viên.Chức năng chủ yếu: xây dựng kế hoạch, sắp xếp tổ chức, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, giám sát.

1.1.1.2. Đặc điểm của nhà quản lý chung

Giống như tất cả các nhà quản lý khác, nhà quản lý công cũng không phải thực hiện những chức năng quản lý khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Henry Fayol khi xác định tính chất việc làm của các nhà quản lý đã chỉ ra năm chức năng chủ yếu của hoạt động quản lý là: dự báo và lập kế hoạch; thiết kế tổ chức; phối hợp; chỉ đạo điều hành; và kiểm soát. Nhiều nhà nghiên cứu khác cũng trình bày những quan điểm khác nhau về chức năng quản lý, như L. Gulick (bảy chức năng quản lý: POSDCORB ) hoặc G.T. Allion đưa ra tám chức năng quản lý (quản lý nội bộ và quản lý các yếu tố bên ngoài).

Tuy nhiên, do môi trường thực hiệ  các hoạt động quản lý khu vực công khác với khu vực tư nhân, các nhà quản lý khu vực công bên cạnh các đặc điểm của nhà quản lý tư nhân còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác:

  • Chịu sự chi phối mạnh mẽ của chính trị;
  • Chịu sự chi phối của hệ thống pháp luật: tuân theo pháp luật; chịu trách nhiệm trước pháp luật.
  • Chịu sự ràng buộc của các quy định pháp luật do sử dụng nguồn lực công cộng.
  • Mục tiêu hoạt động: bảo đảm lợi ích của quốc gia, tập thể và cá nhân.
  • Bảo đảm hiệu quả kinh tế gắn liều với hiệu quả xã hội.
  • Chịu sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, các tổ chức chính trị – xã hội và của quần chúng nhân dân.

Ngoài ra, các nhà quản lý khu vực công còn bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như tính đại diện cho cộng đồng (các tầng lớp trong xã hội, vùng, miền…), tính ổn định cao so với khu vực tư…

Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam
Quản lý Nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam
  • Lao động của những nhà quản lý công có một số đặc điểm sau:
  • Lao động của nhà quản lý công là một dạng lao động gián tiếp:

Tức là nó phải thông qua hoạt động của người khác mới tạo ra được sản phẩm. Tuy là loại lao động gián tiếp nhưng lao động của nhà quản lý công có vai trò rất quan trọng. Không có lao động quản lý thì các dạng lao động trực tiếp khó lòng hợp nhất với nhau trong một quá trình thống nhất để đạt được mục tiêu chung.

  • Lao động của nhà quản lý công là một dạng lao động phực tạp:

Tính phức tạp của lao động quản lý do tính tổng hợp của hoạt động quản lý công quy định, bao gồm hoạch định, tổ chức, động viên, điều khiển… Do vậy, nhà quản lý công một mặt phải có kiến thức toàn diện về nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, kỹ thuật, tâm lý, xã hội…; mặt khác nhà quản lý cộng phải vận dụng những kiến thức đó một cách nhuần nhuyễn để trở thành các kỹ năng quản lý.

  • Lao động của nhà quản lý là một dạng lao động sang tạo:

Lao động của nhà quản lý công không thể như lao động của người vận hành máy móc với một quy trình thao tác cố định.Thực tiễn các tình huống quản lý rất đa dạng đòi hỏi lao động quản lý phải luôn sáng tạo, linh hoạt, tránh rập khuôn. Trong nhiều khía cạnh, lao động của nhà quản lý công đòi hỏi tài năng.

  • Lao động của nhà quản lý còn mang tính nghệ thuật:

Tính nghệ thuật trong lao động của nhà quản lý công xuất phát từ sự đang dạng, phong phú, muôn hình muôn vẻ của các sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội và trong quản lý. Tính nghệ thuật còn biểu hiện trong quan hệ, ứng xử với con người – làm việc với cong người, cộng đồng người. Mỗi người có một thế giới quan riêng, cá tính và có những nhu cầu, đòi hỏi khác nhau, tâm tư tình cảm khác nhau. Lãnh đạo con người không chỉ dừng lại ở chỗ tuyển chọn, sắp xếp họ vào một vị trí lao động nào đó mà quan trọng hơn là động viên, khích lệ họ phát huy hết tài năng, sức lực của mình cống hiến cho tổ chức. Do vậy, hoạt động quản lý không chỉ dựa vào kiến thức khoa học mà đòi hỏi nhà quản lý công phải có tâm, có đức, có sự đồng cảm… Trong quản lý, điều hết sức quan trọng là nhà quản lý công vừa phải tuân theo những nguyên tắc quản lý chung vừa phải linh hoạt, khéo léo, “nhu” hay “ cương”, “cứng” hay “mềm” phù hợp với từng con người cụ thể; phải biết kiên nhẫn, thông cảm với nhân viên của mình. Chỉ khi nào nhà quản lý trở thành người đáng kính trọng, tin cậy và thuyết phục được cấp dưới thì khi đó họ mới gặt hái được thành công.

Chính vì những đặc điểm trên mà nhiều người đã nhận định: “Trong hoạt động quản lý, các nhà quản lý trong khu vực công thường chịu nhiều áp lực hơn các nhà quản lý trong khu vực tư”.

1.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Khái niệm:

Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau đề cập đến khái niệm FDI, song tất cả đều khai thác một hoặc một vài khía cạnh của vấn đề nhằm khái quát hóa bản chất, nội dung, hình thức của hoạt động này, có thể kể đến một vài quan điểm như:

Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra năm 2007, “FDI là một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó, một tổ chức trong một nền kinh tế (NĐT trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một DN đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của NĐT trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý DN đặt tại nền kinh tế khác đó.

Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): “FDI là một loại đầu tư phản ánh mục tiêu của việc thiết lập mối quan tâm lâu dài của một DN thường trú tại một nền kinh tế (đầu tư trực tiếp) trong một DN (DN đầu tư trực tiếp) là cư dân trong một nền kinh tế khác hơn so với đầu tư trực tiếp. Sự quan tâm lâu dài ngụ ý sự tồn tại của một mối quan hệ lâu dài giữa các NĐT trực tiếp và các DN đầu tư trực tiếp và một mức độ đáng kể ảnh hưởng đến việc quản lý của DN. Quyền sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp của 10% quyền biểu quyết của một cư dân DN trong một nền kinh tế bởi một cư dân NĐT trong nền kinh tế khác là bằng chứng của một mối quan hệ như vậy”.

Theo Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc, “FDI là một sự đầu tư thực hiện để có được lợi ích lâu dài trong DN hoạt động bên ngoài của nền kinh tế của NĐT … mục đích của chủ đầu tư là để đạt được một tiếng nói hiệu quả trong việc quản lý của DN”.

Tại Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 định nghĩa “FDI là việc NĐT nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”. Sau đó, Luật đầu tư năm 2005 mà quốc hội khoá XI Việt Nam đã thông qua có các khái niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài nhưng không có khái niệm “FDI”.Tuy nhiên, có thể “gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc NĐT Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”[15].

Trên cơ sở các định nghĩa khác nhau về FDI, song ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất đó là: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư trực tiếp nhằm mục tiêu lợi nhuận của chủ thể đầu tư nước ngoài tại một quốc gia nhất định, bao hàm cả việc đầu tư vốn và trực tiếp quản lý kinh doanh số vốn đó”.

Phân loại:

    • FDI theo hình thức thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn từ NĐT nước ngoài.
    • Đầu tư trực tiếp theo hình thức thành lập DN liên doanh giữa NĐT trong nước hoặc Chính phủ trong nước và NĐT nước ngoài.
    • Đầu tư theo hình thức hợp đồng đối tác công tư (PPP): NĐT nước ngoài khi tiến hành hoạt động đầu tư theo hình thức này có thể ký kết các loại hợp đồng như hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng-chuyển giao- kinh doanh (BTO) hoặc hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT).

+ BCC là hình thức đầu tư được ký kết giữa các NĐT nhằm hợp tác kinh doanh, phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới. Hình thức đầu tư này giúp các NĐT tiến hành hoạt động đầu tư được nhanh chóng mà không không mất thời gian, tiền bạc để thành lập và quản lý một pháp nhân mới.

+ BOT, BTO là hình thức đầu tư được ký kết giữa NĐT với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, trong BOT NĐT nước ngoài được kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng đó trong một thời gian nhất định sau đó chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; BTO thì NĐT chuyển giao công trình xây dựng cho Nhà nước khi xây dựng xong, Chính phủ sẽ dành cho NĐT quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận.

+ BT là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và NĐT để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, sau khi xây dựng xong NĐT chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ dành cho NĐT thực hiện DAkhác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho NĐT theo thoả thuận trong hợp đồng.

    • Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư, đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại DN và các hình thức đầu tư trực tiếp khác theo qui định của pháp luật.

1.1.3. Lý thuyết Marketing hiện đại

Marketing thường được hiểu là bán hàng và các hoạt động kích thích tiêu thụ. Thực ra tiêu thụ và bán hàng chỉ là hai trong nhiều khâu của hoạt động Marketing.Ý tưởng cơ bản của thuật ngữ Marketing có thể hiểu đơn giản là cung cấp cái thị trường cần chứ không phải cái mình có. Một hàng hoá kém thích hợp, không đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng thì cho dù nhà kinh doanh có bỏ bao công sức tiền của thuyết phục khách hàng thế nào đi nữa thì việc khách hàng sử dụng loại hàng hoá này sẽ vẫn rất hạn chế. Ngược lại, khi nhà kinh doanh tiến hành phân tích tìm hiểu thị trường, biết được nhu cầu thị hiếu của khách hàng từ đó tạo ra những mặt hàng phù hợp với nhu cầu đó, thực hiện một phương pháp bán hàng, kích thích tiêu thụ phù hợp thì chắc chắn việc tiêu thụ những loại hàng hoá đó sẽ hiệu quả hơn. Cách làm này đã thể hiện sự thực hành quan điểm Marketing hiện đại. Định nghĩa Marketing hiện đại đã nêu : “Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc trao đổi với mục đích thoả mãn những nhu cầu và mong muốn của con người”.

Khái niệm Marketing ở trên được xây dựng trên cơ sở hàng loạt khái niệm cơ bản khác đó là: nhu cầu, sản phẩm, sự thoả mãn, trao đổi và thị trường.

Nhu cầu là một vấn đề cốt lõi của hoạt động Marketing bởi vì chỉ khi hiểu được nhu cầu của người mua thì người sản xuất mới tạo ra những hàng hoá có khả năng hấp dẫn người mua hơn.Và hoạt động tìm hiểu nhu cầu trở thành hoạt động cơ bản đầu tiên của người làm Marketing. Nhu cầu thường được hiểu một cách quá đơn giản là sự đòi hỏi của con người về một vật phẩm nào đó tuy nhiên nội dung của thuật ngữ này hàm chứa ba mức độ đó là: nhu cầu tự nhiên, mong muốn và nhu cầu có khả năng thanh toán.

Nhu cầu tự nhiên phản ánh sự cần thiết của con người về một vật phẩm. Nhu cầu tự nhiên là vốn có được hình thành do sự đòi hỏi của con người. Những người làm Marketing không tạo ra nhu cầu tự nhiên, hoạt động Marketing sẽ góp phần tạo ra những nhu cầu tự nhiên mới chứ hoàn toàn không sáng tạo ra nó. Tuy nhiên nếu mới chỉ dừng lại ở việc sản xuất ra những hàng hoá thoả mãn nhu cầu tự nhiên thì người sản xuất đó mới chỉ làm ra những sản phẩm cũ như những người sản xuất khác cũng đã làm. Do vậy để tạo ra hàng hoá thích ứng với nhu cầu, tăng cạnh tranh và tăng hiệu quả công ty thù người làm Marketing phải hiểu một khía cạnh thứ hai là mong muốn.

Mong muốn là nhu cầu tự nhiên của con người có dạng đặc thù, đòi hỏi được đáp lại bằng một hình thức đặc thù phù hợp với trình độ và tính cách của cá nhân. Chỉ có phát hiện ra mong muốn của từng người hoặc tập hợp người thì người sản xuất mới tạo ra tính đặc thù của cùng một loại sản phẩm. Nhờ vậy mà tăng khả năng thích ứng của hàng hoá trên thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh. Nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người là vô hạn, người sản xuất không chỉ phát hiện và sản xuất các sản phẩm thích ứng với chúng mà con phải thông qua trao đổi để thoả mãn lợi ích của cả hai bên. Vì vậy trong khi tìm hiểu nhu cầu tự nhiên và mong muốn của khách hàng thì người sản xuất cũng cần chú ý đến một yếu tố rất quan trọng nữa là nhu cầu có khả năng thanh toán.

Nhu cầu có khả năng thanh toán là nhu cầu tự nhiên và mong muốn phù hợp với khả năng mua của người tiêu dùng. Người sản xuất đã phát hiện ra nhu cầu tự nhiên và mong muốn của con người, họ đã chế tạo ra loại hàng hoá phù hợp nhưng nhu cầu tiềm năn không biến thành nhu cầu hiện thực kết quả là sức mua đối với hàng hoá đó vẫn không cao.

Vì vậy để hiểu được nhu cầu của thị trường đòi hỏi người làm Marketing phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu người tiêu dùng và các phương diện của nhu cầu để có thể sản xuất và kinh doanh hiệu quả, thu lợi nhuận cao nhất.

Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi loại hàng hoá và dịch vụ có thể đem chào bán, có khả năng thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn của khách hàng, gây sự chú ý, kích thích sự mua sắm và tiêu dùng của họ. Khi một người tiêu dùng mua một sản phẩm nào đó thì điều mấu chốt mà họ quan tâm chính là những lợi ích mà họ có thể nhận được từ việc tiêu dùng hàng hoá đó. Những lợi ích này lại phụ thuộc vào nhu cầu và ước muốn của người tiêu dùng do vậy để tạo ra một sản phẩm tốt thì yêu cầu đặt ra với người sản xuất là họ phải xác định được chính xác nhu cầu và mong muốn của khách hàng.

Sự thoả mãn là mức độ của trạng thái cảm giác của người tiêu dùng bắt nguồn từ việc so sánh kết quả thu được từ việc tiêu dùng sản phẩm với những kì vọng của họ. Khi khách hàng quyết định mua sắm một loại hàng hoá nào đó thì họ thường kì vọng vào những lợi ích mà loại hàng hoá đó đem lại. Với cùng một nhu cầu nhưng có nhiều sự lựa chọn từ các sản phẩm khác nhau thì người tiêu dùng buộc phải lựa chọn. Để lựa chọn họ sẽ căn cứ vào khả năng cung cấp lợi ích và khả năng thoả mãn nhu cầu của từng hàng hoá và nhãn hiệu.

Trao đổi trong Marketing là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người nào đó bằng cách đưa cho họ một thứ khác. Trao đổi là một quá trình tạo nền móng cho hoạt động Marketing, hai bên tiến hành troa đổi để đạt được một thoả thuận. Khi đạt được thoả thuận có nghĩa là hai bên đã hoàn thành một giao dịch.

Lý thuyết về Marketing cho rằng, thị trường là bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn của mình. Như vậy theo khái niệm này thì qui mô thị trường không phụ thuộc vào số người có nhu cầu và mong muốn khác nhau.

  • Marketing địa phương tại Việt Nam hiện nay

Tiếp thị địa phương (tiếng AnhMarketing Places) là một bộ phận các giải pháp thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của địa phương. Đó là những hoạt động nhằm trình bày, giới thiệu, quảng bá hình ảnh của một địa phương nhắm thu hút nhà đầu tưkinh doanh, những người du lịch, những cư dân đến địa phương đó tìm những cơ hội đầu tư kinh doanh hay thoả mãn các nhu cầu tiêu dùng của mình, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

Dựa trên nền tảng lý thuyết và phương pháp Marketing, nhưng không phải cho sản phẩm mà cho một địa phương. Marketing địa phương đòi hỏi sự tận tâm, trách nhiệm của mọi người sống trong địa phương đó, trước hết là bộ máy chính quyền, các doanh nghiệp, đoàn thể, hiệp hội, kế đến là mọi công dân

Hiện nay, tại nhiều nước trên thế giới, marketing địa phương (marketing place, country marketing, destination branding) đang phổ biến và mang lại những lợi thế cạnh tranh vượt trội và bền vững hơn so với địa phương, quốc gia thụ động khác. Với tư duy mới, chính quyền phục vụ người dân, DN và xem bản thân địa phương mình cũng là một Thương hiệu. Marketing địa phương không chỉ mang lại lợi ích thiết thực cho chính quyền, mà còn tạo ra những hiệu ứng tốt về hiệu quả đầu tư và thị trường từ bên ngoài, kích thích những nội lực bên trong. Nói ngắn gọn là marketing địa phương sẽ góp phần làm thăng hoa các giá trị bản sắc và mang lại những lợi ích bền vững trong phát triển thương hiệu & sản phẩm địa phương.

Kể từ khi VN có nhận thức cơ bản về thương hiệu, sau 10 năm, một số địa phương đang có những nỗ lực đáng kể với ý thức xây dựng thương hiệu địa danh, thương hiệu ngành và sản phẩm, thương hiệu nông sản hay làng nghề. Một số còn biết vận dụng thương hiệu chứng nhận tập thể… bước đầu đã mang lại những thành công tích cực cả về kinh tế và nhận thức cộng đồng cũng như chuyên nghiệp hoá và minh bạch hoá vai trò của lãnh đạo địa phương, hướng đến những sứ mệnh tốt đẹp song hành với ý chí và lý tưởng của lãnh đạo cũng như ý nguyện của toàn dân. Nước mắm Phú Quốc với câu chuyện đã nêu là một ví dụ.

Tuy vậy năng lực marketing địa phương của VN vẫn còn ở mức độ thấp và ảnh hưởng đến sức bật khai thác tiềm năng và hoạch định chiến lược phát triển cho từng địa phương. Điều này có thể được cải thiện theo cách hiệu quả nhất là thông qua đào tạo kỹ năng quản lý marketing và thương hiệu hướng đến thực hành và thiết lập các dự án trọng điểm cho từng địa phương.

Những xu hướng mới

Tiếp thị địa phương tiếp cận từ các vấn đề: Nâng cao năng lực cạnh tranh của địa phương hướng ra các đối tượng khách hàng bên ngoài (nhà đầu tư, khách du lịch và khách hàng), cho đến đối tượng bên trong (người dân, lãnh đạo và DN); Marketing địa phương giúp thấu hiểu nhu cầu của các nhóm khách hàng (tên gọi chung các nhóm đối tượng quản trị, trên quan điểm marketing) và hiểu rõ năng lực cốt lõi của địa phương mình: từ nguồn nhân lực, đến bản sắc lịch sử văn hoá, cho đến tài nguyên và tiềm năng sáng tạo các sản phẩm mới, vị thế và mô hình kinh doanh mới…Tiếp thị địa phương hướng đến những giá trị bền vững: thương hiệu địa phương, niềm tin và sự gắn kết của cộng đồng, tính minh bạch và hiệu quả lãnh đạo, sức mạnh của tập thể toàn dân, sự gắn kết giữa cấp lãnh đạo với người dân và DN trong một tinh thần phục vụ và cống hiến, lấy tính chuyện nghiệp và hiệu quả làm thước đo các giá trị.Kinh tế Sáng tạo như một xu hướng chung của Kinh tế toàn cầu. Trong đó, Marketing Địa phương chính là một phần của Kinh tế Sáng tạo.

Có thể thống kê một số lợi ích của Marketing địa phương: Với lĩnh vực là Sản phẩm địa phương như trường hợp nước mắm Phú Quốc, đối tượng và cơ chế marketing chính là lãnh đạo, Hiệp hội ngành nghề, theo cơ chế Thương hiệu tập thể và Chiến lược khai thác thương hiệu Chỉ dẫn địa lí. Từ trường hợp nước mắm Phú Quốc, có thể đặt câu hỏi về cà phê VN. Tại sao cà phê VN đã được biết đến như một thương hiệu trên thế giới và chúng ta cũng đã có Hiệp hội cà phê ca cao VN, nhưng ngay cả việc thiết lập chỉ dẫn địa lý cà phê (Buôn Mê Thuột), cũng chậm chân ? Từ vấn đề đó, sẽ thấy nếu các DN trong nước cùng đồng lòng nâng cao sức cạnh tranh (như Nước mắm Phú Quốc đã có 67-78 cơ sở đăng ký nhãn hiệu Phú Quốc theo đúng các tiêu chuẩn sản xuất như quy định), khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, bảo vệ thương hiệu của các ngành hàng khác chắc chắn không gặp nhiều khó khăn như hiện tại. Tuy vậy vai trò và tính chuyên nghiệp của hiệp hội ngành nghề ở nước ta còn quá thấp. Nếu phát huy đúng vai trò và chức năng marketing thì hiệp hội mới có thể đóng góp vào công việc phát triển thương hiệu và marketing thị trường, việc làm này không thể được làm thay bởi chính quyền cũng như từng DN đơn lẻ.

Một lĩnh vực marketing địa phương khác như làng nghề cũng có thể phát huy thế mạnh kinh tế nếu có sáng tạo trong marketing, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho cộng đồng người dân, xây dựng được cơ chế thu hút du lịch và bán hàng tại chỗ. Qua đó, khách du lịch trở thành sứ giả mang sản phẩm ra thế giới và thu hút đầu tư chiều sâu. Cách làm du lịch của Làng trồng rau Trà Quế Hội An, Quảng Nam là một điển hình.

Bên cạnh đó, thương hiệu địa danh chính thức mà VN đã và đang có rất nhiều cũng nên là những đối tượng sáng tạo của lĩnh vực marketing địa phương. Hội An là một phố cổ, một thương hiệu địa danh. Hiện nay, chính quyền tỉnh Quảng Nam đã làm rất tốt các chiến lược marketing địa phương để nâng tầm thương hiệu, chú trọng liên kết ngang một dải miền Trung và theo góc độ nâng cao chỉ số cạnh tranh PC

1.1.4. Khái niệm Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Theo GS, TS. Phan Huy Đường (2015), trong QLNN về kinh tế: “Quản lý nói chung là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để đạt được các mục tiêu đặt ra trong sự vận động của sự vật. Vì thế nói đến quản lý là phải nói đến cơ chế vận hành, tức là cơ chế quản lý như chế độ, chính sách, biện pháp tổ chức, tâm lý xã hội…

QLNN là một dạng quản lý do nhà nước làm chủ thể định hướng điều hành, chi phối, v.v… để đạt được mục tiêu kinh tế xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định”. [7]

Như vậy, từ khái niệm về QLNN nói trên, chúng ta có thể hiểu QLNN về FDI là tác động của các chủ thể mang tính quyền lực nhà nước bằng nhiều biện pháp tới các DN có vốn FDI và hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện những chức năng của nhà nước trên cơ sở pháp luật. Công tác QLNN đã tạo ra một trật tự nhất định và sự ổn định cho các đối tượng mà nó quản lý, trong đó có các DN có vốn FDI, đưa các đối tượng đó vào một quy luật vận động chung dưới sự kiểm soát của pháp luật và các cơ quan có thẩm quyền để đảm bảo cho các hoạt động này diễn ra theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư, hoạt động của DN và phù hợp với định hướng chung trong phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam.

1.1.5. Mục tiêu Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài

Mục tiêu QLNN đối với các DN FDI là nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản trong quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài và suy cho cùng là làm thế nào để loại hình DN này hoạt động có hiệu quả phù hợp với chiến lược phát triển KT-XH của địa bàn tiếp nhận đầu tư. Trên cơ sở đó, QLNN đối với các DN FDI nhằm đạt các mục tiêu sau:

Thứ nhất, thông qua QLNN với các DN FDI sẽ phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, thực hiện CNH – HĐH, tạo sự năng động cho nền kinh tế nhiều thành phần trong nước. Đảng ta đã khẳng định: Thu hút đầu tư nước ngoài là chủ trương quan trọng, góp phần khai thác các nguồn lực trong nước, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, tạo nên sức mạnh tổng hợp phục vụ sự nghiệp CNH- HĐH phát triển đất nước.

Thứ hai, QLNN đối với DN FDI để giám sát các DN này hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật Việt Nam; trong quá trình triển khai quản lý để phát hiện những điểm chưa phù hợp giúp Nhà nước dần dần hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, cơ chế chính sách thu hút, quản lý các DN FDI.

Thứ ba, QLNN đối với DN FDI nhằm đảm bảo tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, cạnh tranh bình đẳng giữa các DN dựa trên khuôn khổ của pháp luật Việt Nam.

Thứ tư, QLNN đối với các DN FDI còn nhằm thực hiện các mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, trong đó việc thu hút vốn, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài phải đặt lên hàng đầu như: ưu tiên thu hút các DA FDI có công nghệ hiện đại, tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, thân thiện với môi trường…

Thứ năm, QLNN đối với các DN FDI nhằm thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu, chú trọng chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và tính bền vững…

Thứ sáu , QLNN đối với các DN FDI nhằm tạo môi trường pháp lý, môi trường chính trị, KT-XH ổn định, những điều kiện cần thiết và thuận lợi cho sự ra đời và hoạt động kinh doanh có hiệu quả của DN FDI.

Thứ bảy, QLNN đối với các DN FDI nhằm giúp phát hiện sớm các sai sót, hạn chế trong các quy trình, thủ tục, chính sách đối với FDI để trong các KKT để bổ sung, điều chỉnh…

1.2 NỘI DUNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở CẤP ĐỘ ĐỊA PHƯƠNG

Tại Điều 58, Chương 5, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam [16]. Để đạt được mục tiêu, thực hiện vai trò, chức năng QLNN trong việc định hướng, tạo dựng môi trường, điều tiết hỗ trợ và kiểm tra kiểm soát các hoạt động FDI, nội dung QLNN đối với FDI ở cấp độ địa phương bao gồm những điểm chủ yếu sau:

1.2.1. Xây dựng và ban hành các văn bản để triển khai thực hiện các quy định pháp luật của nhà nước trong hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài

Sự tác động của QLNN đối với các DN FDI chủ yếu là thông qua hình thức gián tiếp hơn là cách thức trực tiếp mang tính chất hành chính, cụ thể đó là tác động của các chính sách đến hoạt động đầu tư của DN FDI.

Để cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Nhà nước cấp Trung ương quy định về hoạt động QLNN đầu tư FDI, để làm cơ sở thu hút FDI và quản lý hoạt động đầu tư FDI.

Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn hoạt động đầu tư FDI cần đáp ứng các tiêu chí sau:

– Bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật.

– Bảo đảm tính khả thi, tiết kiệm, hiệu quả, kịp thời, dễ tiếp cận, dễ thực hiện của văn bản pháp luật; bảo đảm yêu cầu cải cách TTHC.

– Bảo đảm tính minh bạch trong quy định của văn bản quy phạm pháp luật.

– Bảo đảm công khai, dân chủ trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản pháp luật.

– Bảo đảm yêu cầu về quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

– Chính sách ưu đãi vượt trội, hấp dẫn so với các khu vực trên cả nước.

Khi xem xét môi trường đầu tư, các nhà kinh doanh và các nhà quản lý phải thấy một số đặc điểm cơ bản trong quá trình đánh giá và tạo dựng môi trường đầu tư.

Thứ nhất, môi trường đầu tư không phải là cố định mà luôn luôn biến đổi do sự thay đổi của các yếu tố cấu thành. Tính chất của môi trường đầu tư luôn luôn thay đổi là do mối tương quan giữa môi trường đầu tư trong nước và các môi trường đầu tư của các nước khác. Không có một môi trường đầu tư cố định.

Thứ hai, môi trường đầu tư là sự đang xen của các môi trường thành phần và sự tác động qua lại giữa chúng. Điều này đòi hỏi khi phân tích đánh gia môi trường phải xem xét đánh giá một cách tổng thể trong mối quan hệ chặt chẽ và với một mối tương quan cụ thể giữa các môi trường thành phần.

Thứ ba, ngày nay xu thế hội nhập không ngừng gia tăng, các doanh nghiệp không chỉ kinh doanh ở trong nước mà còn phải mở rộng hoạt động ở các thị trường nước ngoài. Do đó, khi đánh giá môi trường đầu tư của một nước cụ thể, không thể so sánh với môi trường đầu tư của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Bởi vì, các nhà đầu tư nước ngoài có một quyền rất lớn: đó là quyền tự do lựa chọn thị trường đầu tư ở nước này hay nước khác, quyền không đầu tư nếu môi trường không đáp ứng được các yêu cầu của họ, đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt về vốn đầu tư.

Nói đến môi trường đầu tư là nói đến hàng chục yếu tố hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hiệu quả sản xuất – kinh doanh của dự án đầu tư, không kể vốn đầu tư là từ trong nước hay từ ngoài nước. Đó là một môi trường đầu tư chung, “một sân chơi bình đẳng

1.2.2. Tổ chức triển khai thực hiện các quy định pháp luật của nhà nước trong hoạt động quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến

Tổ chức tuyên truyền, phổ biến và triển khai thực hiện các văn bản, chính sách pháp luật về quản lý hoạt động đầu tư FDI là nội dung công việc quan trọng triển khai thực hiện công tác QLNN về FDI.

Tổ chức bộ máy đảm bảo thực hiện

Để đảm bảo bộ máy quản lý hoạt động đầu tư (trừ đầu tư công), Nhà nước đã phân cấp quản lý từ Trung ương đến địa phương một cách rõ ràng, thực hiện phân quyền, phân cấp, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể, trong đó, thống nhất bộ máy QLNN đối với DA trong nước và DA FDI, gọi chung là QLNN về đầu tư.

Quy định về ưu đãi đầu tư

Nhằm tạo lợi thế cạnh tranh, thu hút các NĐT trong và ngoài nước đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn theo quy hoạch, chiến lược của các địa phương, Chỉnh phủ đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về các chính sách ưu đãi đầu tư về thuế, đất đai, tài chính, lao động,…. Trên cơ sở phạm vi nghiên cứu của đề tài đề cập tại KKT, vì vậy, tác giả chỉ đi sâu phân tích các chính sách ưu đãi trên địa bàn KKT.

Hiện nay, những ưu đãi đối với DN đầu tư trên địa bàn KKT được điều chỉnh tại văn bản chuyên biệt đó là Nghị định 29/2008/NĐ-CP ngày 14/03/2008 quy định về KCN, khu chế xuất và KKT, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 164/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 29/2008/NĐ-CP của Chính phủ và văn bản hướng dẫn Luật Đầu tư năm 2015, Nghị định 118/2015/NĐ-CP ngày 12/11/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Theo đó, các DA đầu tư vào KKT được hưởng chính sách ưu đãi đối với địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn. Ngoài ra, tùy vào lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh mà quy định đối tượng thuộc lĩnh vực ưu đãi đầu tư hoặc lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư để xác định mức miễn, giảm đối với các loại thuế và miễn, giảm thời gian thuê đất. Các DA đầu tư không kể DA trong nước và DA FDI, cơ chế, chính sách ưu đãi hiện nay trên địa bàn KKT được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành về ưu đãi thuế thu nhập DN, thuế xuất – nhập khẩu, thuế Giá trị gia tăng, ưu đãi theo quy định hiện hành về miễn giảm tiền thuê đất,…

Các quy định về chính sách về quản lý hoạt động đầu tư

Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc công bằng, khách quan, minh bạch trong công tác quản lý hoạt động đầu tư của NĐT trong nước và nước ngoài, năm 2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Đầu tư số 67/2014/QH13, trong đó quy định chung thống nhất về các thành phần tham gia vào hoạt động đầu tư tại Việt Nam.

Chính sách quản lý về lao động và việc làm

Lĩnh vực lao động:

Nội qui lao động: Cụ thể hoá các qui định của Luật Lao Động vào từng trường hợp cụ thể của công ty đối với các hành vi vi phạm kỷ luật lao động, mức độ vi phạm và hình thức kỷ luật tương ứng, các xác định trách nhiệm vật chất và qui trách nhiệm bồi thường….Một mặt, nội quy lao động hướng dẫn người lao động làm đúng và tôn trọng lợi ích chung, góp phần phát triển văn hoá DN, một mặt có thể phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm phạm, cố ý gây thiệt hại, xung đột lợi ích, bảo vệ bí mật kinh doanh và các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động.

Đăng ký thoả ước lao động tập thể: Việc đăng ký thỏa ước lao động tập thể nhằm làm rõ các chính sách phúc lợi, điều kiện được hưởng của người lao động.

Lĩnh vực việc làm:

Cấp giấy phép lao động nước ngoài: Để quản lý tốt việc đi lại của người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Chính phủ yêu cầu người nước ngoài phải xuất trình Giấy phép lao động khi làm các thủ tục liên quan đến xuất cảnh, nhập cảnh và theo yêu cầu của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Để đánh giá hiệu quả của việc triển khai thực hiện các quy định về quản lý đầu tư FDI, cần dựa vào các tiêu chí đánh giá sau:

    • Về hiệu quả tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thực hiện các quy định của nhà nước về quản lý FDI.
    • Việc tổ chức và thực hiện công tác cấp phép đầu tư, thực hiện các TTHC có khách quan, công bằng, quy trình thực hiện có dễ dàng, chi tiết.
    • Về công tác hỗ trợ thông tin về các chính sách đối với NĐT có thuận tiện, chi tiết, rõ ràng.
    • Tổ chức bộ máy QLNN về FDI phân quyền, phân cấp rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả.

Kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý sai phạm việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật về FDI

Công tác kiểm tra, giám sát các DN FDI giúp phát hiện điểm bất hợp lý, sai trái trong tổ chức thực hiện để kịp thời điều chỉnh hoặc kiến nghị việc điều chỉnh pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

    • Xây dựng quy trình kiểm tra, giám sát, thường xuyên tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát nội bộ nhằm nhanh chóng phát hiện các sai phạm, hạn chế trong giải quyết TTHC liên quan đến FDI.

1.2.3. Giải quyết tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài

Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong hoạt động quản lý FDI bao gồm:

    • Giải quyết tranh chấp, khiếu nại giữa người lao động với DN trong việc quản lý, sử dụng lao động, chế độ đãi ngộ, quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động.
    • Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của DN trong vùng DA về vấn đề tác động của DA ảnh hưởng đến đời sống xã hội của nhân dân, vấn đề đất đai, môi trường, lao động..
    • Giải quyết khiếu nại, khiếu kiện của DN về QLNN có liên quan.

Giải quyết kịp thời các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện, đều chỉnh, xử lý các vấn đề cụ thể phát sinh trong quá trình hoạt động nhằm giải tỏa những ách tắc của các DN FDI, giúp DN nâng cao hiệu quả quản lý điều hành, an tâm sản xuất – kinh doanh, đồng thời nắm bắt kịp thời ý kiến của người lao động, nhân dân để có hướng giải quyết phù hợp, tránh gây bức xúc, tạo ảnh hưởng tiêu cực trong xã hội, tạo niềm tin của nhân dân, người lao động đang làm việc tại Khu KTM tin tưởng vào công tác QLNN của địa phương.

Để đánh giá hiệu quả công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện liên quan đến hoạt động đầu tư của DN FDI, dựa vào các tiêu chí sau:

    • Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu kiện, khiếu nại liên quan đến hoạt động đầu tư của DN FDI luôn được xác minh, kịp thời.
    • Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện đúng đúng thẩm quyền, đúng theo quy định.

1.3. MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ THU HÚT DỰ ÁN ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU KINH TẾ

1.3.1. Những kinh nghiệm quốc tế nói chung

Nếu như năm 1975 mới chỉ có 665 các mô hình KKT được thành lập ở 19 quốc gia, đến nay đã có trên 4.500 KKT được thành lập ở 140 quốc gia, tạo ra hơn 66 triệu việc làm trực tiếp và thu hút được hơn 500 tỷ USD từ giá trị gia tăng liên quan đến thương mại… Các KKT là khu vực KT-XH tổng hợp, được phân định ranh giới địa lý rõ ràng, thuộc chủ quyền của một quốc gia, song có tư cách độc lập tương đối trong quan hệ với bên ngoài KKT và quốc gia; có quyền tự chủ cao và có cơ chế quản lý hành chính và kinh tế hiện đại, tự do, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới nhằm tạo ra những ưu thế vượt trội. Theo đó, đặc KKT gồm có những ưu thế cơ bản sau:

Thứ nhất, là khu vực có lợi thế so sánh về địa lý, có cảng biển quốc tế hoặc rất gần các cảng biển quốc tế, gần các tuyến giao thông quan trọng của đất nước; có nhiều tiềm năng phát triển toàn diện KT-XH.

Thứ hai, phải có hệ thống thể chế hành chính, kinh tế theo đúng chuẩn mực quốc tế có tính phổ quát cho các KKT tự do, bao gồm: Một hàng rào bảo hộ bằng 0, thuế xuất nhập khẩu bằng không, bãi bỏ mọi hàng rào phi thuế quan; miễn thị thực nhập cảnh cho mọi du khách du lịch, buôn bán, kinh doanh; cho phép tự do kinh doanh trên tất cả các lĩnh vực trừ một số lĩnh vực cấm; cho phép thực thi chế độ tự quản về hành chính; đảm bảo sự độc lập của ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, Chính phủ chỉ nắm quyền thống nhất quản lý về an ninh, quốc phòng và đối ngoại.

Thứ ba, là cánh cửa mở đối với thế giới bên ngoài; nơi thử nghiệm các ý tưởng cải cách, đổi mới…

Với những ưu thế đó, các nước trên thế giới đã linh hoạt áp dụng vào thực tiễn của mình và xây dựng nên một số mô hình KKT khác nhau. Trong đó, có 3 mô hình nổi bật như: Mô hình KKT tự do và khu mậu dịch tự do; mô hình đặc KKT; và mô hình đặc khu hành chính, khu tự trị.

1.3.2. Những kinh nghiệm của Trung Quốc

Năm 1979 và 1980 Trung Quốc thiết lập 04 đặc KKT là Thẩm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn và Sán Đầu. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố đây là bốn “phòng thí nghiệm” về chính sách mở cửa. Bốn thí điểm này đã thành công đến mức hiện nay ước tính Trung Quốc có hơn 1.000 KKT mở, bao gồm cả các mô hình thế hệ thứ hai là các khu phát triển kinh tế công nghệ. Các quyết tâm thí điểm của Trung Quốc được thể hiện ở các điểm sau:

    • Chọn bốn địa phương làm nơi thí điểm các chính sách mở cửa mang tính đột phá mạnh mẽ. Các chính sách của Trung Quốc dành cho các đặc KKT là những chính sách trọn gói, mang tính đột phá cho khu vực lớn và nhất quán trong thời gian dài.
    • Trong việc thu hút đầu tư vào các đặc KKT, Trung Quốc xác định hai mục tiêu chính là thu hút vốn FDI là nguồn vốn đầu tư chủ lực và thúc đẩy xuất khẩu, với các quyết định đầu tư dựa theo cơ chế thị trường thay vì vào kế hoạch hóa. Các khu đều có qui chế tự do cho các dòng vốn chảy vào và dòng lợi nhuận chuyển ra.
    • Việc chọn địa điểm xây dựng các đặc KKT của Trung Quốc thể hiện rõ ý định marketing đầu tư với mục tiêu thu hút đầu tư bên ngoài: Thâm Quyến thu hút đầu tư từ Hồng Kông; Chu Hải thu hút đầu tư từ Macao; Hạ Môn thu hút đầu tư từ Đài Loan và Sán Đầu hướng đến cộng đồng người Hoa nói chung ở nước ngoài, vì là nơi có mật độ người Hoa sống ở nước ngoài rất cao.

Kết quả có thể thấy là trong 10 năm đầu, hơn 80% vốn đầu tư vào Thâm Quyến là từ Hồng Kông; hơn hai phần ba vốn đầu tư vào Hạ Môn là từ Đài Loan (hoặc trực tiếp từ Đài Loan hoặc từ Đài Loan đi thông qua Hồng Kông).

    • Chính phủ Trung Quốc đặt ra mức cố định trung hạn và dài hạn về thu nộp ngân sách cho trung ương từ các đặc KKT, tất cả số thu còn lại trên địa bàn các đặc KKT được quyền giữ lại và sử dụng để đầu tư phát triển.

1.3.3. Những kinh nghiệm của Ấn Độ

Mô hình KCX đã có ở Ấn Độ từ năm 1965. Mô hình KCX của Ấn Độ có quy mô nhỏ hơn nhiều so với mô hình đặc khu của Trung Quốc, trong các khu đó không bao gồm khu dân cư và do vậy dễ quản lý hơn. Tuy nhiên các KCX ở Ấn Độ đã không thành công và kém xa Trung Quốc và có các đặc điểm cơ bản sau:

    • Trong việc thu hút đầu tư, Ấn Độ đề ra nhiều mục tiêu đa dạng, có khi các mục tiêu còn mâu thuẫn lẫn nhau.
    • Chính sách của Ấn Độ dành cho các KCX là những chính sách nhỏ lẻ mang tính chất giải pháp tình thế, nên môi trường kinh doanh không nhất quán và thiếu độ tin cậy cần phải có đối với các NĐT chiến lược.
    • Các mục tiêu marketing thu hút đầu tư của Ấn Độ không được rõ ràng như Trung Quốc. Tuy Chính phủ đưa ra các ưu đãi đặc biệt để thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước, nhưng các KCX thường đặt tại những địa phương nghèo nơi không có đủ nguồn vốn trong nước.

1.3.4. Kinh nghiệm đối với Khu kinh tế mở tại Việt Nam

KKT mở ở Việt Nam (xét về cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, trình độ lao động, trình độ quản lý…) có xuất phát điểm không khác nhiều so với các khu thí điểm của Trung Quốc và Ấn Độ, nên bài học kinh nghiệm của hai nước này có thể giúp ích cho Việt Nam. Nghiên cứu và vận dụng sáng tạo hướng đi và cách tiếp cận của các đặc KKT Trung Quốc có thể giúp Việt Nam thành công.

Việc hình thành các KKT với thể chế kinh tế có sức cạnh tranh trong điều kiện kinh tế còn nhiều diễn biến khôn lường là một công việc mang tính đột phá, đòi hỏi quyết tâm cao. Từ thực tế nghiên cứu tiến trình xây dựng và cách làm của các KKT thành công trên thế giới nói chung và của Trung Quốc, Ấn Độ nói riêng, có thể rút ra những bài học và vấn đề Việt Nam cần lưu ý trong quá trình thành lập, quản lý, vận hành và triển khai thu hút đầu tư vào các KKT trong hiện tại cũng như sắp diễn ra trong thời gian tới:

Thứ nhất, hình thức KKT tự do nhằm tạo thuận lợi cho các tập đoàn kinh tế lớn hội tụ và hoạt động trong điều kiện toàn cầu hóa. Nó không những không mất đi mà tiếp tục có sức hấp dẫn lớn và tạo những đột phá cả về quy mô kinh tế lẫn không gian lãnh thổ.

Thứ hai, các KKT nói chung và KKT tự do nói riêng đều tập trung khai thác triệt để các thế mạnh, nhất là về vị trí địa lý, về điều kiện KT-XH…

Thứ ba, các KKT thành công đều có chung những điểm sau: Thể chế hiện đại, áp dụng luật pháp quốc tế, nguồn lực phát triển đa dạng và mức độ tập trung cao, thời gian xây dựng ngắn, trở thành nơi hội tụ của đông đảo các công ty hàng đầu thế giới…

Tóm lại, các KKT là thể chế đặc biệt tích hợp tối ưu các lợi thế và huy động có hiệu quả các nguồn lực phát triển dưới áp lực cạnh tranh quốc tế và toàn cầu hóa. Việt Nam có nhiều lợi thế và điều kiện để thành lập các KKT, tuy nhiên để thu hút có hiệu quả nguồn lực bên trong lẫn bên ngoài, tạo động lực phát triển phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần lưu ý một số vấn đề sau:

Một là, cần có sự chỉ đạo tập trung thống nhất, nhất quán từ trung ương với các mục tiêu marketing thu hút đầu tư rõ ràng, có chiều sâu. Mặc dù, việc thừa hành có thể ủy thác cho chính quyền địa phương nhưng xét về tính chất và quy mô thì luôn là vấn đề quốc gia.

Hai là, cần sớm xây dựng luật đặc biệt cho từng KKT với những chính sách trọn gói, thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế và mang tính đột phá cho khu vực lớn và nhất quán trong thời gian dài.

Ba là, cần đẩy mạnh công tác XTĐT, bởi thước đo quan trọng nhất trong quá trình hình thành các KKT là sự quan tâm và đầu tư của các NĐT lớn trên thế giới.

Bốn là, việc hình thành bộ máy triển khai khởi sự công việc với đội ngũ các chuyên gia có năng lực và chuẩn bị nguồn lực đẳng cấp quốc tế cho sự vận hành các KKT trong tương lai là điều kiện không thể thiếu đối với sự ra đời và phát triển các KKT…

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Trên cơ sở nghiên cứu các công trình và tài liệu, tác giả đã hệ thống cơ sở lý luận liên quan đến công tác QLNN về FDI, từ đó làm rõ khái niệm, phân loại về FDI, dựa vào lý thuyết Marketing để vận dụng phân tích việc thu hút FDI, vai trò, mục tiêu QLNN về FDI. Từ đó, xây dựng cơ sở lý luận về FDI ở góc độ cấp chính quyền địa phương cấp tỉnh, bao gồm: Công tác thu hút FDI, triển khai văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định về QLNN hoạt động FDI, việc tổ chức triển khai các quy định hướng dẫn, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cũng như công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện trong QLNN về FDI.

Đồng thời, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả cũng đã đánh giá thêm nội dung kinh nghiệm của các KKT các nước trên thế giới, trên cơ sở để rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác thu hút FDI tại các KKT.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI

2.1. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA KHU KINH TẾ MỞ CHU LAI ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QLNN VỀ FDI

2.1.1. Giới thiệu về Khu Kinh tế mở Chu Lai

Khu KTM là khu vực có ranh giới địa lý xác định thuộc lãnh thổ và chủ quyền của quốc gia; không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư, kinh doanh đặc biệt thuận lợi và bình đẳng; chính sách ưu đãi, khuyến khích, ổn định lâu dài và cơ chế quản lý thông thoáng, tạo điều kiện thuận lợi cho các NĐT trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ.

Hình 2.1. Bản đồ quy hoạch tổng thể Khu KTM

(Nguồn: Ban Quản lý Khu KTM)

Khu KTM có vị trí địa lý chiến lược: Được xác định theo tọa độ địa lý từ 108o26’16” đến 108o44’04” độ kinh Đông và từ 15o23’38” đến 15o38’43” độ vĩ Bắc và có vị trí địa lý rất thuận lợi để kết nối với các địa phương khác của Việt Nam và các khu vực khác trên thế giới.

Nằm ở trung độ của Việt Nam và trung tâm của ASEAN, cách thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh khoảng 1giờ bay; trong bán kính 3.000 km là trung tâm của các vùng kinh tế năng động nhất khu vực Đông Á như Singapore, Hồng Kông, Thượng Hải, Thâm Quyến, Hàn Quốc, Nhật Bản; trong vòng 4 giờ bay sẽ tiếp cận đến 12 sân bay lớn nhất khu vực châu Á Thái Bình Dương. Các NĐT, các doanh nhân trên thế giới xem xét Khu KTM là điểm đến hấp dẫn, nơi dung hòa giữa đất trời và con người, đáng để ở lại lập nghiệp lâu dài.

Khu KTM có tổng diện tích 27.040 ha theo Quy hoạch chung xây dựng Khu KTM được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1737/2018/QĐ-TTg ngày 13/12/2018, Quyết định số 32/2017/QĐ-TTg ngày 20/7/2017, bao gồm 19 xã, phường, thị trấn thuộc vùng Đông của huyện Núi Thành, thành phố Tam Kỳ của tỉnh Quảng Nam; có ranh giới địa lý được xác định như sau: Phía Đông giáp biển Đông; Phía Tây giáp xã Tam Mỹ, xã Tam Thạnh, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam; Phía Nam giáp huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Nam; Phía Bắc giáp huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, có ranh giới địa lý được xác định như sau:

– Phía Đông: Giáp biển Đông;

– Phía Tây: Giáp đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi khu vực thuộc huyện Núi Thành; giáp sông Bàn Thạch khu vực thuộc thành phố Tam Kỳ; giáp đất hiện trạng các xã Bình Nam, Bình Trung, Bình Tú, Bình Triều khu vực thuộc huyện Thăng Bình;

– Phía Nam: Giáp huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi;

– Phía Bắc: Giáp đường nối quốc lộ 1A với đường ven biển 129.

Tiềm năng phát triển Khu KTM

Khu KTM có nhiều tiềm năng, lợi thế và hội tụ đủ các yếu tố phát triển của một KKT tổng hợp: Lợi thế về phát triển sân bay, cảng biển và các ngành kinh tế gắn với sân bay, cảng biển; Lợi thế về sự hình thành và tác động của các ngành công nghiệp mũi nhọn, quan trọng của nền kinh tế; Lợi thế về điều kiện hạ tầng.

Với những điều kiện trên, cùng với những cơ chế chính sách ưu đãi thông thoáng, sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và chính quyền tỉnh Quảng Nam là yếu tố quyết định cho sự phát triển và sự thành công của Khu KTM.

Vai trò của Khu KTM đối với sự phát triển của tỉnh Quảng Nam

Trong 15 năm qua, trong điều kiện gặp không ít khó khăn thách thức, vừa thử nghiệm, vừa tìm hướng đi mới, thực tiễn cho thấy được rất nhiều thay đổi của Quảng Nam kể từ khi Khu KTM ra đời:

Hệ thống các tuyến đường giao thông kết nối các khu chức năng, đường nối cảng Kỳ Hà, sân bay Chu Lai, đường lên cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi, đường ven biển quốc gia (giai đoạn 1) đã được đầu tư. Hệ thống bến cảng Kỳ Hà đã được nâng cấp, đầu tư mới và đưa vào khai thác. Luồng Kỳ Hà đã được nạo vét đảm bảo cho tàu tải trọng từ 10.000-20.000 tấn hành thủy, đang tiếp tục nạo vét luồng cho tàu 20.000 -30.000 tấn. Nhà ga sân bay Chu Lai và hạ tầng kỹ thuật khác cũng đã từng bước khôi phục, đưa vào khai thác tuyến Chu Lai – Hà Nội, Chu Lai – thành phố Hồ Chí Minh và ngược lại. Hạ tầng các khu dân cư đã được đầu tư kịp thời phục vụ yêu cầu GPMB xây dựng các khu chức năng cũng như triển khai các dự án của các NĐT. Các KCN đã được định hình, trong đó 05 KCN (Tam Hiệp, Bắc Chu Lai, cơ khí Ô tô Chu Lai-Trường Hải, Hậu cần cảng, Tam Thăng) đã và đang đầu tư hạ tầng đồng bộ và tỷ lệ lấp đầy trên 80%. Công trình xử lý môi trường tại các KCN, Bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam, Trường Cao đẵng nghề, Nhà máy nước và các công trình tiện ích khác đã, đang được đầu tư cơ bản đáp ứng nhu cầu của người dân và các doanh nghiệp trên địa bàn. Nhờ vậy, năng lực hạ tầng kỹ thuật – xã hội trong các năm qua từng bước được tăng cường, góp phần quan trọng trong việc thu hút đầu tư, bước đầu tạo ra diện mạo mới cho KKT mở Chu Lai.

Một số ngành đã tạo ra sản phẩm công nghiệp chủ lực, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Nam (ôtô, kính xây dựng, sản phẩm điện tử, dệt may…), từng bước hình thành diện mạo của một KKT và đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của tỉnh Quảng Nam và vùng kinh tế trọng điểm miền trung, đặc biệt là Khu phức hợp ô tô Chu Lai Trường Hải, đã góp phần vào việc phát triển ngành công nghiệp cơ khí ô tô Việt Nam, một số sản phẩm tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Khu KTM được đánh giá là đạt hiệu quả cao trong 17 KKT đang hoạt động tại Việt Nam, là 1 trong 8 nhóm KKT trọng điểm quốc gia giai đoạn 2016-2020, là đầu tàu kinh tế của tỉnh Quảng Nam.

Đến nay, trên địa bàn KKT mở Chu Lai đã có 158 dự án đã được cấp phép, với tổng vốn đầu tư 93,8 nghìn tỷ tương đường 4,52 tỷ USD (43 DA FDI với tổng vốn đăng ký hơn 1,3 tỷ USD); 111 dự án đi vào hoạt động 1,718 triệu USD; trong đó 33 dự án FDI, tổng vốn đăng ký hơn 41,7 nghìn tỷ đồng

Trong năm 2018, tổng thu ngân sách trên địa bàn KKT mở Chu Lai là 16.000 tỷ đồng, tăng 23% so với năm 2017 (chiếm 75% tổng thu ngân sách tỉnh 21.000 tỷ); Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 211,045 triệu USD, tăng 140% so với cùng kỳ năm 2017 (87,757 triệu USD), sản phẩm tập trung chủ yếu các ngành điện tử, may mặc, cơ khí, gỗ,… Tổng kim ngạch nhập khẩu 1.094,693 triệu USD, tăng 15% so với cùng kỳ năm 2017 (951,592 triệu USD), chủ yếu tập trung các mặt hàng may mặc, điện tử, kính, cơ khí, sản phẩm liên quan nhựa đường,… Tổng số lao động đến ngày 12/11/2018:  25.467 người, trong đó Khu Liên hợp sản xuất và Lắp ráp ô tô Trường Hải: 9.730 người, Khu công nghiệp Tam Thăng: 7.718 người, Khu công nghiệp Bắc Chu Lai: 6.089 người, KCN Tam Hiệp: 728 người, các dự án ngoài Khu công nghiệp: 1.152 người [7].

Điển hình, năm 2018 Thaco vẫn dẫn đầu thị trường ôtô Việt 2018 với doanh số 96.127 xe, chiếm 34,7% thị phần. Đứng thứ 2 là Toyota Việt Nam với 65.856xe (chưa kể Lexus), chiếm 23,8% thị phần. Các vị trí tiếp theo thuộc về Honda Việt Nam; Ford Việt Nam và GM Việt Nam.

Thị trường ôtô 2018 tăng trưởng 5,8%, Thaco dẫn đầu thị phần

Untitled-1 copy

Hình 2.2. Công ty Sản xuất và lắp ráp Ô tô Chu Lai – Trường Hải

Nguồn: Ban Quản lý KKT mở Chu Lai 2018.

Với những thành quả đạt được trong thời gian qua, quỹ đất phát triển thuận lợi, có hệ thống cảng biển nước sâu (Cảng Kỳ Hà và gần Cảng Dung Quất), có sân bay Quốc tế, có các trục giao thông quốc gia kết nối đã và đang được quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng, cùng với các chính sách ưu đãi của Nhà nước, Ban Quản lý KKT mở Chu Lai xác định trong giai đoạn 2016-2020 phải tiếp tục khai thác triệt để các lợi thế, xúc tiến hình thành một số dự án trọng điểm, động lực nhằm phát huy hết tiềm năng sẵn có để đưa Khu KTM trở thành KKT năng động và đầu tư hiệu quả.

Hiện nay, với những yếu tố trên cho thấy Khu KTM đã có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển KT-XH địa phương. Các dự án tại Khu KTM đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của tỉnh Quảng Nam. Vai trò của Khu KTM từng bước được khẳng định trong sự phát triển chung không chỉ của tỉnh Quảng Nam, mà còn của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, thể hiện trên những khía cạnh sau:

Một là, các chỉ tiêu về giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu và nộp ngân sách chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu của tỉnh, tốc độ tăng trưởng bình quân cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của tỉnh.

Hai là, đã tạo ra sản phẩm công nghiệp chủ lực như ôtô, kính xây dựng, sản phẩm điện tử…, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Quảng Nam. Riêng lĩnh vực sản xuất và lắp ráp ô tô đã góp phần vào việc phát triển ngànhcông nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô Việt Nam, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Ba là, tăng thu ngân sách cho tỉnh Quảng Nam, góp phần đưa Quảng Nam vào nhóm tỉnh có số thu cao nhất nước.

Bốn là, tham gia giải quyết việc làm cho nhân dân vùng dự án, góp phần tạo sự ổn định chính trị, xã hội.

Năm là, hiệu quả đầu tư vốn ngân sách cho Khu KTM được phát huy tối đa. Theo tính toán cho thấy, một đồng vốn đầu tư cho Khu KTM, thu về được hơn 7 đồng vốn đầu tư của doanh nghiệp và tạo ra 12 đồng vốn ngân sách (Bảng 2.2).

2.1.2. Đặc điểm của Ban Quản lý Khu kinh tế mở Chu Lai ảnh hưởng đến công tác Quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Khu kinh tế mở Chu Lai

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

Ban Quản lý thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Quyết định số 24/2010/QĐ-TTg ngày 03/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 24/2016/QĐ-UBND ngày 18/10/2016 của UBND tỉnh Quảng Nam.

  • Trình UBND tỉnh:
  • Quy chế phối hợp làm việc giữa Ban Quản lý với các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn và các cơ quan có liên quan khác để thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông; Đề án quy hoạch, điều chỉnh bổ sung quy hoạch phát triển Khu KTM; Kế hoạch hàng năm và 5 năm về phát triển KCN, KKT, phát triển nguồn nhân lực và vốn đầu tư phát triển…
  • Trình Chủ tịch UBND tỉnh:
    • Quyết định thành lập, sáp nhập, chia tách, tổ chức lại, giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc Ban Quản lý theo quy định của pháp luật;
  • Giúp UBND tỉnh quản lý việc sử dụng vốn ngân sách nhà nước đầu tư xây dựng, phát triển Khu KTM. Hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, cơ chế, chính sách sau khi được ban hành, phê duyệt; thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến, theo dõi thi hành pháp luật trong Khu KTM.
  • Về quản lý đầu tư:
    • Chủ trì tham mưu UBND tỉnh quyết định chủ trương đầu tư các DAĐT vào Khu KTM tại các khu vực chưa có quy hoạch chi tiết xây dựng (1/500); quyết định chủ trương đầu tư các DAĐT vào Khu KTM tại các khu vực có quy hoạch chi tiết xây dựng (1/500) đã được cấp thẩm quyền phê duyệt;
    • Tiếp nhận, cấp, điều chỉnh, thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư đối với các DAĐT trong Khu KTM theo quy định của pháp luật về đầu tư;
    • Tổ chức hoạt động XTĐT theo kế hoạch được Bộ KH&ĐT, các Bộ, ngành và UBND tỉnh phê duyệt; tham gia các chương trình XTĐT vào Khu KTM do Bộ KH&ĐT, các Bộ, ngành và UBND tỉnh tổ chức;
    • Hướng dẫn, hỗ trợ NĐT sau cấp phép; giải quyết khó khăn, vướng mắc của NĐT, đánh giá hiệu quả đầu tư trong Khu KTM; định kỳ hàng quý, 06 tháng và hàng năm, gửi báo cáo hoạt động đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh trong Khu KTM tới UBND tỉnh và Bộ KH&ĐT theo quy định;
    • Kiểm tra, giám sát việc thực hiện mục tiêu đầu tư quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư, tiến độ góp vốn và triển khai DAĐT; việc thực hiện các điều khoản cam kết đối với các DA được hưởng ưu đãi đầu tư và việc chấp hành pháp luật về xây dựng, lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội đối với người lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động, hoạt động của các tổ chức chính trị – xã hội, phòng chống cháy nổ, an ninh – trật tự, bảo vệ môi trường sinh thái đối với các dự án;
  • Về quản lý môi trường:
    • Tổ chức thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các DA trong Khu KTM khi đảm bảo khu chức năng được đánh giá tác động môi trường và có hệ thống xử lý nước thải theo quy định;
    • Tiếp nhận đăng ký và xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường cho các đối tượng thuộc diện phải đăng ký trong Khu KTM theo ủy quyền của Sở TN&MT và của UBND cấp huyện;
    • Tổ chức kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường phục vụ giai đoạn vận hành DA đối với các DAĐT trong Khu KTM do Ban Quản lý thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường;
  • Về quản lý quy hoạch và xây dựng:
    • Điều chỉnh cục bộ quy hoạch chi tiết xây dựng (1/500) các khu chức năng trong Khu KTM nhưng không làm thay đổi chức năng sử dụng khu đất và cơ cấu quy hoạch, báo cáo UBND tỉnh theo dõi;
    • Quyết định đầu tư đối với DA nhóm B, C sử dụng vốn đầu tư công bố trí cho Ban Quản lý hàng năm đầu tư trong Khu KTM sau khi được HĐND tỉnh, UBND tỉnh quyết định chủ trương đầu tư.
    • Tổ chức thẩm định, trình UBND tỉnh phê duyệt nhiệm vụ và đồ án quy hoạch chung xây dựng đô thị, quy hoạch chung KCN; nhiệm vụ và đồ án quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết xây dựng các khu chức năng trong Khu KTM; Chủ trì thẩm định các DAĐT nhóm B, C sử dụng vốn đầu tư công bố trí cho Ban Quản lý hàng năm đầu tư trong Khu KTM;
    • Cấp, điều chỉnh, gia hạn, cấp lại, thu hồi Giấy phép xây dựng công trình đối với công trình xây dựng trong Khu KTM do Ban Quản lý cấp giấy chứng nhận đầu tư;
  • Thực hiện nhiệm vụ QLNN về lao động:
    • Tiếp nhận báo cáo giải trình của DN trong Khu KTM về nhu cầu sử dụng người lao động nước ngoài đối với từng vị trí công việc mà người lao động Việt Nam chưa đáp ứng được, tổng hợp, trình Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định;
    • Tổ chức thực hiện đăng ký nội quy lao động và tiếp nhận thỏa ước lao động tập thể của các DN trong Khu KTM;
    • Cấp, cấp lại, thu hồi Giấy phép lao động cho lao động nước ngoài làm việc cho các DN trong Khu KTM; xác nhận người lao động nước ngoài làm việc cho các DN trong Khu KTM không thuộc diện cấp giấy phép lao động.
    • Tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký thực hiện Hợp đồng nhận lao động thực tập của DN trong Khu KTM, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hình thức thực tập nâng cao tay nghề có thời gian dưới 90 ngày;
    • Thực hiện các nhiệm vụ quản lý lao động trong Khu KTM, bao gồm: bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động, xây dựng quan hệ lao động, giải quyết tranh chấp lao động, đình công theo quy định của pháp luật về lao động hoặc hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền.
  • Về quản lý đất đai, bất động sản:
    • Tiếp nhận đăng ký khung giá đất cho thuê, cho thuê lại đất và phí hạ tầng KCN của NĐT xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN và các chức năng, nhiệm vụ khác về quản lý kinh doanh bất động sản theo quy định;
    • Thực hiện các chức năng, nhiệm vụ về đất đai quy định tại Điều 151 Luật Đất đai số 45/2013/QH13 và Điều 53 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đất đai;
    • Lập kế hoạch sử dụng đất hằng năm theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp phát sinh ngoài kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, Ban Quản lý báo cáo UBND tỉnh xem xét đề nghị Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh thống nhất quyết định.
  • Cấp một số loại giấy phép, chứng chỉ trong Khu KTM theo thẩm quyền, hướng dẫn và ủy quyền của các cơ quan có thẩm quyền.
  • Các nhiệm vụ và quyền hạn khác:
    • Thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực phát triển KCN, KKT theo quy định của pháp luật và ủy quyền của UBND tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh;
    • Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; xây dựng hệ thống thông tin lưu trữ phục vụ công tác QLNN và chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực được giao;
    • Xây dựng dự toán ngân sách, kinh phí hoạt động hành chính – sự nghiệp và vốn đầu tư phát triển hàng năm của Ban Quản lý trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật có liên quan;
    • Trực tiếp tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn ODA cho các chương trình, DAĐT trong Khu KTM theo ủy quyền của UBND tỉnh;
    • Quản lý và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển KKT thuộc thẩm quyền; quản lý đầu tư, xây dựng đối với các DAĐT bằng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tại KKT thuộc thẩm quyền; quản lý và thực hiện việc thu, chi hành chính, sự nghiệp, các chương trình mục tiêu và các nguồn vốn khác được giao theo quy định của pháp luật;
    • Xây dựng các khung giá và mức phí, lệ phí áp dụng tại KKT trình cơ quan có thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật; thu và quản lý sử dụng các loại phí, lệ phí theo quy định của pháp luật và UBND tỉnh;
    • Thực hiện những nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật v.v..

Tổ chức bộ máy đảm bảo hoạt động

+ Sơ đồ cơ cấu tổ chức:

Description: E:\luanvantotnghiep\Untitled.png

Quan hệ trực tuyến Quan hệ phối hợp

Hình 2.3. Mô hình tổ chức quản lý Ban Quản lý Khu KTM theo Quyết định số 24/2016/QĐ-UBND ngày 18/10/2016 của UBND tỉnh Quảng Nam

Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong mô hình tổ chức:

  • Ban lãnh đạo KKT: Bao gồm 01 Trưởng ban và 03 phó Trưởng ban với chức trách, nhiệm vụ cụ thể như sau:

+ Trưởng Ban Quản lý là người đứng đầu Ban Quản lý, có trách nhiệm điều hành mọi hoạt động của Ban Quản lý, chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh và pháp luật về hoạt động và hiệu quả hoạt động của Ban Quản lý.

+ Các Phó Trưởng Ban Quản lý là người giúp Trưởng ban, chịu trách nhiệm trước Trưởng ban và trước pháp luật về các nhiệm vụ được phân công.

  • Các phòng chức năng: Ban Quản lý Khu KTM hiện có 01 Văn phòng, 05 phòng chức năng, nhiệm vụ cụ thể như sau:

+ Văn phòng Ban Quản lý (Có bộ phận “một cửa”): Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Khu KTM có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban trong công tác quản lý, điều hành hoạt động chung của Ban Quản lý; tham mưu tổ chức thực hiện các mặt công tác: Tổng hợp; thông tin; hành chính và cải cách hành chính; thanh tra, pháp chế; tổ chức bộ máy và cán bộ; thi đua, khen thưởng; văn thư, lưu trữ và quản trị, tài vụ. Văn phòng Ban có nhiệm vụ: Thực hiện nhiệm vụ phục vụ quản lý, điều hành của Lãnh đạo Ban Quản lý Khu KTM; Tổ chức bộ máy và cán bộ; thi đua, khen thưởng; Văn thư, lưu trữ; quản trị, tài vụ.

+ Phòng Kế hoạch tổng hợp: Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Khu KTM có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban thực hiện chức năng QLNN về chương trình, kế hoạch tổng thể đầu tư phát triển; các nguồn vốn đầu tư vào Khu KTM và các hoạt động tài chính, ngân sách của Ban Quản lý. Phòng Kế hoạch tổng hợp có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực kế hoạch và tài chính, ngân sách.

+ Phòng Quản lý đầu tư: Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Khu KTM có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực đầu tư; XTĐT; hỗ trợ DN trong Khu KTM và thực hiện một số nhiệm vụ khác theo ủy quyền. Phòng Quản lý đầu tư có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực quản lý đầu tư và XTĐT.

+ Phòng Quản lý DN: Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Khu KTM có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban thực hiện chức năng QLNN về lĩnh vực thương mại; lao động và một số hoạt động thuộc lĩnh vực an ninh, trật tự xã hội trong Khu KTM. Phòng Quản lý DN có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực quản lý thương mại và quản lý lao động.

+ Phòng Quản lý TN&MT: Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Khu KTM có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban thực hiện chức năng QLNN về tài nguyên; môi trường; bồi thường giải phóng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư trong Khu KTM và thực hiện một số nhiệm vụ khác theo ủy quyền. Phòng Quản lý TN&MT có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực quản lý tài nguyên và quản lý môi trường.

+ Phòng Quản lý quy hoạch và xây dựng: Là cơ quan chuyên môn trực thuộc Ban Quản lý Khu KTM có chức năng tham mưu, giúp Trưởng Ban thực hiện chức năng QLNN về quy hoạch; xây dựng trong Khu KTM và thực hiện một số nhiệm vụ khác theo ủy quyền. Phòng Quản lý quy hoạch và xây dựng có nhiệm vụ tham mưu về lĩnh vực quản lý quy hoạch và quản lý xây dựng.

  • Các Trung tâm và Ban Quản lý: Trong cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý hiện có 01 Ban Quản lý DA và 02 Trung tâm, nhiệm vụ cụ thể như sau:

+ Ban Quản lý DA hạ tầng: Được ủy quyền, giao nhiệm vụ làm chủ đầu tư, trực tiếp quản lý, điều hành các DAĐT xây dựng công trình do Ban quản lý Khu KTM làm củ đầu tư; tổ chức thực hiện đầu tư để phát triển và khai thác quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế, xã hội; phát triển các khu tái định cư, khu dân cư và tổ chức khai thác quỹ đất trong các khu dân cư, khu tái định cư và quỹ đất công; tổ chức đấu thầu DA có sử dụng đất và được huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân để đầu tư khai thác công trình.

+ Trung tâm Phát triển hạ tầng: Có chức năng phục vụ, giúp Ban quản lý Khu KTM QLNN, triển khai theo quy định về khai thác tài nguyên, khoáng sản, duy tu, bảo dưỡng, bảo vệ môi trường các KCN và các khu đô thị trên địa bàn Khu KTM; tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với trường hợp Nhà nước thu hồi đất sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt và quản lý quỹ đất thuộc các KCN, các khu đô thị; phát triển quỹ đất tạo nguồn đầu tư phát triển; đầu tư xây dựng công trình; quản lý quỹ đất thuộc khu vực đã có quy hoạch phát triển đô thị mà Nhà nước đã thu hồi nhưng chưa giao, chưa cho thuê trên địa bàn Khu KTM theo nhiệm vụ được Ban quản lý Khu KTM và UBND tỉnh giao..

+ Trung tâm Bồi thường giải phóng mặt bằng: Có chức năng tổ chức thực hiện việc bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư; phát triển quỹ đất tạo nguồn đầu tư phát triển; đầu tư xây dựng công trình; quản lý quỹ đất đã có hạ tầng và quỹ đất thuộc khu vực đô thị, khu vực đã có quy hoạch phát triển đô thị mà Nhà nước đã thu hồi nhưng chưa giao, chưa cho thuê trong Khu KTM.

Đặc điểm nguồn lực của Ban Quản lý Khu KTM

Bảng 2.1. Nhân sự tại Ban Quản lý Khu KTM hiện nay

TTSố lượng nhân sựChỉ tiêu được giaoHiện có
Tổng sốBiên chếHĐ có thời hạn
1Khối Hành chính5145414
2Khối Sự nghiệp501153778
2.1Ban Quản lý dự án hạ tầng22175
2.2Trung tâm Bồi thường GPMB18117
2.3Trung tâm Phát triển hạ tầng75966
Tổng số1011607882

(Nguồn: Báo cáo năm 2018 Ban Quản lý Khu KTM)

Về chất lượng đội ngũ công chức, viên chức: Đến nay, đội ngũ công chức, viên chức, người lao động có trình độ đại học và trên đại học là 148 người, chiếm trên 92,5% (có 12 Thạc sỹ, 136 Đại học). Số công chức, viên chức đã qua đào tạo bồi dưỡng kiến thức QLNN là 128 người (trong đó, có 09 chuyên viên chính và 78 chuyên viên). Nhìn chung, chất lượng đội ngũ công chức – viên chức Ban Quản lý Khu KTM đáp ứng yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ công việc, trình độ chuyên môn phù hợp với vị trí việc làm đảm nhiệm.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DONG A\LUAN VAN DONG A\NGUYEN THANH HAI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *