Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn

Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn

Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm vừa qua, thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện các mặt đời sống xã hội, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế xã hội, đời sống của nhân dân ta ngày càng được nâng cao. Lớp thế hệ trẻ được sinh ra sau những năm tháng chiến tranh luôn tràn đầy sự năng động, sáng tạo, là nhân tố quan trọng quyết định tương lai tươi sáng của dân tộc. Mỗi trẻ em được sinh ra là niềm hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước. “Trẻ em như búp trên cành. Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan” câu thơ của Bác Hồ đến nay vẫn còn nguyên những giá trị. Đầu tư cho việc chăm sóc trẻ em bảo vệ sự phát triển bình thường của trẻ em cũng chính là đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình trạng trẻ em bị bạo hành, ngược đãi, xâm phạm đến nhân phẩm, sức khỏe, nhất là bị xâm phạm tình dục ở Việt Nam đã trở nên đáng lo ngại. Các tội phạm XPTDTE vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho tính mạng, sức khỏe của nạn nhân, làm suy đồi đạo đức xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đời sống văn minh trong xã hội hiện đại.

KSĐT là hoạt động nằm trong chuỗi hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước ta nhằm đảm bảo mọi hoạt động điều tra hành vi phạm tội phải được thực hiện đúng quy định của pháp luật. KSĐT là một chức năng hoạt động quan trọng của VKSND trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự. Hoạt động KSĐT vụ án hình sự có vai trò quan trọng trong hoạt động TTHS nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, hoạt động KSĐT còn có vai trò đảm bảo cho mọi hành vi vi phạm và tội phạm phải được phát hiện, xử lý chính xác, kịp thời, nhanh chóng và công minh nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn trật tự, kỷ cương của pháp luật. Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động này, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện chủ trương, chính sách cũng như nhiều quy định pháp luật liên quan. Hoạt động KSĐT đã và đang góp phần quan trọng, đảm bảo việc truy tố đúng người, đúng tội và giảm oan sai. Trong những năm qua, công tác KSĐT các vụ án hình sự nói chung và các vụ án XPTDTE nói riêng luôn được Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam đặc biệt quan tâm, chỉ đạo và đạt được những kết quả đáng kích lệ. Các vụ án XPTDTE đã được xử lý kịp thời, nghiêm minh, góp phần có hiệu quả vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này, góp phần đảm bảo trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, qua tổng kết, đánh giá thực tiễn tác giả nhận thấy rằng công tác KSĐT của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: chưa đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bị hại, thậm chí một số vụ án phải điều tra bổ sung, hủy án để điều tra, xét xử lại, nhiều đơn vị, nhiều kiểm sát viên không thực hiện công tác KSĐT ngay từ giai đoạn ban đầu khi phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm, còn thụ động trong hoạt động KSĐT đối với hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra, một số vụ án bị kéo dài phải gia hạn điều tra làm kéo dài quá trình tố tụng không cần thiết… Để tăng cường hơn nữa pháp chế cũng như hoạt động giám sát, kiểm tra trong kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và nâng cao chất lượng hoạt động trong KSĐT đối với tội phạm XPTDTE nói riêng cần phải nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của VKSND.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, đồng thời để hoạt động này của Viện kiểm sát hai cấp tỉnh Quảng Nam ngày một tốt hơn, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và đòi hỏi của xã hội nói chung, tác giả chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam”.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Từ nghiên cứu lý luận, khảo sát đánh giá thực trạng kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại VKSN hai cấp tỉnh Quảng Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Căn cứ vào mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

– Nghiên cứu phân tích làm rõ nhận thức lý luận về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, hoạt động KSĐT của cơ quan Viện kiểm sát đối với tội phạm này;

– Đánh giá thực trạng tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em và việc KSĐT vụ án xâm phạm tình dục trẻ em ở VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam;

– Kiến nghị, đề xuất một cách hệ thống nhóm các giải pháp khoa học, thực tiễn để nâng cao chất lượng công tác KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em của VKSND hai cấp tỉnh Quảng Nam trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Tác giả lấy quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, thực tiễn hoạt động KSĐT với tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để nghiên cứu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự gắn với thực tiễn hoạt động KSĐT với tội này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015-T5/2020.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng kết hợp với phép duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trưởng của Đảng và Nhà nước ta về công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Nhằm giải quyết các yêu cầu nghiên cứu đã đặt ra, luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau đây:

+ Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết, bình luận, so sánh, đối chiếu… được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề nhận thức lý luận pháp luật về KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em.

+ Phương pháp thống kê, đánh giá, tổng hợp, đối chiếu…được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu đánh giá thực tiễn hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

+ Phương pháp phân tích tổng kết kinh nghiệm, bình luận, so sánh, tổng hợp, quy nạp được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu, đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động KSĐT vụ án hình sự các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài là một công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu và những giải pháp đưa ra trong của luận văn có ý nghĩa nhất định đối với việc nâng cao hiệu quả về áp dụng pháp luật đối với tội xâm phạm tình dục trẻ em đồng thời góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng. Đồng thời, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, hội thảo tập huấn chuyên đề, giúp cho các kiểm sát viên tham khảo, vận dụng vào hoạt động nghiệp vụ và công tác, nâng cao chất lượng KSĐT của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng Nam.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài là một công trình nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn về các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Đồng thời, nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được khai thác, sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn, các hội thảo tập huấn chuyên đề, giúp cho các Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác KSĐT tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em tham khảo, vận dụng trên thực tế cũng như công tác bồi dưỡng, nâng cao chất lượng KSĐT của các cơ quan VKSND tỉnh Quảng Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần bảng phụ lục thì luận văn gồm có 3 Chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em của Cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.

Chương 2: Thực trạng Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM CỦA CƠ QUAN

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

1.1. Những vấn đề lý luận chung về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em

1.1.1. Một số vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em

1.1.1.1. Khái niệm trẻ em

Để làm rõ được các vấn đề lý luận về tội phạm XPTDTE, trước hết cần phân tích rõ khái niệm “trẻ em”. Theo đó, tại Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em có ghi nhận: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dước 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Công ước có 54 điều khoản bao gồm tất cả các khía cạnh của cuộc sống của trẻ và đặt ra các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa mà tất cả trẻ em ở khắp mọi nơi đều được hưởng. Nó cũng giải thích cách người lớn và chính phủ phải làm việc cùng nhau để đảm bảo tất cả trẻ em đều có thể được hưởng tất cả các quyền của mình. Tùy thuộc vào pháp luật ở từng quốc gia mà có quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên khác nhau. Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn công ước của Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990.

Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên như: Công ước về Quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên ngày 29/11/1985; Hướng dẫn của Liên Hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên ngày 14/12/1990.

Hiện nay, trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, việc xác định trẻ em căn cứ vào độ tuổi vẫn còn chưa có sự thống nhất. Theo đó, tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [23, Điều 1]. Như vậy, đây chính là văn bản quy phạm pháp luật duy nhất đã đưa ra khái niệm cụ thể về trẻ em. Ngoài ra, trong một số văn bản pháp luật khác cũng có một số định nghĩa liên quan như: Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thành niên là người đủ mười tám tuổi” [24, Điều 20]“Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi” [24, Điều 21]; Luật Lao động 2019 lại quy định: “Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi…” [25, khoản 1 Điều 3]“Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi” [25, Điều 143];

Bộ luật hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi về khái niệm trẻ em nhưng cơ bản vẫn xác định trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Các nhà làm luật nước ta đã cụ thể hoá nạn nhân của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em bằng cách xác định là độ tuổi cụ thể của nạn nhân. Bởi lẽ, do Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 đã có quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Do đó, việc sửa đổi tên điều luật bằng xác định cụ thể độ tuổi của nạn nhân thay vì dùng cụm từ chung là “trẻ em” đã khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn.

Như vậy, các văn bản pháp lý nêu trên đều đề cập khái niệm trẻ em dựa vào những đặc điểm tâm sinh lý hoặc dựa vào các căn cứ đặc thù của từng ngành nghiên cứu nhưng chưa có được căn cứ chung để xác định thế nào là trẻ em một cách thống nhất. Tuy nhiên, việc căn cứ vào độ tuổi để xác định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi” chính là quan điểm định nghĩa được nhiều nhà nghiên cứu khoa học và các học giả đồng tình. Tóm lại, theo pháp luật Việt Nam khái niệm “trẻ em” được xem là người chưa đủ 16 tuổi và là đối tượng được pháp luật bảo vệ. Tùy thuộc vào các quan hệ pháp luật mà trẻ em tham gia, độ tuổi chịu trách nhiệm của trẻ em có khác nhau, nhưng pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền của trẻ em đối với mọi hành vi xâm phạm.

1.1.1.2. Khái niệm xâm phạm tình dục trẻ em

Từ khái niệm trẻ em đã được phân tích ở trên cho phép chúng ta có thể tìm hiểu một cách thuận lợi hơn về nhóm các tội XPTDTE, đó chính là những người từ dưới 16 tuổi bị người phạm tội có hành vi xâm phạm tình dục. XPTDTE đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khoa học khác nhau nhưng hiện nay vẫn chưa có một khái niệm cụ thể và thống nhất nào được đưa ra. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới thì: “Xâm phạm trẻ em bao gồm mọi hình thức ngược đãi về thể chất và tinh thần, xâm hại tình dục, xao nhãng, bóc lột gây ra những thương tổn về sức khỏe, tính mạng, khả năng phát triển hay phẩm giá bằng cách lợi dụng chức phận, lòng tin hoặc quyền hạn”. Bên cạnh đó, tại khoản 8 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016 đã quy định: “Xâm hại tình dục trẻ em là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức[23, Điều 4].

Trên thực tiễn trước đây, dưới góc độ của pháp luật hình sự thì chưa có khái niệm cụ thể về XPTDTE. Để có cơ sở pháp lý nhằm xử lý ngày càng có hiệu quả loại tội phạm này, đồng thời thực hiện nghiêm chỉnh cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong công tác bảo vệ trẻ em, HĐTP TANDTC đã thông qua Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 BLHS và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Nghị quyết đã được HĐTP TANDTC thông qua ngày 20/9/2019 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 5/11/2019. Cụ thể tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết này quy định: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ…).” [20, khoản 1 Điều 2].

Như vậy có thể hiểu, xâm phạm tình dục trẻ em là là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức; do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất hay các lợi ích phi vật chất.

1.1.1.3. Khái niệm các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em

Từ phân tích khái niệm trẻ em và XPTDTE, có thể khái quát khái niệm các tội phạm XPTDTE như sau: Các tội XPTDTE là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, được quy định trong BLHS thực hiện các hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi vào các hành vi liên quan đến tình dục.

Theo BLHS năm 2015 thì các tội XPTDTE được quy định trong năm điều luật và được sắp xếp vào cùng một Chương XIV Các tội xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, bởi lẽ giữa hành vi và hậu quả của nó có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. Từ khái niệm trên có thể thấy tội XPTDTE có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, đó là: Tính nguy hiểm cho xã hội, Tính có lỗi, Tính trái pháp luật hình sự, Tính chịu hình phạt.

Có thể thấy, dấu hiệu pháp lý của tội phạm XPTPTE vẫn được thể hiện qua 4 yếu tố cơ bản của cấu thành tội phạm là: Khách thể; Mặt khách quan; Chủ thể và Mặt chủ quan của tội phạm.

Thứ nhất, khách thể của các tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, được thể hiện ngay trong tên gọi của Chương XIV đó là: xâm phạm đến quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đối tượng tác động của các tội phạm này là con người, cụ thể ở đây là người dưới 16 tuổi.

Như vậy, đối tượng tác động ở đây phải là con người còn sống từ khi sinh ra cho đến trước khi chết. Điều này để phân biệt các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người với một số tội phạm cũng có những hành vi phạm tội tương tự nhưng tác động tới đối tượng không phải là con người (người đã chết…). Sức khỏe của người dưới 16 tuổi là tình trạng sức lực đang sống trong điều kiện bình thường, là trạng thái tâm sinh lý, sự hoạt động hài hoà trong cơ thể cả về thần kinh và cơ bắp, tạo nên khả năng chống lại bệnh tật. Hành vi xâm phạm tình dục trẻ em là hành vi được thực hiển ở dạng hành động hoặc hình thức xâm phạm khác gây ra những tổn thương ở các bộ phận sinh dục trong cơ thể hoặc các bộ phận khác được cho là nhạy cảm, hậu quả xảy ra có thể gây bệnh tật, làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển bình thường của người dưới 16 tuổi.

Ngoài ra, hậu quả của hành vi phạm tội xâm phạm tình dục của người dưới 16 tuổi còn làm cho người đó bị tổn thương nghiêm trọng về mặt sức khỏe, tinh thần, có thể bị gia đình, bạn bè và mọi người xung quanh có thái độ coi thường, khinh rẻ điều này còn tùy thuộc vào vị trí tuổi tác của người đó và tính chất, mức độ của hành vi xâm phạm tình dục mà có những mức độ tác động, ảnh hưởng khác nhau.

Thứ hai, tương ứng với mỗi loại tội phạm trong nhóm các tội xâm hại tình dục trẻ em có các hành vi khách quan khác nhau, có thể là hành vi giao cấu trái pháp luật hoặc hành vi có tính chất dâm dục đối với trẻ em. Bất kể các hành vi này là gì thì đều gây ra hậu quả là trẻ em sẽ bị tổn thương sâu sắc về danh dự, nhân phẩm và sức khỏe, thậm chí là đe dọa đến tính mạng; hậu quả nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của trẻ em, khiến trẻ em dễ bị mặc cảm, khó hoà nhập với xã hội. Việc bị xâm hại tình dục trong khi các đặc điểm về sinh học, thể chất chưa phát triển hoàn thiện có thể gây ra những tổn thương tại bộ phận sinh dục như: Viêm nhiễm đường tiết niệu, phá vỡ cấu trúc bình thường của bộ phận sinh dục … Ngoài ra, trẻ em còn có thể bị lây nhiễm các bệnh xã hội, bệnh lây truyền qua đường tình dục. Với các em nữ việc bị xâm hại tinh dục có thể khiến các em mang thai ngoài ý muốn gây nguy hiểm cho bản thân và thai nhi vì cơ thể các em chưa phát triển hoàn chỉnh hoặc là nguyên nhân dẫn đến vô sinh, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ sinh sản và hạnh phúc gia đình của các em về sau. Nhiều trường hợp xâm hại tình dục đi kèm với bạo lực đã dẫn tới tử vong.

Mặt khách quan của tội phạm XHTPTE còn thể hiện ở những thiệt hại về thể chất; tinh thần và sức khỏe; lây truyền các bệnh nguy hiểm, gây tâm lý bất an trong đời sống xã hội. Hầu hết các tội phạm XPTDTE có yếu tố cấu thành vật chất, theo đó hậu quả của hành vi phạm tội là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này.

Thứ ba, mặt chủ quan của các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Mặt chủ quan của tội phạm được thể hiện thông qua các diễn biến tâm lý bên trong của người phạm tội gồm 03 yếu tố: lỗi, mục đích và động cơ phạm tội. Lỗi là thái độ tâm lý của tội phạm đối với hành vi gây nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả mà hành vi đó đã gây ra, lỗi được thể hiện dưới 02 hình thức bao gồm lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Căn cứ vào Điều 10, 11 BLHS năm 2015 thì lỗi cố ý được phân làm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp; lỗi vô ý gồm lỗi vô ý do cẩu thả và vô ý do quá tự tin. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý; Mục đích là kết quả trong ý thức chủ quan mà tội phạm đặt ra phải đạt được khi tội phạm hoàn thành.

Thứ tư, về chủ thể của các tội xâm phạm tình dục trẻ em.

Trong Phần chung, BLHS năm 2015 đã quy định dấu hiệu chung của chủ thể của tội phạm. Có thể thấy, pháp luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều thống nhất coi chủ thể của tội xâm hại tình dục (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người dưới 16 tuổi) đều là nam giới. Người thực hiện các hành vi khách quan được quy định trong cấu thành tội phạm của các tội này là nam giới (tức người thực hành trong các vụ án có đồng phạm) và nữ giới cũng có thể là chủ thể của tội phạm này nhưng chỉ là đồng phạm đóng vai trò là người tổ chức, xúi giục hoặc người giúp sức.

Theo quan điểm thông thường và phổ biến cho thấy các hành vi quan hệ tình dục xảy ra giữa nam và nữ thì nam giới là người giữ vị trí chủ động còn nữ giới là phái yếu nên không thể có khả năng chủ động thực hiện các hành vi hiếp dâm, cưỡng dâm... Tuy nhiên, quan điểm phổ biến này đã không còn đúng và phù hợp về mặt thực tiễn. Bởi lẽ, nữ giới vẫn có khả năng lợi dụng các tình huống mà pháp luật quy định là tội phạm để thực hiện các hành vi dâm ô, cưỡng dâm, thậm chí là hiếp dâm đối với nam giới. Do đó, cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn, dù nam hay nữ vẫn là chủ thể của các tội hiếp dâm, dâm ô và cưỡng dâm để phù hợp với thực tiễn pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật thế giới.

1.1.2. Một số nội dung mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 về các tội xâm phạm tình dục trẻ em

1.1.2.1. Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142)

– Về tình tiết định tội:

Theo quy định của BLHS 2015 thì một trong những yếu tố bắt buộc để chứng minh một người phạm tội hiếp dâm trẻ em hoặc cưỡng dâm trẻ em là có hay không có việc thực hiện hành vi “giao cấu” với nạn nhân. Tuy nhiên, thế nào được coi là “giao cấu” thì trước đây chưa được giải thích hoặc hướng dẫn cụ thể. Chỉ đến khi Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 – 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ thể hành vi này.

Theo từ điển tiếng Việt thì khái niệm “giao cấu” được hiểu: “Giao cấu là việc giao tiếp bộ phận sinh dục ngoài của giống đực với bộ phận sinh dục của giống cái, ở động vật, để thụ tinh”. Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về tình dục số 329-HS ngày 15/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao có đề cập đến khái niệm “giao cấu”. Cụ thể “giao cấu là hành động chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, không kể có xuất tinh hay không là tội Hiếp dâm được coi là hoàn thành, vì khi đó nhân phẩm danh dự của người phụ nữ đã bị chà đạp”. Thực tiễn hiện nay thì các cách thức giao cấu khá đa dạng và đặc biệt xuất hiện tình trạng ép buộc hoặc cưỡng bức quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính hoặc với những người chuyển đổi giới tính. Do đó, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ra đời đã bổ sung thêm trường hợp nếu người phạm tội “thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác mà không được sự đồng ý của nạn nhân” cũng bị coi là thực hiện các tội phạm này. Khái niệm này ra đời đã kịp thời phản ánh được những yêu cầu của thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm tình dục.

Như vậy, hành vi “giao cấu” và “hành vi quan hệ tình dục khác” theo quy định tại BLHS năm 2015 vẫn có những cách hiểu khác nhau? Khái niệm giao cấu trước đây vẫn được hiểu như trong Tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và một số tội phạm khác về tình dục số 329-HS ngày 15/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 – 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ thể các hành vi này.

Thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp tuy là trẻ em dưới 10 tuổi nhưng do đã có sự phát triển về thể chất nên các em trưởng thành sớm so với độ tuổi, thêm vào đó, việc giao cấu là thuận tình. Do đó, việc quy định mọi trường hợp giao cấu với người dưới 10 tuổi được xác định là đã thực hiện không phụ thuộc vào việc đã xâm nhập hay chưa xâm nhập. đều phải chịu mức hình phạt cao nhất của điều luật là chưa thật sự hợp lý vì quá nghiêm khắc. Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung đối tượng tác động “người dưới 13 tuổi” vào cấu thành cơ bản của tội phạm. Trước đây, khoản 4 Điều 112 BLHS năm 1999 quy định “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Với quy định tại Điều 142 thì nhà làm luật đã thể hiện rõ hành vi giao cấu với người dưới 13 tuổi là tình tiết định tội nhằm đảm bảo nguyên tắc phân hóa TNHS, giao cấu thuận tình với người dưới 13 tuổi hoặc nạn nhân nói dối về độ tuổi của mình đều cấu thành tội phạm đây là một điểm tiến bộ trong BLHS năm 2015.

– Về tình tiết định khung tăng nặng:

Nhà làm luật đã bổ sung thêm dấu hiệu “gây thương tích” nhằm bao quát những trường hợp xảy ra trong thực tế, tránh bản thân cấu thành tội hiếp dâm đã có yếu tố người phạm tội “dùng vũ lực” giao cấu với nạn nhân trái ý muốn của họ (khung hình phạt cơ bản từ hai đến bảy năm tù). Việc dùng vũ lực có thể gây ra thương tích cho nạn nhân và điều luật cũng quy định tình tiết “gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỉ lệ thương tật từ 31% đến 60%” là tình tiết định khung thuộc điểm h khoản 2 (khung hình phạt tù từ bảy đến 15 năm). Tình tiết “gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỉ lệ thương tật từ 61% trở lên” là tình tiết định khung tại điểm a khoản 3 (khung hình phạt tù từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân). Như vậy, hành vi cố ý gây thương tích (nếu có) đã bị thu hút vào tội hiếp dâm và trở thành tình tiết tăng nặng định khung nếu đủ tỉ lệ thương tật (từ 31% trở lên).

Bổ sung tình tiết “gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân từ 11% đến 45%” tại điểm d khoản 2 Điều 142 hoặc tương tự tại điểm đ khoản 3 “46% trở lên”. Các tình tiết “phạm tội nhiều lần” và điểm d khoản 3 “đối với nhiều người” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 112 BLHS năm 1999 đã được giảm nhẹ khung hình phạt và chi tiết hơn khi được quy định tại khoản 2 thành “phạm tội 02 lần trở lên” (điểm e) và “đối với 02 người trở lên” (điểm g) của BLHS năm 2015. Bổ sung tình tiết định khung tăng nặng tại điểm c khoản 3 Điều 142 BLHS năm 2015 “phạm tội đối với người dưới 10 tuổi” với mức hình phạt là tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Quy định tại Điều 142 đã thực hiện triệt để nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự, có phân chia độ tuổi và nguyên tắc công bằng BLHS.

1.1.2.2. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144)

Cưỡng dâm là dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng lệ thuôc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với mình. Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi được quy định rõ tại Điều 144 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 với 3 khung hình phạt chính:

– Khung 1: Phạt tù từ 05 năm đến 10 năm đối với hành vi dùng mọi thủ đoạn khiến người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi đang ở trong tình trạng lệ thuộc mình hoặc trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác

– Khung 2: Phạt tù từ 07 năm đến 15 năm nếu hành vi cưỡng dâm thuộc một trong các trường hợp sau: Có tính chất loạn luân; Làm nạn nhân có thai; Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 3 1% đến 60%; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Tái phạm nguy hiểm.

– Khung 3: Phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân nếu thuộc một trong các trường hợp: Nhiều người cưỡng dâm một người; Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội; Làm nạn nhân chết hoặc tự sát. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể chịu hình phạt bổ sung.

1.1.2.3. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145)

BLHS sửa đổi 2017 đã sửa đổi tên tội danh “Giao cấu với trẻ em” theo Điều 115 của BLHS năm 1999 thành “Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”.

– Về tình tiết định tội:

Đối với tội phạm này dấu hiệu định tội ngoài hành vi giao cấu còn có thể thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, là hành vi giao cấu có sự đồng ý, chấp nhận của nạn nhân mặc dù người phạm tội không có bất kỳ thủ đoạn nào để ép buộc, khống chế nạn nhân. Người thực hiện tội phạm có thể đạt được mục đích thông qua nhiều trường hợp, nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhưng chung nhất là không có việc sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực, lợi dụng tình trạng không chống cự được của nạn nhân, các thủ đoạn khác hoặc lợi dụng sự lệ thuộc của nạn nhân như ở các tội hiếp dâm, cưỡng dâm.

– Về tình tiết định khung tăng nặng:

Bên cạnh một số tình tiết có sự thay đổi như đã phân tích đối với tội Hiếp dâm người dưới 16 tuổi và Cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, BLHS năm 2015 đã bổ sung tình tiết “đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh” (điểm e khoản 2 Điều 145). Đây được xem là tình tiết được quy định trong một số tội trong nhóm các tội XPTDTE là một sự bổ sung kịp thời nhằm dự liệu hết các trường hợp có thể phát sinh trong thực tế.

– Về hình phạt bổ sung:

Hình phạt bổ sung cho tội này tại khoản 4, cụ thể, “người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Đây là quy định cần thiết nhằm hỗ trợ hình phạt chính, thể hiện sự nghiêm khắc hơn đối với tội phạm này, đồng thời tương thích với quy định của các tội xâm phạm tình dục khác.

1.1.2.4. Tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146)

– Về tình tiết định tội:

Tội Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi tại Điều 146 BLHS 2015 được quy định cụ thể hơn hành vi dâm ô so với BLHS năm 1999, hành vi dâm ô phải “không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác”. Tuy nhiên, BLHS năm 2015 vẫn chưa khái niệm hóa hành vi dâm ô vào điều luật. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn hiểu khái niệm dâm ô theo Bản hướng dẫn số 329 – HS2 ngày 11/05/1967, là “những hành vi bỉ ổi đối với người khác, tuy không phải là hành vi giao cấu nhưng cũng nhằm thỏa mãn tình dục của mình hoặc khêu gợi bản năng tình dục người đó được coi là dâm ô”. Tuy nhiên khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều từ Điều 141 – 147 của BLHS và việc xét xử vụ án xâm phạm tình dục người dưới 18 tuổi đã hướng dẫn cụ thể hành vi này.

Về hình phạt, mức hình phạt của tội phạm này được chia làm 3 khung, trong đó khung 2 (khoản 2) có mức phạt tù từ 3-7 năm, được áp dụng đối với một trong các trường hợp: Phạm tội nhiều lần (phải có từ 2 lần trở lên dâm ô trẻ em, mỗi lần có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội dâm ô nhưng chưa lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và còn trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự).

Ngoài ra, cũng được coi là phạm tội nhiều lần nếu một người dâm ô từ 2 lần trở lên đối với 1 trẻ em; Đối với nhiều trẻ em: Trong một lần phạm tội, người phạm tội đã có hành vi dâm ô với 2 trẻ em trở lên; Với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.

1.1.2.5. Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147)

Trường hợp người phạm tội có hành vi đe dọa, ép buộc trẻ em đóng phim khiêu dâm, biểu diễn các hành vi khiêu dâm hoặc xem những hình ảnh khiêu dâm… Đây là những hành vi nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự phát triển bình thường của trẻ em. Nhằm nội luật hóa một số công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia như Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em năm 1989 và Nghị định thư bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, Công ước số 182 – Công ước nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất của Tổ chức Lao động quốc tế năm 1999… chúng ta đã quy định tội này trong BLHS năm 2015 giúp tạo ra cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp xảy ra trong thực tế, đặc biệt khi việc XPTDTE ngày càng diễn biến phức tạp dưới nhiều hình thức khác nhau.

Điều 147 BLHS năm 2015 quy định các khung hình phạt như sau:

– Khung 1. (khung cơ bản) Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

– Khung 2. Người phạm tội có thể bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội có tổ chức; Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh; Có mục đích thương mại; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân ,à tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; Tái phạm nguy hiểm.

– Khung 3. Người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm: Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên; Làm nạn nhân tự sát.

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm..

BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung các nội dung tại các Điều 142, Điều 144, Điều 145, Điều 147 nhằm cụ thể hóa các hành vi vi phạm, mức độ vi phạm và các hình phạt tương đương với hành vi đó.

1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát điều tra vụ án hình sự xâm phạm tình dục trẻ em

1.2.1. Một số vấn đề lý luận về hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em

1.2.1.1. Một số vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra

– Khái niệm kiểm sát điều tra

Các quy định của pháp luật về hoạt động KSĐT các vụ án hình sự của Viện KSND được quy định cụ thể trong Hiến pháp, Bộ luật TTHS, Luật tổ chức VKSND, các văn bản hướng dẫn thi hành cùng văn bản khác liên quan:

Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp[26].

Điều 20 BLTTHS năm 2015 quy định về trách nhiệm của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự là: Viện kiểm sát THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, quyết định việc buộc tội, phát hiện vi phạm pháp luật nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội, người phạm tội, pháp nhân phạm tội, vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, pháp nhân phạm tội, không làm oan người vô tội.

Theo quy định của Luật Tổ chức VKSND năm 2014, cơ quan có thẩm quyền THQCT và kiểm sát điều tra là VKSND. Hoạt động THQCT và kiểm sát điều tra của VKSND được thực hiện thông qua thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền pháp lý trong tố tụng hình sự gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên (điểm b, khoản 2 Điều 34 BLTTHS năm 2015). Tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp thì “hoạt động tư pháp bao gồm: Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp, hoạt động bổ trợ tư pháp…”[12]. Do vậy, hoạt động của các chủ thể trên đều là đối tượng của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong đó có cả hoạt động KSĐT.

Như vậy, có thể khái niệm KSĐT qua những phân tích đã nêu như sau: “KSĐT là việc VKSND thực hiện các biện pháp giám sát, mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục, nội dung của pháp luật quy định, không trực tiếp ra quyết định, chỉ ra kiến nghị khi có vi phạm pháp luật tố tụng xảy ra hoặc kiến nghị yêu cầu khắc phục các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm”.

Hoạt động KSĐT của VKSND có một số đặc điểm sau đây:

– Đối tượng của hoạt động KSĐT là cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. KSĐT là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án hình sự trong đó có cả các chủ thể tiến hành tố tụng mà cụ thể ở đây là Cơ quan điều tra.

– Theo Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015 thì KSĐT là hoạt động chỉ duy nhất do VKSND thực hiện.

– Hoạt động KSĐT bắt đầu từ giai đoạn khởi tố, điều tra, lập hồ sơ của CQĐT và các Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kết hợp với cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật. Theo quy định tại Điều 166 BLTTHS năm 2015 thì có 09 nội dung mà VKS phải thực hiện.

– Mục đích của KSĐT nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra phải được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất theo đúng quy định của pháp luật.

1.2.1.2. Hoạt động kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm tình dục trẻ em

Công tác KSĐT là một chức năng của VKSND được quy định trong BLTTHS năm 2015 và Luật tổ chức VKSND năm 2014. Theo quy định của pháp luật thì công tác KSĐT các vụ án XPTDTE của VKSND là một trong các trường hợp hoạt động thực hiện pháp luật. Căn cứ để phát sinh hoạt động KSĐT của Viện kiểm sát là các quyết định tố tụng, các hành vi tố tụng của CQĐT, Cơ quan được giao một số hoạt động điều tra và những người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra các vụ án XPTDTE. VKSND thông qua việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ sẽ kiểm sát chặt chẽ các hành vi, quyết định tố tụng nhằm mục đích nhằm bảo đảm các hoạt động điều tra của CQĐT, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra được tiến hành một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Trên cơ sở đó, VKS sẽ xem xét ban hành các văn bản pháp lý thuộc thẩm quyền như kiến nghị, yêu cầu hoặc áp dụng các biện pháp khác theo quy định của pháp luật nhằm kịp thời yêu cầu chấn chỉnh, khắc phục những hạn chế, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra để việc điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em được đảm bảo tính khách quan, theo đúng quy định pháp luật.

Từ những phân tích đã nêu kết hợp với các khái niệm về KSĐT, điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em đã trình bày, có thể rút ra khái niệm công tác KSĐT vụ án XPTDTE như sau: Kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em là Viện kiểm sát sử dụng các chức năng pháp lý để kiểm sát việc tuân theo pháp luật các hoạt động của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao một số hoạt động điều tra, của các cá nhân có liên quan đến quá trình điều tra vụ án nhằm bảo đảm cho hoạt động điều tra theo đúng các quy định của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

– Đặc điểm kiểm sát điều tra vụ án xâm phạm tình dục trẻ em:

Thứ nhất, thẩm quyền KSĐT tội phạm nói chung và các tội phạm XPTDTE nói riêng chỉ do được thực hiện bởi một cơ quan Nhà nước duy nhất là Viện kiểm sát nhân dân. Chủ thể thực hiện công tác KSĐT chỉ có thể là các cá nhân được giao quyền thực hiện việc KSĐT hay nói cách khác là người tiến hành tố tụng thuộc VKS như Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên theo quy định của BLTTHS năm 2015.

Thứ hai, đối tượng của công tác kiểm sát điều tra tội phạm XPTDTE là việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao một số nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, những người có thẩm quyền trong điều tra và những người tham gia tố tụng khác theo qua hành vi và quyết định tố tụng.

Thứ ba, trong KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát được diễn ra trực tiếp, đồng thời và toàn diện mọi hành vi tố tụng của giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho các giai đoạn truy tố, xét xử vụ án.

Thứ tư, KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Ngoài ra, VKS còn có trách nhiệm phải tuân thủ triệt để quy định của BLTTHS năm 2015 chỉ áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật và theo chức năng, quyền hạn được quy định.

Thứ năm, hoạt động KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát được tiến hành từ thời điểm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố điều tra và kết thúc khi vụ án được chuyển sang giai đoạn truy tố và đối tượng của hoạt động KSĐT các vụ án XPTDTE của Viện kiểm sát chủ yếu là các hành vi và quyết định của cơ quan cơ quan điều tra.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 6/ TRAN XUAN VI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *