Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thực hiện mục tiêu phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố và là trung tâm du lịch mang tầm cỡ khu vực, những năm qua Đà Nẵng có nhiều bước phát triển vượt bậc, cả về sản phẩm cùng cơ sở vật chất theo hướng chất lượng cao phục vụ du khách, tình hình an ninh trật tự luôn được tập trung quan tâm, các mô hình phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc từng bước đi vào chiều sâu, lan tỏa, phù hợp với đặc điểm địa bàn.

Theo số liệu báo cáo tổng kết của Công an thành phố Đà Nẵng, từ đầu năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2019, tại Đà Nẵng, đã xảy ra 2.893 vụ phạm pháp hình sự, các vụ việc dư luận chú ý được khám phá xử lý kịp thời, đúng người, đúng tội không để hiệu ứng lây lan, phức tạp.

Đảng, Chính quyền các cấp từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp tập trung chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội cùng nhân dân, du khách tăng cường công tác phòng ngừa tình hình tội phạm, nhất là phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản (sau đây viết tắt là TCTS) tại các điểm du lịch. Cơ quan Tòa án nhân dân, Điều tra và Viện kiểm sát nhân dân cũng đã phối hợp chặt chẽ, tích cực trong công tác phòng ngừa và phát hiện, điều tra, truy tố, đưa ra xét xử kịp thời các vụ án về TCTS tại các điểm du lịch, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và phòng ngừa đấu tranh tội phạm của địa phương, được quần chúng nhân dân và xã hội đồng tình ủng hộ.

Tuy nhiên, tình hình tội phạm, nhất là tội phạm ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao ngày càng có chiều hướng gia tăng; công tác quản lý nhà nước về an ninh trật tự (sau đây viết tắt là ANTT) và phòng cháy chữa cháy còn nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố ngày càng phức tạp, không chỉ gia tăng về số lượng tội phạm, người phạm tội mà tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm, phương thức, thủ đoạn thực hiện che giấu tội phạm ngày càng tinh vi, tình hình tội TCTS ở các điểm du lịch biến động, có những thời điểm gia tăng, diễn biến khó kiểm soát, liên quan đến người nước ngoài ngày càng nhiều, số lượng người bị bắt, bị xét xử sau đó lại tái phạm vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn trong số những người phạm tội. Và hậu quả gây thiệt hại lớn cho tài sản của Nhà nước, tổ chức và công dân, du khách gây ra tâm lý lo lắng cho xã hội, ảnh hưởng đến môi trường du lịch và quá trình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.

Qua đánh giá, xác định các nguyên nhân kết hợp với thực tiễn và để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, cho nên đặt ra vấn đề nghiên cứu lý luận về phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch là cần thiết, phải tìm hiểu về nhận thức, thực trạng áp dụng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa loại tội phạm này một cách toàn diện, có hệ thống đem lại hiệu quả cao hơn trong thời gian tới, góp phần phục vụ thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa ở địa phương và đất nước.

Khi tìm hiểu và trao đổi được biết chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu để đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc sĩ luật học là đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

3.1 Mục đích nghiên cứu

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung và thực trạng phòng ngừa tình hình tội TCTS, TCTS tại các điểm du lịch, từ đó đưa ra các biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa loại tội phạm này trong thời gian tới tại các điểm du lịch thành phố Đà Nẵng.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu luận văn để xây dựng các nhiệm vụ cụ thể cần phải giải quyết sau:

Thứ nhất là, nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình tội phạm TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Thứ hai là, tìm hiểu thực trạng phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2019.

Thư ba là, đề xuất các biện pháp về tăng cường phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực trạng phòng ngừa và các biện pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội TCTS ở các điểm du lịch.

Quan hệ giữa tình hình tội TCTS ở các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng với các hiện tượng kinh tế – xã hội khác để tạo cơ sở cho việc thiết lập các giải pháp phòng ngừa tội phạm TCTS tại các điểm du lịch.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu: các vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản; thực trạng hoạt động điểm du lịch và công tác phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Qua đó đề ra biện pháp nhằm tăng cường phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch.

Nghiên cứu Đề tài thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”; Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi bổ sung năm 2009) và tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017).

Về không gian nghiên cứu: Các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Về thời gian nghiên cứu được giới hạn từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Đề tài thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương đường lối, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các Chỉ thị, Nghị quyết của ngành Công an và các ngành, các cấp liên quan lĩnh vực quản lý Nhà nước về ANTT và phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật ở các điểm, khu, tuyến du lịch.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp điều tra; phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp nghiên cứu, thống kê hồ sơ; trao đổi các chuyên gia, cán bộ phụ trách, các du khách và các đơn vị lữ hành về vấn đề liên quan đến điểm du lịch.

Nghiên cứu các vụ án đã được khởi tố tại cơ quan Công an; những bản án đã xét xử của Tòa án nhân dân (sau đây viết tắt là TAND) và các báo cáo sơ kết, tổng kết liên quan đến tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch; nghiên cứu tình hình liên quan hoạt động du lịch, dân số, kinh tế, các mô hình phong trào đảm bảo ANTT tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2019 của các cơ quan chức năng như Công an, Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thành phố Đà Nẵng và các quận, huyện, thành phố, Sở Du lịch thành phố, Cục Thống kê thành phố Đà Nẵng, các công ty lữ hành du lịch. Đồng thời kết hợp, đánh giá các số liệu, tư liệu trong các bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố liên quan tới công tác phòng ngừa tình hình tội TCTS và các tội xâm phạm sở hữu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn hệ thống, góp phần làm rõ được những vấn đề lý luận và thực tiễn về phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung và thực tiễn ở các điểm du lịch trên thành phố Đà Nẵng, luận văn góp phần làm rõ thực trạng tình hình TCTS tại các địa điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, qua đó đề ra những biện pháp giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức, du khách và nhân dân tại điểm du lịch tham khảo, nâng cao nhận thức và hành vi trong phòng, chống, đấu tranh tội TCTS tại các điểm du lịch;

Bên cạnh đó, luận văn có thể dùng làm tài liệu trong việc phục vụ cho công tác tuyên truyền, nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch..

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TẠI CÁC ĐIỂM DU LỊCH

1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản

Khi nói đến phòng ngừa tội phạm, Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội nêu: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc áp dụng một cách tổng thể các biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội ”[22, tr.210].

Giáo sư, Tiến sĩ Võ Khánh Vinh thì có quan điểm: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước – xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm” [27, tr.154].

Ngoài ra, như chúng ta đã biết – Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (sau đây viết tắt là CHXHCN) Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Nhà nước Việt Nam không ngừng đấu tranh vì công bằng và tiến bộ xã hội. Vì vậy cho nên, Nhà nước Việt Nam rất chú trọng đến vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm, qua đó ta đã và đang từng bước loại bỏ các nguyên nhân và các điều kiện của tình hình tội phạm. Trong đó, biện pháp tích cực nhất được thể hiện qua việc hình thành các đường lối đấu tranh phòng, chống tội phạm; thiết lập và phân định chức năng phòng ngừa tình hình tội phạm cho các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội.

Phòng ngừa tình hình tội phạm là việc các chủ thể của Nhà nước thông qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình sử dụng tổng hợp các biện pháp để từng bước khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, không để tội phạm xảy ra hoặc nếu tội phạm xảy ra phải hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả thiệt hại cho con người và cho xã hội.

Với các lý luận trên, có thể xác định phòng ngừa là biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm hiệu quả nhất ở các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội… Và để đạt được mục đích làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, Nhà nước cần có chủ trương để công tác phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động thường xuyên, có sự bảo đảm về vật chất cũng như các phương tiện pháp luật, giáo dục. Khẳng định rõ công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm là sự nghiệp của toàn dân, của tất cả các cấp, các ngành. Cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp bằng các chủ trương, biện pháp phải huy động được cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân để cùng thực hiện.

Như vậy, xét đến cùng, phòng ngừa tình hình tội phạm là phải làm rõ nguyên nhân và điều kiện dẫn đến sự phạm tội và làm rõ các biện pháp, phương pháp phòng ngừa. Với mục đích đó, chương trình phòng ngừa tình hình tội phạm khi xây dựng cần phải có kế hoạch, phải thường xuyên có sự chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước và các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội khác và kịp thời thông tin đến nhân dân để cùng thực hiện. Đồng thời, cũng cần phải thực hiện sát hợp với các đặc điểm kinh tế, tâm lý, xã hội và các đặc điểm truyền thống của từng địa phương.. Song cùng, cần phải có cách thức tập trung huy động sự vào cuộc tham gia của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội và quần chúng nhân dân.

Đối với tình hình tội TCTS, cùng với sự phát triển của lịch sử pháp lý của nước ta các qui định về tội phạm trộm cắp cũng đã có những phát triển theo hướng qui định cụ thể hơn, lượng hóa giá trị của tài sản… phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

Trong Bình luận khoa học Bộ luật hình sự phần các tội phạm, tác giả Đinh Văn Quế đề cập rằng: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản” [13, tr.196].

Và với cách nhìn nhận vấn đề như thế – có thể định nghĩa khái niệm về tội TCTS có nhiều cách khác nhau, tuy nhiên căn cứ vào thực tiễn đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản và căn cứ lý luận khoa học hình sự về tội TCTS trong BLHS năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và trong BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì có thể đề ra khái niệm sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ Luật hình sự, thể hiện dưới hành vi lén lút, che giấu nhằm chiếm đoạt tài sản không phải của mình có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính, bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản mà đến thời điểm gây án chưa được xóa án tích”.

Với khái niệm về tội trộm cắp mà tác giả đưa ra kết hợp với nội dung đã phân tích trên, đi đến khái niệm về phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản sau đây: Phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản là việc sử dụng tổng hợp các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và bản thân chủ sở hữu tài sản hoặc là người có quyền quản lý tài sản, như: biện pháp pháp luật, chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng, tự quản… với mục đích kiểm soát, loại trừ các nguyên nhân và điều kiện của tội trộm cắp tài sản để hạn chế, ngăn chặn và đi đến cùng là loại bỏ tình hình tội trộm cắp tài sản ra khỏi các hoạt động của đời sống xã hội.

1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của điểm du lịch

Theo Luật du lịch của nước CHXHCN Việt Nam năm 2017 tại điểm 1, điều 3 nêu rõ “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.

Đối với điểm du lịch, tại điểm 7, điều 3, Luật Du lịch của nước CHXHCN Việt Nam năm 2017 qui định: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch được đầu tư, khai thác phục vụ khách du lịch”.

Như vậy, có thể khái niệm về điểm du lịch như sau: Điểm du lịch là nơi tiến hành hoạt động du lịch, có ranh giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận, được đầu tư phát triển du lịch, đáp ứng điều kiện về an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường, có ưu thế về tài nguyên du lịch, được quy hoạch đầu tư phát triển nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch, hàng năm đón được từ 50.000 lượt khách du lịch trở lên, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường.

Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt động Du lịch còn một số hạn chế, yếu kém, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch chưa cao; môi trường du lịch, an toàn thực phẩm và an toàn giao thông còn nhiều bất cập…

Tại thành phố Đà Nẵng, từ khi áp dụng Luật Du lịch năm 2005 chính quyền thành phố, các địa phương, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành, kinh doanh vận tải khách du lịch, các cơ sở lưu trú du lịch, doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh các loại dịch vụ du lịch khác đã rất quan tâm đến việc thúc đẩy phát triển du lịch tại địa phương, tại thành phố.

Ngày 09 tháng 11 năm 2015, UBND thành phố Đà Nẵng đã triển khai Quyết định số 8373/QĐ-UBND Về việc ban hành “Đề án phát triển du lịch thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 – 2020”, trong đó đặt ra mục đích: “Tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh và đảm bảo phát triển bền vững ngành du lịch thành phố Đà Nẵng; Tạo cơ sở để lập quy hoạch chi tiết các khu du lịch trọng điểm; các sản phẩm du lịch có chất lượng, phát huy và khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch; Tạo tiền đề để phát triển đột phá ngành du lịch, thực sự tăng trưởng trở thành kinh tế mũi nhọn và có đóng góp lớn vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của thành phố”, và yêu cầu: “Đảm bảo các nguyên tắc về xây dựng và phát triển du lịch theo qui định tại Luật Du lịch; Phù hợp với chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của cả nước, của vùng duyên hải Nam Trung Bộ và định hướng của thành phố Đà Nẵng đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030; Phát huy lợi thế du lịch của thành phố; sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên du lịch”.

Năm 2017, Luật Du lịch số 09/2017/QH14 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIV, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2017 ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2018. Trong đó, điều 23, qui định về điều kiện công nhận điểm du lịch bao gồm:

1. Điều kiện công nhận điểm du lịch bao gồm:

a) Có tài nguyên du lịch, có ranh giới xác định;

b) Có kết cấu hạ tầng, dịch vụ cần thiết bảo đảm phục vụ khách du lịch

c) Đáp ứng điều kiện về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

2. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.

Và theo đó, để được công nhận là điểm du lịch, thì điểm du dịch phải đáp ứng các điều kiện như có tài nguyên du lịch và có ranh giới xác định; có kết cấu hạ tầng và dịch vụ cần thiết đảm bảo phục vụ khách du lịch; ngoài ra, còn phải đáp ứng các điều kiện về ANTT, an toàn xã hội, bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

Các điểm du lịch sau khi được công nhận thì việc quản lý, khai thác càng trở nên chặt chẽ và tuân thủ theo đúng các quy định của Luật Du lịch. Trong đó, các tổ chức, cá nhân được giao quản lý điểm du lịch được quyền đầu tư, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch; đồng thời, ban hành nội quy, tổ chức kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch; tổ chức dịch vụ hướng dẫn, cũng như quy định, quản lý việc sử dụng hướng dẫn viên du lịch trong phạm vi quản lý và được thu phí theo quy định của pháp luật. Cùng với đó, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân này là phải thực hiện tốt việc quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch tại điểm du lịch, tránh để xảy ra các hoạt động trái quy định, gây phản cảm, ảnh hưởng đến hình ảnh điểm du du lịch. Đặc biệt, phải tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch đến tham quan, cũng như bảo đảm an toàn cho du khách và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường.

Thành phố Đà Nẵng gần đây cũng đã quan tâm hơn và tạo điều kiện thuận lợi khi đăng ký công nhận điểm du lịch đó là: Được đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá du lịch trong nước và ngoài nước; được tham gia các chương trình, sự kiện do ngành Du lịch tổ chức; được hỗ trợ các hoạt động tuyên truyền quảng bá dưới hình thức giới thiệu các khu, điểm du lịch được xếp hạng trên báo chí – truyền hình – ấn phẩm quảng bá du lịch của Sở Du lịch Đà Nẵng hoặc tại các sự kiện trong và ngoài nước do Sở Du lịch tham dự; giới thiệu tại website của Sở Du lịch. Ngoài ra, các khu, điểm du lịch sẽ được đánh giá, tôn vinh nếu có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển du lịch Đà Nẵng nói riêng và Việt Nam nói chung; được cắm biển chỉ dẫn điểm đến theo ngành quản lý chức năng; được chuẩn hóa các bài thuyết minh hướng dẫn du lịch; được tham gia hội nghị, hội thảo do Sở Du lịch và các cơ quan ban ngành liên quan tổ chức.. Qua đó, các đơn vị có thể kịp thời cập nhật thông tin mới liên quan ngành du lịch; đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc tại khu, điểm du lịch được tham gia các chương trình đào tạo, các khóa học bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ du lịch do Sở Du lịch Đà Nẵng tổ chức.

Tuy nhiên, qua khảo sát, nghiên cứu và trao đổi trực tiếp với Phòng Quy hoạch phát triển tài nguyên du lịch thuộc Sở Du lịch thành phố Đà Nẵng thì tác giả được biết hiện tại thành phố Đà Nẵng chưa có tổ chức, cá nhân nào làm hồ sơ để đề nghị công nhận điểm du lịch với nhiều lý do khác nhau, như: chưa có các bài thuyết minh hướng dẫn du lịch được chuẩn hóa; chưa có bộ phận bảo vệ trực 24 giờ mỗi ngày và phương án đảm bảo ANTT; thủ tục để làm công nhận điểm du lịch tuy rút gọn, cải cách nhưng không có chế tài kèm theo để xử lý các trường hợp kinh doanh điểm du lịch mà không đăng ký công nhận điểm du lịch và quyền lợi của điểm du lịch chưa được công khai, tuyên truyền rộng, chưa sát với yêu cầu, nhu cầu của các cơ quan, doanh nghiệp hoạt động điểm du lịch..

Với các qui định về Luật Du lịch, về điểm du lịch và khái quát về thực trạng tình hình hình du lịch tại thành phố Đà Nẵng, về khoa học, tác giả quan niệm của luận văn này (vì chưa được công nhận về mặt pháp lý) về các điểm du lịch tại thành phố Đà Nẵng có đặc điểm sau thì được coi là điểm du lịch, gồm:

– Là nơi tiến hành hoạt động du lịch, có ranh giới xác định trên bản đồ địa hình do cơ quan có thẩm quyền xác nhận;

– Có cắm biển chỉ dẫn điểm đến theo ngành quản lý chức năng; Có thuyết minh về điểm du lịch; Có dịch vụ ăn uống, mua sắm; Có kết nối giao thông, thông tin liên lạc thuận lợi;

– Có ưu thế về tài nguyên du lịch, được quy hoạch đầu tư phát triển nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng của khách du lịch;

– Hàng năm đón được từ 50.000 lượt khách du lịch trở lên, đem lại hiệu quả về kinh tế – xã hội và môi trường.

– Công khai số điện thoại, địa chỉ của tổ chức, cá nhân quản lý điểm du lịch; Có hình thức tiếp nhận và giải quyết kịp thời phản ánh, kiến nghị của khách du lịch.

1.1.3. Mục đích của của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

Trong thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, phòng ngừa tội phạm lại được hiểu một cách trực tiếp và đơn giản chính là hoạt động chủ yếu của các cơ quan chuyên môn, chuyên trách trong công tác bảo vệ pháp luật và phòng chống tội phạm, mà cụ thể là: Công an, TAND, Viện Kiểm sát, Thanh tra, cơ quan Thi hành án hình sự và một số cơ quan Nhà nước khác (Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển …) nhằm ba mục đích sau: Một là, loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, xóa bỏ các tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh ra tội phạm. Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình – nhà trường – xã hội) xung quanh các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và người phạm tội, qua đó hạn chế, ngăn ngừa những hiện tượng có ảnh hưởng bất lợi và không đúng đến việc hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực chống đối xã hội của bản thân người phạm tội. Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có hệ thống phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực và tội phạm, các tác nhân ảnh hưởng và những thiếu sót trong cơ chế quản lý về các mặt (như: kinh tế, xã hội, công tác tổ chức cán bộ…), cũng như kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác. [13, tr.196]

Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22/10/2010 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” đã đề ra 09 nhiệm vụ chủ yếu, Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ “Về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới” đã xác định 08 chủ trương và Chỉ thị 37/2004/CT-TTg ngày 08/11/2004 của Thủ tướng Chính phủ “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 09/1998/NQ-CP và chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010” cùng hướng đến mục đích phòng, chống tội phạm trong đó có phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch, đó là phải kiềm chế, làm giảm các loại tội phạm, nhất là các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm mới; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong mọi tình huống. Giữ vững kỷ cương pháp luật, sự nghiêm minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền các cấp và sự tham mưu tích cực, nòng cốt của lực lượng CAND, đưa công tác phòng, chống tội phạm trở thành một trong những nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành, đoàn thể, cơ quan, đơn vị và các địa phương. Tạo ra môi trường xã hội ổn định, lành mạnh, phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội; nâng cao đời sống vật chất, bảo vệ cuộc sống hạnh phúc và bình yên của nhân dân.

Như vậy, để cho hoạt động phòng ngừa tội phạm và phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch đạt được mục đích và hiệu quả cao thì cần phải có sự phối hợp, gắn liền với phát huy vai trò và sức mạnh của các cơ quan chức năng trực tiếp quản lý các tuyến, khu, điểm du lịch. Hoạt động phòng ngừa tội phạm tại các điểm du lịch phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền nơi có các điểm du lịch và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan Công an trên cơ sở phân công, phân cấp có sự phối hợp trao đổi thông tin về tội phạm. Song cùng là việc tập trung cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, loại bỏ các điều kiện, nguyên nhân phạm tội, để hình thành các điều kiện tích cực cho sự hình thành hoàn thiện nhân cách con người, du khách. Đồng thời, khi thực hiện việc phòng ngừa tình hình tội phạm tại các điểm du lịch đòi hỏi phải nghiên cứu kĩ các vấn đề về tình hình tội phạm, về điểm du lịch; nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm tại điểm du lịch; nhân thân người phạm tội; xây dựng phương hướng và biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện tình hình tội phạm tại điểm du lịch và xây dựng nhân cách tích cực của các công ty lữ hành, du khách, con người tại điểm du lịch và trong xã hội…

1.1.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch tốt thì tạo tiền đề để góp phần huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật tại các điểm du lịch, đồng thời để xóa bỏ các tác động tiêu cực đối với xã hội, hạn chế làm giảm tới mức thấp nhất xảy ra tội phạm trong xã hội. Thực hiện tốt phòng ngừa tình hình tội TCTS tại đây góp phần thực hiện nghiêm chỉnh và đầy đủ các Nghị quyết, Chỉ thị, đường lối và Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Thực hiện tốt, đảm bảo mục đích, yêu cầu sẽ tạo trạng thái tâm lý ổn định, an toàn trong nhân dân, tại khu dân cư, điểm du lịch; tạo thêm niềm tin du khách và nhân dân vào nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa, từ đó nâng cao sự tín nhiệm vào khả năng hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Góc độ rộng hơn, điều này lôi cuốn sự ủng hộ, tích cực vào cuộc và nhiệt tình tham gia của du khách, quần chúng nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tạo ra sự hưởng ứng của xã hội, của du khách, cộng đồng đối với những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật.

Thông qua việc thực hiện các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm để thực hiện tốt công tác phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch, bằng cách thường xuyên tổ chức tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; phát động tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội, vận động gia đình, mọi người xung quang và du khách cùng thực hiện… góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, tích cực tác động đến các đối tượng thành viên trong gia đình, lôi cuốn mọi người tham gia phòng ngừa tình hình tội TCTS tại điểm du lịch và các tội phạm khác.

Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch mang đậm ý nghĩa chính trị xã hội, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, công dân, du khách, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân và du khách.

Làm tốt công tác phòng ngừa tội phạm mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc, hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về kinh tế do tình hình tội TCTS tại điểm du lịch gây ra trong xã hội kể cả những thiệt hại gián tiếp mà Nhà nước, xã hội phải chi trả để khắc phục hậu quả do tội phạm để lại, từ đó tiết kiệm được ngân sách Nhà nước, hạn chế có lợi cho sức lao động của các nhân viên Nhà nước trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và giáo dục cải tạo người phạm tội.

Thông qua hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch nói riêng, Nhà nước có thể kiểm soát được mảng tối của đời sống xã hội là tình hình tội phạm, qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, đồng thời tăng cao hiệu quả trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

1.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch

Phòng ngừa tình hình tội phạm là một loại hoạt động thực tiễn xã hội có những đặc điểm đặc thù của mình. Cách thức tổ chức và hoạt động của hệ thống đó phải được xây dựng theo những nguyên tắc nhất định [27, tr.157].

Theo quy định chung về nguyên tắc phòng ngừa (tội phạm nói chung) gồm có các nguyên tắc: pháp chế, dân chủ, nhân đạo, khoa học và tiến bộ, nguyên tắc phối hợp chặt chẽ các chủ thể và các biện pháp phòng ngừa, nguyên tắc phân hóa. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch cũng phải tuân thủ các nguyên tắc trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung. Đó là những quan điểm, phương châm xuyên suốt toàn bộ việc tổ chức và hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tác giả đề xuất các nguyên tắc đặc thù sau đây đối với phòng ngừa tình hình tội trộm cắp tài sản tại các điểm du lịch:

Một là – Nguyên tắc pháp chế: Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch ở các cấp độ, mức độ khác nhau nhưng đều thể hiện tính quyền lực của Nhà nước. Hoạt động này nhằm thực hiện nhiệm vụ và lợi ích chung mà Nhà nước, xã hội đặt ra.

Nên, không bất cứ lý do nào mà việc tổ chức và hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội TCTS ở các điểm du lịch nói riêng có thể thoát ly khỏi các quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Như vậy, chỉ có thực hiện đúng các quy định của pháp luật, phòng ngừa tình hình tội TCTS ở các điểm du lịch mới đảm bảo mục đích của nó là phục vụ lợi ích xã hội, Nhà nước và nhân dân.

Hai là – Nguyên tắc phân hóa: Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch phải được tổ chức tương ứng với các quy luật và đặc điểm của tình hình tội phạm tại điểm du lịch và người phạm tội đã được phân tích, đánh giá; các biện pháp phòng ngừa phải phù hợp với từng địa điểm và từng đối tượng; việc phòng ngừa cá nhân, tổ chức phải được tiến hành trên cơ sở hiểu biết đầy đủ về cá nhân, tổ chức du khách và cá nhân, tổ chức người phạm tội..

Ba là – Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ: Phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch hướng đến loại bỏ các tác động tiêu cực của nó đối với xã hội và làm hạn chế, làm giảm tới mức thấp nhất xảy ra tội phạm tại các điểm du lịch do các chủ thể phòng ngừa khác nhau thực hiện. Nên, để phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch đạt hiệu quả thì phải đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ thể phòng ngừa, đồng bộ giữa các biện pháp khác nhau trong hệ thống đó.

Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, Chính quyền nơi có điểm du lịch và tại đây phải có chương trình, kế hoạch được xây dựng phù hợp với đặc điểm và khoa học, quá trình triển khai áp dụng phải đồng bộ, có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung.

Bốn là – Nguyên tắc kịp thời: Đây được cho là nguyên tắc quan trọng để ổn định nhanh tình hình ANTT tại điểm du lịch để tạo môi trường luôn đảm bảo, thu hút và tạo sự an tâm khám phá, trải nghiệm tại điểm du lịch trong du khách. Để thực hiện nguyên tắc này thì cần phải chủ động dự báo tình hình, đánh giá đúng thực trạng và kịp thời đề ra các biện pháp phù hợp, hiệu quả về phòng ngừa tình hình tội TCTS tại các điểm du lịch và huy động cả hệ thống chính trị cùng người dân, du khách kịp thời, tự giác, chủ động tham gia phòng ngừa.

Năm là – Nguyên tắc triệt để trong phòng ngừa: Thông qua việc phòng ngừa bằng tất cả các lực lượng và biện pháp hiện có, qua việc phòng ngừa từ nạn nhân là cá nhân, du khách, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh doanh, quản lý điểm du lịch, các công ty du lịch, Ban quản lý các điểm du lịch.v.v..

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAM LAM DOT 10\TOI PHAM HOC\VO NHU NGHIA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *