Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam

Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam

Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Pháp luật về ngân hàng có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế và là bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường; hoạt động ngân hàng trong thời gian qua đã đóng góp rất lớn cho nền kinh tế, tuy nhiên, hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn tìm ẩn nhiều rủi ro, nhất là rủi ro trong tín dụng có thể xảy ra bất cứ lúc nào và trong những năm gần đây thì hoạt động ngân hàng đã dần bộc lộ những hạn chế, yếu kém, dễ tổn thương, đe dọa gây đổ vỡ cả hệ thống ngân hàng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cả nền kinh tế. Một vấn đề đang được giành nhiều sự quan tâm của xã hội đó là sự gia tăng tỷ lệ nợ xấu ở các tổ chức tín dụng (TCTD); sự tồn đọng và phát triển của nợ xấu xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu nợ xấu cứ ngày một gia tăng sẽ có tác động tiêu cực không chỉ tới hệ thống các ngân hàng mà còn ảnh hưởng xấu tới cả nền kinh tế.

Để xử lý vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã đưa ra rất nhiều phương án xử lý như thành lập Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản trực thuộc ngân hàng thương mại (AMC), Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp (DATC); Công ty TNHH một thành viên quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC), ban hành bổ sung các văn bản pháp luật liên quan, chỉ đạo các TCTD chủ động triển khai các giải pháp để xử lý nợ xấu…Đối với các TCTD cũng đã đưa ra nhiều biện pháp khác nhau, mỗi giải pháp được lựa chọn phụ thuộc vào khách hàng đi vay, tùy thuộc tình hình của ngân hàng đồng thời phụ thuộc vào nền kinh tế. Qua đó, các ngân hàng cho vay có thể tiến hành cơ cấu lại khoản nợ nếu khách hàng chỉ gặp khó khăn tạm thời; dùng các nguồn dự phòng rủi ro để xóa nợ cho khách hàng là đối tượng vay không còn tồn tại hoặc không thể thu hồi; xử lý tài sản bảo đảm; khởi kiện ra tòa… Tuy nhiên, một giải pháp có thể mang lại hiệu quả, giúp thu hồi nhanh phần nào khoản nợ cho các TCTD đó là thực hiện bán quyền đòi nợ cho các nhà đầu tư và giải pháp này đang được xem là một tất yếu khi tình hình nợ xấu và nhu cầu cần xử lý nợ ngày càng gia tăng, ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của các TCTD.

Trong những năm qua Chính phủ và NHNN đã ban hành những quy định của pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD nhưng việc thực hiện hoạt động này còn có nhiều điểm bất cập. Các văn bản pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định cần thiết, nhiều điểm chưa hợp lý, không phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD là một yêu cầu cấp thiết. Giải quyết được vấn đề này sẽ giúp cho việc đẩy nhanh tiến độ giải quyết nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng, làm lành mạnh hóa các quan hệ tín dụng, đáp ứng tốt yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân có liên quan. Tuy nhiên, để giải quyết tốt vấn đề này đòi hỏi có sự nghiên cứu cụ thể và giải đáp thấu đáo cả từ phương diện lý luận đến thực tiễn. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế đất nước và hội nhập nền kinh tế quốc tế, nhất là khi chúng ta đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì vấn đề tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh và các quy định pháp lý là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên đã giúp tôi lựa chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam” để làm Luận văn Thạc sỹ Luật học. Với đề tài này, tác giả mong muốn nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về mua, bán nợ để hiểu sâu hơn về thực trạng này và cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần làm sáng tỏ thực trạng pháp luật hiện hành, lý giải những tồn tại, vướng mắc, chỉ rõ nguyên nhân và tìm ra những giải pháp đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục tiêu nghiên cứu

Với đề tài này và thông qua việc nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về vai trò, mục đích của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD trong nền kinh tế và thực trạng các quy định pháp luật của Việt Nam; đề tài tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật về hoạt động mua bán nợ của TCTD trong ngân hàng thương mại. Trong nội dung đề tài này, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về xu hướng áp dụng pháp luật về hoạt động mua, bán nợ ở Việt Nam và qua đề tài này, tác giả muốn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.

Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

– Làm rõ khái niệm về hoạt động mua, bán nợ của TCTD; vai trò, đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ đối với hoạt động tín dụng ngân hàng và nền kinh tế;

– Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam; những kết quả đạt được và những bất cập trong việc xử lý nợ xấu các các ngân hàng thương mại.

– Từ những kinh nghiệm hoạt động mua, bán nợ của một số nước trên thế giới và thực trạng tình hình ở Việt Nam, đề ra các giải pháp để hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ ở nước ta.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam và việc thực thi các quy định này trên thực tế.

Phạm vi nghiên cứu: Để đạt độ sâu trong việc đánh giá thực trạng pháp luật của lĩnh vực này, tác giả chỉ lựa chọn nghiên cứu hoạt động mua, bán nợ của loại hình TCTD là các ngân hàng thương mại (NHTM). Ngoài ra, hoạt động mua, bán nợ của các TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.

5. Phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài, sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và luận giải thực tiễn như phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp; các học thuyết kinh tế đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phương pháp phân tích và so sánh được sử dụng để đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD theo pháp luật Việt Nam. Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đánh giá khái quát, rút ra kết luận về từng vấn đề trong phạm vi nghiên cứu và đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.

6. Những đóng góp của đề tài

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài Lời mở đầu, Kết luận, Mục lục, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được thiết kế gồm ba chương như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động mua, bán nợ và pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán nợ của các TCTD.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về điều chỉnh hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng hoàn thiện và một số kiến nghị về pháp luật hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ

VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG MUA, BÁN NỢ

CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động mua, bán nợ của các TCTD

Trong những năm gần đây, các chủ thể tham gia thị trường tài chính quốc tế đang sử dụng rộng rãi một nghiệp vụ mới là mua, bán nợ. Nghiệp vụ này có công dụng chính là làm tăng tính thanh khoản và tính hiệu quả trong việc đầu tư vốn trên thị trường của các nhà đầu tư. Ngoài ra, nghiệp vụ mua, bán nợ còn được xem là công cụ để Nhà nước tiến hành điều tiết, kiểm soát các hoạt động tài chính, tiền tệ trong nền kinh tế nhằm hướng tới một nền kinh tế cường thịnh và phát triển ổn định [1]. Sự tồn tại của hoạt động mua, bán nợ trong điều kiện hiện nay chính là nhu cầu đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh, xử lý những thua lỗ, yếu kém một cách tích cực bằng cách dịch chuyển nhanh chóng vốn đầu tư vào lĩnh vực vừa an toàn, vừa mang lại lợi nhuận cao.

Cùng với sự phát triển ngày càng cao của các hoạt động kinh tế, việc mua, bán nợ nói chung và nghiệp vụ mua, bán các khoản nợ thương mại nói riêng cũng ngày càng gia tăng ở nhiều nước trên thế giới, với sự tham gia của các định chế trung gian tài chính mà điển hình là các ngân hàng. Nghiệp vụ này không chỉ có sự tham gia tích cực của các định chế tài chính trung gian mà trên thực tế, chính quyền cũng tỏ ra rất quan tâm đến hoạt động này, đặc biệt là các cơ quan có chức năng quản lý tài chính và tiền tệ của đất nước như Bộ Tài Chính và ngân hàng Trung ương. Ban đầu, hoạt động mua bán nợ xuất hiện như là sự cần thiết phải giải quyết các khoản nợ có vấn đề, nợ quá hạn nhằm xử ký hậu quả kinh doanh yếu kém và từng bước lành mạnh hoá hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Tuy nhiên, cùng với thời gian, do nhu cầu luân chuyển vốn trong nền kinh tế, dần dần những khoản nợ như tài sản có của các doanh nghiệp và ngân hàng được đem ra bán trở thành rộng rãi hơn trên thị trường, trong đó bao gồm các khoản nợ có mức độ rủi ro cao và thậm chí là cả những khoản nợ lành mạnh.

Thực tiễn mua, bán nợ trên thế giới cho thấy rằng các khoản nợ được giao dịch trên thị trường rất đa dạng, bao gồm các khoản nợ của Chính phủ dưới dạng trái phiếu, tín phiếu kho bạc nhà nước; các khoản nợ của doanh nghiệp và cá nhân phát sinh trong đời sống dân sự và thương mại; những khoản nợ của các định chế tài chính trung gian; những khoản nợ bằng ngoại tệ có liên quan đến chủ nợ là các tổ chức và cá nhân nước ngoài như nợ Tổ chức quốc tế, nợ Chính phủ nước ngoài và nợ các tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài. Có thể nhận thấy rằng sự gia tăng hoạt động mua, bán nợ trên thị trường tài chính lâu nay là do sự gặp gỡ tự nhiên của nguồn cung các khoản nợ cần bán từ phía các doanh nghiệp và nhu cầu mua nợ như là một cơ hội kinh doanh của các tổ chức kinh doanh dịch vụ tài chính chuyên nghiệp như các ngân hàng. Mặt khác, kinh nghiệm điều hành nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi cách nhìn nhận của Chính phủ đối với việc xử lý các khoản nợ có vấn đề theo xu hướng nới rộng khả năng linh hoạt trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp và những định chế tài chính [2]. Ngày nay, việc mua, bán nợ càng lúc càng thay đổi tuỳ theo nhu cầu phát triển của thị trường và có thể chứa đựng những tính chất khác hẳn so với các giao dịch ban đầu của thị trường mua, bán nợ.

Hoạt động tín dụng ngân hàng luôn tìm ẩn nhiều rủi ro khi ngân hàng không thể thu hồi được toàn bộ hoặc một phần gốc và lãi khi khoản vay đến hạn và khi ngân hàng không thu hồi được nợ gốc và lãi thì người ta gọi là nợ xấu.

Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam
Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam

Trong Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển thuộc viện ngôn ngữ học, nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2006, nêu “Nợ” được hiểu là “cái vay phải trả mà chưa trả”, với khái niệm này thì nợ chỉ giới hạn trong phạm vi các quan hệ vay tài sản. Nợ được hiểu là khoản phải trả thì khoản phải trả đó là nghĩa vụ pháp lý. Theo quy định Bộ Luật Dân sự 2005 thì nghĩa vụ dân sự: “Nghĩa vụ dân sự là việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá thực hiện công việc khác hoặc không thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể khác (sau đây gọi là bên có quyền)” [3] với cách hiểu nghĩa vụ là xử sự mà một người phải thực hiện (buộc phải làm hoặc không phải làm) đối với người khác. Ở đây nghĩa vụ dân sự là quan hệ tài sản, việc thực hiện nghĩa vụ của chủ thể luôn liên quan nghĩa vụ với một lợi ích vật chất cụ thể và có thể là sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác (như quan hệ vay tài sản, mua bán tài sản, mượn tài sản, thuê tài sản, …)

1.1.2. Khái niệm nợ xấu, mua, bán nợ xấu

Hiện nay trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về nợ xấu:

Theo nhóm chuyên gia tư vấn Advisory Expert Group (AEG) của Liên hiệp quốc cho rằng định nghĩa về nợ xấu không nên mang tính chất mô tả mà chỉ nên sử dụng như hướng dẫn cho các ngân hang. AEG thống nhất định nghĩa như sau: “Một khoản nợ được coi là nợ xấu quá hạn trả lãi và /hoặc gốc trên 90 ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc châm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản vay phải thanh toán đã quá hạn 90 dưới 90 ngày nhưng chưa có lý do chắc chắc để nghi ngờ về khả năng thanh toán vay sẽ được thanh toán đầy đủ” Nói cách khác, nợ xấu được khẳng định trên 02 yếu tố quá hạn 90 ngày; khả năng trả nợ bị nghi nghờ.[4]

– Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng (BCBS):

Thì ủy ban này không đưa ra định nghĩa cụ thể về nợ xấu. Tuy nhiên, trong các hướng dẫn về các thông lệ chung tại nhiều quốc gia về quản lý rủi ro tín dụng, BCBS xác định, việc khoản nợ bị coi là không có khả năng hoàn trả khi một trong hai hoặc cả hai điều kiện sau đây xảy ra: ngân hàng thấy người vay không có khả năng trả nợ đầy đủ khi ngân hàng chưa thực hiện hành động gì để cố gắng thu hồi; người vay đã quá hạn trả nợ 90 ngày [5]. Dựa trên hướng dẫn này nợ xấu sẽ bao gồm toàn bộ các khoản cho vay đã quá hạn 90 và có dấu hiệu người đi vay không trả được nợ.

BCBS cũng đề cập tới các khoản vay bị giảm giá trị sẽ xảy ra khi thu hồi các khoản thanh toán từ khoản vay là không thể. Giá trị tổn thất sẽ được ghi nhận bằng cách giảm trừ giá trị khoản vay thông qua một khoản dự phòng và sẽ được phản ánh trên báo cáo thu nhập của ngân hang. Như vậy lãi suất của các khoản vay này sẽ không được cộng dồn và sẽ chỉ xuất hiện dưới dạng tiền mặt thực tế nhận được.

Còn chuẩn mực Kế toán quốc tế (IAS) về ngân hàng thường đề cập các khoản nợ bị giảm giá trị (Impaired) thay vì sử dụng thuật ngữ nợ xấu (nonperforming). Chuẩn mực kế toán IAS 39 được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005 chỉ ra rằng cần có bằng chứng khách quan để xếp một khoản vay có dấu hiệu bị giảm giá trị. Trong trường hợp nợ bị giảm giá trị thì tài sản được ghi nhận sẽ bị giảm xuống những tổn thất do chất lượng nợ xấu gây ra.

Về cơ bản IAS39 chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phân tích dòng tiền tương lai chiết khấu hoặc xếp hạng khoản vay của khách hàng. Hệ thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó vẫn được Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế chỉnh sửa lại trong IFRS 9.

– Theo Tổ chức tiền tệ thế giới (IMF):

Trong hướng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc gia (IFRS)2, IMF đưa ra định nghĩa về nợ xấu như sau: “Một khoản vay được coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các khoản lãi suất đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì hoản theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn 90 ngày nhưng có thể nhận thấy rõ ràng người đi vay sẽ không thể hoàn trả nợ đầy đủ (người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào danh mục nợ xấu, nó hoặc bất cứ khoản vay thay thế nào cũng nên được xếp vào danh mục nợ xấu cho tới thời điểm xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc của khoan vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế” [6]

Từ những định nghĩa trên có thấy được sự tương đồng trong cách nhận thức về nợ xấu giữa các định chế tài chính trên thế giới. Theo đó, một khoản nợ được coi là nợ xấu khi xuất hiện 1 hoặc cả 2 dấu hiệu sau: Quá hạn trả nợ gốc và lãi; khi khách hàng vay vốn bị TCTD hoặc ngân hàng coi là không có khả năng trả nợ. [7]

Ở Việt Nam, khái niệm nợ xấu được đề cập đến kể từ khi Quyết định số 493/2005/QĐ- NHNN ngày 22/4/2005 của Thống đốc NHNN (sau đây gọi tắt là Quyết định 493/2005/QĐ- NHNN), Quyết định số 18/2007/QĐ- NHNN của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về việc phân loại nợ phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.

Về khái niệm nợ xấu được định nghĩa tại Điều 6 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Khoản 3 Điều 1 Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN, Khoản 8 Điều 3 và Điều 10 Thông tư 02/20013/TT-NHNN quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Theo đó, nợ xấu là các khoản nợ thuộc các “nhóm nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi nghờ (nhóm 4) và nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) ”

Theo quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi bổ sung một số điều tại Quyết định 493/2005/QQĐ-NHNN và Thông tư 02/2013/TT-NHNN thì nợ xấu ngân hàng thương mại được phân loại theo phương pháp định tính và theo phương pháp định lượng.

Tại Điều 7 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN cho phép các TCTD có đủ khả năng và điều kiện được thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo phương pháp định tính. Theo phương pháp này, nợ cũng được phân thành 5 nhóm giống như cách phân loại nợ ở Điều 6 nhưng không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của TCTD được NHNN chấp thuận.

Như vậy, có thể hiểu, tại Việt Nam nợ ngân hàng bao gồm các khoản cho vay ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính; các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác; các khoản bao thanh toán; các hình thức tín dụng khác. Trong đó nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5 bao gồm nợ dưới tiêu chuẩn, nợ nghi ngờ, nợ có khả năng mất vốn quy định tại Điều 6, Điều 7 của Quyết định 493/2005 và Quyết định 18/2007 và Thông tư 02/2013/TT-NHNN

Các đạo luật liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân hàng chưa có một định nghĩa chính thức nào về hoạt động mua, bán nợ. Song, thuật ngữ mua, bán nợ cũng đã được đề cập như một định nghĩa chính thức tại Quy chế mua, bán nợ của các TCTD ban hành kèm theo Quyết định 140/1999/QĐ-NHNN, ngày 19/4/1999 của Thống đốc NHNN theo đó “mua, bán nợ là hoạt động mua, bán theo đó bên bán chuyển giao khoản nợ mà bên nợ hiện đang nợ bên bán nợ (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi phạt) cho bên mua nợ và nhận tiền thanh toán, bên mua nợ có nghĩa vụ trả tiền cho bên bán nợ và tiếp nhận các quyền của chủ nợ đối với khoản nợ theo thoả thuận của hai bên” và được Quyết định 59/2006/QĐ – NHNN, ngày 21/12/2006 của Thống đốc NHNN Ban hành quy chế mua, bán nợ của các TCTD sửa đổi bổ sung như sau:

“Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ” “Khoản nợ được mua, bán là khoản nợ được TCTD thành lập và hoạt động theo Luật các TCTD, TCTD nước ngoài cho khách hàng vay (kể cả khoản trả thay trong bảo lãnh) hiện đang còn dư nợ hoặc đang được theo dõi ngoại bảng”. [8]

Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN, nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn); các nhóm nợ trên có các khoản nợ gốc và lãi đã quá hạn từ 90 ngày trở lên. Tuy có nhiều khái niệm khác nhau nhưng nhìn chung các khái niệm nợ xấu về cơ bản cũng được xác định dựa trên hai yếu tố: (i) Các khoản dư nợ đã quá hạn từ 90 ngày trở lên; (ii) Khả năng trả nợ của khách hàng được xếp vào loại nghi ngờ về khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.

Mua, bán nợ có nhiều cách hiểu khác nhau, có ý kiến cho rằng nếu nợ là nghĩa vụ pháp lý thì có thể đem bán được không và có ai dám mua không? Nhưng theo tác giả thì đối với hoạt động ngân hàng thì mua bán nợ là mua bán khoản cho vay của ngân hàng cho các TCTD khác; và việc mua, bán như vậy được thực hiện dựa trên quyền thu nợ của chủ nợ, chứ không phải nghĩa vụ trả nợ của con nợ.

Dưới góc độ kinh tế, có quan điểm cho rằng hoạt động mua, bán nợ là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất hoạt động tín dụng của TCTD thì đây là quan hệ chuyển giao vốn giữa TCTD với các tổ chức, cá nhân (khách hàng) theo nguyên tắc hoàn trả và dựa trên cơ sở tín nhiệm.

Trong hoạt động nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại, cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.[9]

Như vậy, cho vay khác với hình thức cấp tín dụng khác của TCTD: Chiết khấu, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Trong nghiệp vụ cho vay, TCTD giao một khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định cho bên đi vay để dung vào mục đích nhất định và phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có nghĩa là đối với hình thức cho vay thì khoản tiền vay được chuyển giao trực tiếp hoặc nhập vào tài khoản của bên đi vay. [10]

Chủ thể tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (TCTD) và bên đi vay (khách hàng vay). Hình thức pháp lý của quan hệ cho vay giữa TCTD và khách hàng là hợp đồng tín dụng ngân hàng.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên cho vay thông thường là các TCTD được thành lập và thực hiện nghiệp vụ cho vay theo quy định của Luật các TCTD. Trong hợp đồng tín dụng phải đáp ứng các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật như khách hàng vay vốn của TCTD phải sử dụng vốn vay đúng mục đích như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và phải hoàn trả cả gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Còn bên đi vay có thể là cá nhân, pháp nhân Việt Nam hoặc cá nhân, pháp nhân nước ngoài (sau đây gọi chung là khách hàng vay) có quan hệ tín dụng với TCTD cũng phải thoả mãn điều kiện nhất định của TCTD như phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật và mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp, có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết; có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi và có hiệu quả, như vậy có thể thấy:

– Tín dụng bao giờ cũng phát sinh trên cơ sở tín nhiệm.

Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam
Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD ở Việt Nam

– Bên chuyển giao vốn chuyển giao cho bên khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.

– Khi hết thời hạn sử dụng vốn, bên nhận chuyển giao vốn phải hoàn trả vốn đã vay cho bên chuyển giao. Sự hoàn trả này thường có giá trị lớn hơn so với giá trị lúc cho vay ban đầu nghĩa là người đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay), khoản giá trị dôi ra này được gọi là lãi suất tín dụng.

Từ nhận định trên, có thể thấy, quan hệ tín dụng là quan hệ làm chuyển dịch quyền sở hữu có điều kiện, bởi lẽ việc người cho vay đòi lại tài sản đã cho vay khi đến hạn chính là một quyền năng của chủ sở hữu. Đối với người đi vay khi vay vốn phải sử dụng theo đúng mục đích của hợp đồng tín dụng đã ký kết giữa các bên và nếu vi phạm quy định này thì đó sẽ là một trong những căn cứ làm chấm dứt hợp đồng tín dụng. Điều này có nghĩa rằng bên đi vay không có toàn quyền định đoạt đối với khoản vay.

Đối với hoạt động mua, bán nợ theo Quyết định 59/2006/QĐ-NHNN thì: “Mua, bán nợ là việc chuyển nhượng khoản nợ, theo đó, bên bán nợ chuyển giao quyền chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh toán từ bên mua nợ”.

Như vậy, bên mua nợ sẽ có quyền của chủ nợ và thực hiện mọi quyền năng của chủ sở hữu đối với khoản nợ đã mua, điều này có sự khác biệt rõ ràng với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, hoạt động mua, bán nợ không phải là hoạt động tín dụng.

Về mặt lý thuyết,thông qua hoạt động mua, bán nợ, với tư cách là bên bán nợ TCTD có thể thu hồi lại một phần vốn tồn đọng của doanh nghiệp trong các hợp đồng tín dụng đã ký trước đó với khách hàng; đối với bên mua thì thường nhằm vào mục tiêu lợi nhuận. Tính đặc thù của hoạt động mua, bán nợ của các TCTD, thường là TCTD chào bán các khoản nợ xấu, các khoản nợ ít có khả năng hoặc không có khả năng thu hồi. Trong giao dịch mua, bán nợ thì bên bán bao giờ cũng chỉ nhận được mức giá thấp hơn so với giá trị thực tế của khoản nợ xấu; cũng như các loại hàng hóa khác, các khoản nợ với vai trò là một loại hàng hóa đặc biệt, luôn vận động theo các nguyên tắc như nguyên tắc thỏa thuận, nguyên tắc tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí và các quy luật cơ bản như của thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, … theo quan điểm kinh tế về hoạt động mua, bán nợ là cơ sở để khoa học pháp lý đưa ra khái niệm về hoạt động mua, bán nợ.

Dưới góc độ pháp lý, thì hoạt động mua, bán nợ của TCTD với khách hàng là một giao dịch hợp đồng mua, bán mà đối tượng mua, bán chính là quyền đòi nợ, với tư cách là một loại quyền tài sản, theo đó các bên thỏa thuận việc mua, bán các khoản nợ và hệ quả cuối cùng của việc mua, bán này là có sự chuyển giao quyền sở hữu các khoản nợ từ bên bán sang bên mua và bên mua có nghĩa vụ trả tiền mua nợ cho bên bán. Như vậy, hoạt động mua, bán nợ là một quan hệ pháp luật với đầy đủ các thành phần cơ bản về: chủ thể, khách thể, đối tượng và nội dung của quan hệ pháp luật (quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong hợp đồng mua, bán nợ). Đối với trường hợp TCTD là bên bán nợ có một số nội dung sau:

Thứ nhất: Sự thỏa thuận giữa TCTD với bên mua nợ được thể hiện dưới hình thức pháp lý là hợp đồng mua, bán nợ.

Thứ hai: Đối tượng được bán là khoản phải thu phát sinh từ hợp đồng tín dụng giữa TCTD với khách hàng. Bên mua nợ được quyền đòi nợ đối với các khoản phải thu được chuyển giao từ phía các TCTD.

Thứ ba: Trong giao dịch mua, bán nợ của TCTD, có sự chuyển giao quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các khoản nợ giữa bên bán (TCTD) với bên mua. Theo thỏa thuận này thì bên bán phải có nghĩa vụ chuyển giao quyền đòi nợ cho bên mua và toàn bộ các giấy tờ, tài liệu liên quan đến khoản nợ cho bên mua đồng thời chuyển giao cả nghĩa vụ gánh chịu những rủi ro phát sinh từ các khoản nợ cho bên mua. Bên bán có quyền nhận thanh toán từ bên mua.

Từ những phân tích trên có thể rút ra khái niệm về hoạt động mua, bán nợ của TCTD như sau: Hoạt động mua, bán nợ của TCTD là sự thỏa thuận giữa bên bán và bên mua nợ xấu được thực hiện thông qua hình thức hợp đồng bằng văn bản, theo đó quyền đòi nợ của TCTD (và tài sản bảo đảm của khoản nợ nếu có) được chuyển giao cho bên mua nợ, còn bên mua nợ có nghĩa vụ thanh toán tiền cho TCTD theo thỏa thuận”.

Thực chất, của việc mua bán, nợ đó là việc chuyển nhượng lại “quyền thu hồi nợ” từ một “khoản nợ phải thu” của bên bán nợ (chủ nợ) đối với khách nợ sang cho Bên mua nợ, để Bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên Khách nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên khách nợ).

1.1.3. Đặc điểm của hoạt động mua, bán nợ

Về lý thuyết, hoạt động mua, bán nợ của TCTD có những điểm giống nhau cơ bản so với hoạt động mua, bán nợ nói chung, như chủ thể là bên mua nợ và bên bán nợ; đối tượng mua bán là các khoản nợ – quyền tài sản; hình thức pháp lý của quan hệ mua, bán nợ là hợp đồng mua bán nợ… Tuy nhiên, ngoài những điểm giống cơ bản nêu trên, hoạt động mua, bán nợ của TCTD còn có những đặc điểm riêng như sau:

Một là, TCTD là bên bán nợ hoặc là bên mua nợ là chủ thể đặc biệt của nền kinh tế. Bởi: (i) TCTD với tư cách là bên cấp vốn cho nền kinh tế, có mặt hầu hết trong các quan hệ vay nợ của doanh nghiệp; (ii) địa vị pháp lý đặc biệt của TCTD: là định chế trung gian, người đi vay để cho vay. Vì vậy, khi các TCTD thực hiện bán nợ thì đây là một hình thức xử lý tài chính trong quá trình kinh doanh làm tăng nguồn vốn để đối phó với những rủi ro bên ngoài; (iii) TCTD là chủ thể kinh doanh có điều kiện nên phải bảo đảm một số điều kiện nhất định như: phải có vốn pháp định; phải được NHNN cấp giấy phép hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành đăng ký kinh doanh theo luật định.

Hai là, đối tượng của hoạt động mua, bán nợ của TCTD là các khoản nợ phát sinh từ hoạt động cho vay. Các khoản nợ này có thể là nợ trong hạn, nợ quá hạn, nợ có tài sản bảo đảm hoặc không có tài sản bảo đảm được phân loại theo Quyết định 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/4/2005 ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của TCTD và được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định số 18/2007/QĐ – NHNN ngày 25 tháng 4 năm 2007.

Ba là, giao dịch mua, bán nợ của TCTD chỉ có thể được xác lập dựa trên một giao dịch cơ sở đã được thực hiện (đó chính là hợp đồng cho vay hoặc hợp đồng cấp tín dụng giữa TCTD với khách hàng). Hệ quả của các giao dịch cơ sở này là xác lập quyền chủ nợ của TCTD đối với bên nợ và giao dịch này được xem là yếu tố tạo ra hàng hóa (các khoản nợ) cho thị trường mua, bán nợ. Nó, là đặc trưng cơ bản để phân biệt hoạt động mua, bán nợ của TCTD với hoạt động mua, bán tài sản và các quyền tài sản khác trong giao dịch dân sự, thương mại. Do quyền đòi nợ phát sinh từ một giao dịch trước đó nên khi thực hiện hoạt động mua, bán nợ, bên mua nợ phải tiến hành kiểm tra phân tích toàn diện về giao dịch cơ sở đã làm phát sinh quyền đòi nợ để đánh giá tính hợp pháp của giao dịch này, trên cơ sở đó xác định tính hợp pháp của khoản nợ được mua bán.

Bốn là, quan hệ mua, bán nợ của TCTD được tạo lập thông qua hợp đồng và tùy thuộc vào việc được chủ thể nào mua nợ để xác định quy chế pháp lý giải quyết tranh chấp giữa các bên khi tham gia vào hoạt động bán nợ.

Năm là, giao dịch mua, bán nợ là một giao dịch chứa đựng rủi ro rất cao. Khi bên bán nợ bán khoản nợ phải thu của mình cho bên mua nợ và sẽ chuyển giao quyền sở hữu cùng toàn bộ các giấy tờ, tài liệu có liên quan tới khoản nợ sang cho bên mua nợ và điều này cũng có nghĩa là các rủi ro từ khoản nợ đó cũng được chuyển giao sang cho bên mua nợ và bên mua nợ phải gánh chịu tất cả các rủi ro phát sinh từ khoản nợ đó. Các khoản nợ đuợc mua, bán rất đa dạng nhưng không phải lúc nào cũng là các khoản nợ lành mạnh mà nó còn bao gồm cả các khoản nợ có vấn đề, nhưng vì mục tiêu lợi nhuận mà bên mua nợ vẫn chấp nhận rủi ro. Đây cũng là đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động cấp tín dụng nói riêng trong đó có mua, bán nợ.

1.1.4. Về nguyên tắc thực hiện mua, bán nợ xấu của NHTM

Mua bán, nợ xấu được thực hiện như các giao dịch thông thường thông qua hợp đồng mua, bán nợ. Vì vậy, việc ký kết hợp đồng mua bán nợ cũng phải tuân thủ các nguyên tắc chung về ký kết hợp đồng, cụ thể như sau:

Thứ nhất, nguyên tắc tự nguyện, tự do ý chí

Theo nguyên tắc này, thì một hợp đồng được hình thành phải hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể (tự do ý chí) không có sự áp đặt ý chí của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Trong qúa trình giao kết hợp đồng tất cả mọi sự tác động làm mất tính tự nguyện của các bên sẽ làm ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.

Thứ hai, nguyên tắc cùng có lợi

Trong nền kinh tế thị trường các bên tham gia vào quan hệ hợp đồng đều xuất phát từ lợi ích riêng của mình. Khi ký kết hợp đồng, các bên cùng nhau thỏa thuận những điều khoản hợp đồng có lợi nhất cho cả hai bên, không được chèn ép lừa dối nhau.

Thứ ba, nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ

Khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên hoàn toàn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể bao giờ cũng tương ứng với nhau, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Điều này được thể hiện khi đàm phán để ký kết hợp đồng các bên đều có quyền đưa ra những yêu cầu của mình và đều có quyền chấp nhận hoặc từ chối yêu cầu của bên kia, không bên nào có quyền ép buộc bên nào. Khi các bên thống nhất ý chí với nhau về các điều khoản hợp đồng thì giao dịch mới hình thành.

Thứ tư, nguyên tắc không trái pháp luật và các qui tắt đạo đức xã hội

Trong quan hệ hợp đồng, các bên tham gia ký kết hợp đồng (nói chung hay hợp đồng mua bán nợ xấu nói riêng) đều có quyền tự do thỏa thuận các điều khoản của hợp đồng và ý chí của các bên được tôn trọng nếu phù hợp với pháp luật và không trái với các quy tắc đạo đức xã hội, có nghĩa là các bên có quyền thỏa thuận nhưng mọi sự thỏa thuận trong hợp đồng phải nằm trong khuôn khổ nhất định.

Thứ năm, nguyên tắc trực tiếp chịu trách nhiệm về tài sản

Các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng phải dùng chính tài sản của mình để đảm bảo việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Các bên có thể dùng tài sản của mình để cầm cố, thế chấp hoặc nhờ người khác bảo lãnh về tài sản để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Nguyên tắc này sẽ đảm bảo lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng.

Ngoài, những nguyên tắc chung của Bộ luật dân sự năm 2005, hoạt động mua, bán nợ xấu của NHTM phải tiến hành theo những nguyên tắc đặc thù được quy định tại Điều 5, Quy chế mua bán nợ của Tổ chức tín dụng được ban hành kèm theo Quyết định số 59/2006/QĐ-NHNN ngày 21/12/2006 của Thống đốc NHNN. Cụ thể: i) Đảm bảo an toàn cho hoạt động của các TCTD. ii) Việc mua, bán nợ được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa bên mua nợ và bên bán nợ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia mua, bán nợ. iii) Việc chuyển giao khoản nợ được mua, bán được tiến hành đồng thời với việc chuyển giao các nghĩa vụ của bên nợ và các bên có liên quan đến khoản nợ (kể cả quyền gắn liền với các bảo đảm cho khoản nợ) từ bên bán nợ sang bên mua nợ. iv) Việc mua, bán nợ có liên quan tới các tổ chức, cá nhân nước ngoài và thanh toán bằng ngoại tệ, các bên mua, bán nợ phải chấp hành các quy định của pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối và các quy định liên quan khác của pháp luật Việt Nam. v) Một khoản nợ có thể được bán một phần hoặc toàn bộ, bán cho nhiều bên mua nợ và có thể mua, bán nhiều lần.

1.1.5. Phân loại nợ của NHTM

Theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 về việc ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 thì các tổ chức tín dụng có thể thực hiện xác định, phân loại các khoản nợ thành 05 nhóm nợ dựa trên phương pháp phân loại nợ định lượng hoặc định tính.

Phân loại nợ theo phương pháp định lượng:

Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ trong thời hạn mà các tổ chức đánh giá là có đủ khả năng thu hồi cả gốc và lãi đúng thời hạn; các khoản NQH dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại; các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 điều này.

Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản NQH từ 10- 90 ngày; các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu (đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì TCTD phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu); các khoản nợ đã được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 điều này.

Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản NQH từ 91-180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại điểm b khoản này; các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 điều này.

Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản NQH từ 181-360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ 2; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 điều này.

Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản NQH trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời điểm trả nợ lần thứ 2 quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ 2; các khoản nợ cơ cấu lại thời điểm trả nợ lần thứ ba trở lên kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ khoanh nợ cần xử lý; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 điều này.

Như vậy tất cả các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 5 đều được gọi là NQH. Sự khác biệt của NQH so với nợ xấu ở chỗ: NQH được hiểu là quá thời hạn thỏa thuận theo hợp đồng mà khách hàng không thanh toán thì khoản nợ đó bị coi là NQH còn nợ xấu là khoản NQH mà người đi vay không trả được cho ngân hàng, các ngân hàng coi đây là khoản nợ không sinh lời cần theo dõi và xử lý. Như vậy “Nợ xấu là những khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn), nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).”

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC QUOC GIA HA NOI – KHOA LUAT\TRA DINH THU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *