HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HĐND KHI KHÔNG TỔ CHỨC HĐND

HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ở Việt Nam, từ khi tiến hành đổi mới, nhất là từ năm 2001 đến nay, công tác xây dựng, tăng cường sức mạnh, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp nói chung, cải cách hành chính nói riêng đã được tập trung triển khai thực hiện đồng bộ trên các lĩnh vực từ thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, tài chính công đến từng bước hiện đại hoá nền hành chính… Nhờ đó, hệ thống thể chế, luật pháp tiếp tục được đổi mới và từng bước hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước được điều chỉnh, sắp xếp phù hợp hơn và bảo đảm ngày càng tốt hơn các yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, nhìn tổng thể hệ thống thể chế, luật pháp, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn không ít bất cập, vướng mắc; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn chồng chéo, chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước; bộ máy tổ chức còn cồng kềnh, chưa thật phù hợp; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu công cuộc đổi mới, phát triển; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng; thể chế, luật pháp về quản lý tài chính công vẫn còn bất cập; thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu.

Trong bối cảnh đó, ngày 01-08-2007, Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 17-NQ/TW “Về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”. Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu là: “…tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại; đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất và năng lực; hệ thống cơ quan nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế; đáp ứng tốt yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của đất nước” [2, tr.157-158].

Để thực hiện mục tiêu và các nhiệm vụ đó, Nghị quyết đã đề ra một số chủ trương và giải pháp chủ yếu, trong đó có những nội dung liên quan đến việc “Tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt rõ những khác biệt giữa chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị” [2, tr.170].

Sau đó, các cấp có thẩm quyền đã đề ra các quyết sách có liên quan đến việc triển khai thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TW. Trong đó, đáng chú ý là Nghị quyết số 26/2008/QH12 ngày 15 tháng 11 năm 2008 “Về thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường” của Quốc hội khoá XII; Nghị quyết số: 724/2009/UBTVQH12,của Ủy ban thường vụ Quốc hội về “Danh sách các huyện, quận, phường của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân huyện, quận, phường”, ngày 16 tháng 01 năm 2009. Chỉ thị số 31-CT/TW của Bộ Chính trị về “Lãnh đạo thực hiện thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường” ngày 12 tháng 3 năm 2009.

Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban chỉ đạo Trung ương thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường theo Nghị quyết của Quốc hội. Ban chỉ đạo trung ương đã kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương những nội dung và các công việc cần thiết để chính thức triển khai thí điểm ở 67 huyện, 32 quận và 483 phường thuộc 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Quảng Trị, Kiên Giang, Đà Nẵng, Phú Yên và Bà Rịa-Vũng Tàu) vào ngày 25/4/2009.

Từ thực tiễn triển khai thực hiện thí điểm, chung quanh chủ đề này còn khá nhiều ý kiến khác nhau, đồng tình có, phản đối có… Chính vì thế, việc đúc kết, đánh giá toàn diện, cụ thể ưu, nhược điểm của tổ chức, hoạt động Hội đồng nhân dân qua trường hợp nghiên cứu tại thành phố Đà Nẵng trong bối cảnh hiện nay là hoàn toàn cần thiết và có giá trị cả về lý luận lẫn thực tiễn, nhằm làm rõ thêm cơ sở thực tế, cơ sở lý luận cho việc tiếp tục hoàn thiện chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đưa ra những khuyến nghị khoa học cho việc nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện.

Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài có các nhiệm vụ sau:

– Hệ thống hoá, làm rõ thêm cơ sở lý luận về giám sát của HĐND nói chung, HĐND cấp tỉnh trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện nói riêng;

– Làm rõ các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện cũng như các yếu tố đảm bảo cho hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh khi không tổ chức HĐND quận, huyện;

– Phân tích những ưu điểm và những bất cập trong quá trình triển khai giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng khi không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường;

– Đề xuất khuyến nghị nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng khi không tổ chức HĐND quận, huyện.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả giám sát của HĐND trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện.

Phạm vi nghiên cứu về không gian: trên địa bàn Đà Nẵng.

Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ khi thí điểm không tổ chức HDND quận, huyện đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó bao gồm: phương pháp lịch sử và lô gic, phân tích và tổng hợp, diễn dịch và quy nạp. Đề tài cũng sử dụng các phương pháp khác như: phân tích tài liệu- thu thập các tài liệu có liên quan và tiến hành phân tích, tổng hợp theo những yêu cầu của đề tài; phương pháp khảo sát thực tế (quan sát và thu thập dữ liệu từ thực tế, đánh giá sơ bộ theo những nội dung yêu cầu của đề tài).

6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài

Về lý luận, đề tài hệ thống hóa, làm rõ thêm về mặt lý luận khái niệm hiệu quả giám sát của HĐND, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả giám sát, các tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Về thực tiễn, các đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện có thể được vận dụng vào thực tiễn Đà Nẵng cũng như tham khảo cho quá trình tổ chức chính quyền đô thị ở nước ta. Luận văn cũng còn là tài liệu tham khảo trong đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý công.

7. Kết cấu luận văn

Luận văn gồm 3 phần: phần mở đầu; phần nội dung và phần kết luận.

Phần nội dung gồm 03 chương, 08 tiết.

Chương 1: Lý luận về hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân

Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện

Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng trong điều kiện không tổ chức HĐND quận, huyện

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA

HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.1. Khái quát chung về Hội đồng nhân dân

1.1.1. Quan niệm về Hội đồng nhân dân

Thứ nhất, HĐND là cơ quan đại diện của nhân dân địa phương. Ở địa phương, HĐND là cơ quan duy nhất được thành lập bằng một cuộc bầu cử do cử tri địa phương trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, bỏ phiếu kín; hình thức hoạt động của HĐND chủ yếu thông qua kỳ họp toàn thể.

Thứ hai, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thể hiện ở các mặt sau đây:

– Được thành lập bởi các đại biểu do nhân dân địa phương bầu ra, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ nhân dân.

– Có quyền căn cứ vào pháp luật, bầu, miễn nhiệm, bãi miễn các chức danh của UBND là cơ quan chấp hành của mình; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân của TAND cùng cấp; cũng như có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu ra.

– Có quyền căn cứ vào Hiến pháp và pháp luật ra Nghị quyết để triển khai các mặt công tác ở địa phương.

– Có quyền giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương, đồng thời chịu sự giám sát, hướng dẫn của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và hướng dẫn, kiểm tra của Chính phủ.

Tóm lại, xét về mặt hình thức cũng như nội dung hoạt động, thiết chế HĐND ở nước ta thực sự là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở địa phương. Quyền lực của HĐND được xác định trong Hiến pháp về bản chất cũng là quyền lực của nhân dân. Vấn đề đặt ra là, bằng cách nào để HĐND thực hiện được quyền lực của mình trên thực tiễn là mục đích hướng tới của công cuộc đổi mới và hoàn thiện BMNN nói chung và HĐND các cấp nói riêng.

1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện

1.1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực kinh tế

1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao

1.1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường

1.1.2.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội

1.1.2.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo

1.1.2.6. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong lĩnh vực thi hành pháp luật

1.1.2.7. Trong lĩnh vực xây dựng chính quyền địa phương

Ngoài ra, HĐND thành phố trực thuộc trung ương nơi thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường còn:

– Quyết định biện pháp phát huy vai trò trung tâm kinh tế – xã hội của đô thị lớn trong mối liên hệ với các địa phương trong vùng, khu vực và cả nước theo phân cấp của Chính phủ;

– Thông qua kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, quy hoạch tổng thể về xây dựng và phát triển đô thị để trình Chính phủ phê duyệt;

– Quyết định biện pháp bảo đảm trật tự công cộng, an toàn giao thông, phòng, chống cháy, nổ, bảo vệ môi trường và cảnh quan đô thị;

– Quyết định biện pháp quản lý dân cư ở thành phố và tổ chức đời sống dân cư đô thị.

1.2. Quan niệm, đặc điểm, nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

1.2.1. Quan niệm về giám sát của Hội đồng nhân dân

Căn cứ vào các yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản pháp luật khác, hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như sau: Giám sát của HĐND cấp tỉnh là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các ban của HĐND và các đại biểu HĐND nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên cũng như nghị quyết của HĐND cấp tỉnh; từ đó đưa ra các kết luận và phương án xử lý phù hợp để khắc phục những yếu kém, hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước.

1.2.2. Đối tượng, nội dung, hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

1.2.2.1. Đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

– Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp và giám sát UBND, TAND, VKSND quận, huyện.

– Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Chánh án TAND cùng cấp.

– Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân ở địa phương.

1.2.2.2. Nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

– Giám sát về lĩnh vực kinh tế;

– Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao;

– Giám sát các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, tài nguyên và môi trường;

– Giám sát việc thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội;

– Giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo;

– Giám sát việc thi hành pháp luật;

– Giám sát việc xây dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính;

1.2.2.3. Hình thức giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

– Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp, UBND, TAND, VKSND quận, huyện.

– Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của UBND.

– Xem xét văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của UBND cùng cấp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của HĐND cùng cấp.

– Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết.

– Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu.

1.3. Hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

1.3.1. Nhận thức chung về hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân

Hiệu quả giám sát của HĐND cấp tỉnh được hiểu như sau: Hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh là kết quả thu được về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội sau quá trình tiến hành các hoạt động giám sát so với những chi phí về thời gian, vật chất, nguồn lực lao động… cho các hoạt động giám sát của HĐND tỉnh.

1.3.2. Tiêu chí đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

Thứ nhất, chuyển biến của tình hình kinh tế-xã hội sau khi có hoạt động giám sát

Thứ hai, mức độ đạt được của mục đích, yêu cầu giám sát

Thứ ba, các kết quả cụ thể đạt được do tác động trực tiếp của hoạt động giám sát

Thứ tư, kết quả thu về so với chi phí bỏ ra

1.3.3. Các yếu tố đảm bảo hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh khi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

Thứ hai, tổ chức bộ máy, hoạt động của Thường trực và các Ban HĐND cấp tỉnh

Thứ ba, năng lực, bản lĩnh và trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của đại biểu HĐND

Thứ tư, chương trình, kế hoạch, phương thức giám sát của HĐND

Thứ năm, chất lượng và hiệu lực giám sát

Thứ sáu, điều kiện vật chất, chi phí cho hoạt động giám sát của Hội đồng

Kết luận Chương 1

HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN
HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

Chương 2

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

2.1. Thực tế hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng trong điều kiện không tổ chức Hội đồng nhân dân quận, huyện (từ 4/2009 đến nay)

2.1.1. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng

Thứ nhất, kỳ họp là một hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND các cấp. Đặc điểm lớn nhất trong hoạt động giám sát tại kỳ họp là có sự tham gia của tất cả các đại biểu HĐND, đồng thời là môi trường để phát huy tính dân chủ và trí tuệ tập thể.

Thứ hai, trong điều kiện không còn tổ chức HĐND huyện, quận, phường; ngoài việc thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Luật Tổ chức HĐND và UBND, Hội đồng nhân dân thành phố đã cơ bản thực hiện đúng, đầy đủ các nhiệm vụ được bổ sung, điều chỉnh theo Nghị quyết số 725/2009/UBTVQH12 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Thứ ba, một điểm mới trong kỳ họp thứ 7, Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng, khóa VIII, nhiệm kỳ 2011-2016 đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với 15 người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân thành phố bầu [xem Bảng 2.1].

2.1.2. Hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng

Căn cứ Chương trình giám sát hàng năm của HĐND thành phố được thông qua tại các kỳ họp cuối năm, Thường trực HĐND thành phố đã xây dựng và quyết định chương trình giám sát hàng năm của mình, tập trung chủ yếu ở 2 lĩnh vực chính: Giám sát các hoạt động của chính quyền địa phương trong việc tuân theo pháp luật và giám sát việc thực hiện Nghị quyết HĐND thành phố. Từ khi thực hiện thí điểm đến tháng 6 năm 2013, Thường trực HĐND thành phố đã đã làm việc được 364 lượt tại các địa phương, cơ sở. Có thể nói, hoạt động giám sát của Thường trực HĐND thành phố đã tác động tích cực đến việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế – xã hội của địa phương.

Thường trực HĐND đã làm tốt việc duy trì mối liên hệ với các đại biểu HĐND; thường xuyên đôn đốc, kiểm tra tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân nhất là những vụ việc tồn đọng, kéo dài; tổng hợp ý kiến và nguyện vọng của nhân dân để báo cáo tại các kỳ họp của HĐND.

Một điểm mới trong hoạt động của Thường trực của HĐND thành phố là, từ sau kỳ họp thứ 6 (cuối năm 2005) Thường trực HĐND chính thức đưa điện thoại đường dây nóng 05113.888888 và hộp thư điện tử hdnddn@vnn.vn đi vào hoạt động, hằng năm (tính từ năm 2005 đến hết năm 2011) trung bình mỗi năm có 500 ý kiến phản ánh của cử tri thành phố trên nhiều lĩnh vực như: an ninh trật tự, an toàn xã hội, giải tỏa đền bù và bố trí tái định cư, qui hoạch, điện, nước…Các thông tin tiếp nhận đều được xử lý chuyển ngay cho các cơ quan, đơn vị, ngành chức năng bằng văn bản để kiểm tra và xử lý kịp thời theo thẩm quyền; đây là địa chỉ đáng tin cậy của cử tri và người dân thành phố đồng thời là kênh thông tin quan trọng của Thường trực và các Ban HĐND thành phố.

Từ tháng 4 năm 2012 đến nay, Tổ xử lý thông tin qua đường dây điện thoại nóng trở thành Phòng xử lý thông tin đường dây nóng hoạt động liên tục 24/24. Phòng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trực tiếp kiểm tra, xác minh và báo cáo ngay với Thường trực HĐND thành phố để có ý kiến chỉ đạo xử lý ngay tại hiện trường đối với 1.133 thông tin; xử lý nóng bằng cách chuyển thông tin cho các cơ quan thẩm quyền và kết hợp đôn đốc, giám sát có kết quả đối với 1.234 thông tin.

2.1.3. Hoạt động giám sát của các Ban Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng

2.1.3.1. Ban Kinh tế – Ngân sách

Trong suốt nhiệm kỳ, kể cả trước và trong quá trình thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường, Ban đã tổ chức được hơn 400 cuộc giám sát, khảo sát thực tế ở các Sở, ngành và địa phương, riêng trong thời gian thực hiện thí điểm đã tăng số lần giám sát, khảo sát hơn 20%. Trong nhiệm kỳ qua Ban đã triển khai các hình thức giám sát sau:

– Giám sát chung về tình hình thực hiện Nghị quyết của HĐND thành phố về nhiệm vụ kinh tế – xã hội và ngân sách hàng năm

– Giám sát qua kiến nghị của các tổ chức, công dân về lĩnh vực kinh tế và ngân sách

2.1.3.2. Ban Văn hóa – Xã hội

Từ khi thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, huyện, phường đến nay, Ban Văn hóa – Xã hội đã thực hiện hơn 150 cuộc giám sát và làm việc với các cơ quan ban ngành và địa phương. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các chủ trương, chỉ tiêu và nhiệm vụ đã được HĐND thành phố ra nghị quyết tại kỳ họp.

Trong năm 2009, Thường trực, HĐND và Ban Văn hoá – Xã hội của HĐND thành phố đã tổ chức được 40 buổi làm việc và đi thực tế tại các ngành và địa phương trên toàn địa bàn: Qua giám sát cho thấy, việc thực hiện chỉ tiêu giảm tỷ lệ sinh trong năm chưa đạt theo chỉ tiêu tỷ lệ giảm sinh năm 2009 mà HĐND thành phố giao; số hộ thoát nghèo, giải quyết việc làm đạt kế hoạch năm; số lượng học sinh bỏ học năm học 2008 – 2009 giảm so với năm học 2007 – 2008. Công tác chuẩn bị về cơ sở vật chất để chuẩn bị cho Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VI năm 2010 vẫn còn chậm, công tác chỉ đạo thi công xây dựng chưa thực sự quyết liệt.

Đến năm 2013, đã thực hiện 65 cuộc giám sát, đi thực tế tại các đơn vị, địa phương; 01 đợt giám sát chuyên đề xã hội hóa giáo dục trên địa bàn thành phố. Qua giám sát cho thấy, công tác giảm nghèo được triển khai tích cực, công tác giải quyết việc làm được chú trọng, đã tổ chức tốt các hoạt động kết nối để giải quyết việc làm cho người lao động; lĩnh vực y tế có nhiều chuyển biến tích cực như chất lượng dịch vụ y tế được nâng cao, hạn chế được tình trạng nằm ghép ở các bệnh viện công lập, Trung tâm Y tế Hòa Vang đi vào hoạt động đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân; các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao diễn ra sôi nổi với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thể thao thành tích cao đạt kết quả tốt; công tác thanh kiểm tra các cơ sở hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa được tăng cường; chấn chỉnh tình trạng múa cột tại các quán bar trên địa bàn thành phố.

2.1.3.3. Ban Pháp chế

Ngoài các hoạt động giám sát thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được quy định, Ban còn tập trung cho công tác giám sát theo chuyên đề nhằm đi sâu nghiên cứu phân tích, đánh giá từng vấn đề cụ thể như: Giám sát theo chuyên đề về thí điểm tổ chức xây dựng và hoạt động của lực lượng Dân quân thường trực trên địa bàn 12 phường, xã; giám sát công tác đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn giao thông trên địa bàn các quận, huyện; tình hình tổ chức triển khai thực hiện Quyết định 7343/QĐ-UBND của UBND thành phố về phối hợp 3 lực lượng trong công tác tuần tra đêm; tình hình hoạt động của các Văn phòng Công chứng trên địa bàn thành phố…, kết thúc mỗi chuyên đề giám sát, Ban báo cáo kết quả giám sát cho Thường trực HĐND, đồng thời đưa ra các giải pháp khắc phục những bất cập, hạn chế và đề nghị UBND thành phố, các Sở ngành, đơn vị có liên quan xem xét, giải quyết những kiến nghị của Ban.

Ban còn tiến hành giám sát thông qua đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của tổ chức, công dân về các lĩnh vực mà Ban phụ trách. Qua đó Ban đã nghiên cứu, xem xét kỹ nội dung đơn, nếu thấy cần thiết Ban tổ chức đi khảo sát thực tế hoặc làm việc với đơn vị, địa phương có liên quan hoặc xử lý chuyển đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đến các cơ quan có thẩm quyền đề nghị xem xét, giải quyết trả lời cho công dân và thông báo kết quả cho Ban Pháp chế để giám sát theo luật định. Ngoài ra, Ban đã bám sát thực tiễn, thường xuyên cập nhật thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, lựa chọn những vấn đề bức xúc từ những lĩnh vực được cử tri quan tâm tổ chức giám sát, khảo sát thực tế từ đó kịp thời đề xuất kiến nghị những giải pháp thiết thực và hiệu quả.

2.1.4. Hoạt động giám sát của các Đại biểu, Tổ Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng

Từ khi thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường HĐND thành phố Đà Nẵng gặp không ít khó khăn. Trong điều kiện số lượng đại biểu HĐND thành phố giảm so với cùng kỳ; cơ cấu Tổ trưởng, Tổ phó tổ đại biểu HĐND thành phố; thành viên các Ban HĐND có sự luân chuyển và cũng giảm về số lượng.

Thực tế hoạt động của Thường trực, các Ban, các Tổ đại biểu HĐND thành phố chưa thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ của mình theo luật định đã khó khăn và chưa làm được đầy đủ chức năng đó ở cấp thành phố, việc thực hiện quyền giám sát đến cấp quận, huyện và cơ sở theo đúng nghĩa với trách nhiệm của HĐND trước cử tri là rất khó khăn.

Mặt khác hoạt động của MTTQ, các tổ chức đoàn thể các quận, huyện phụ thuộc nguồn kinh phí do UBND quận, huyện quyết định nên giám sát, kiểm tra hoạt động UBND chưa thể hiện khách quan (thời gian qua chưa phát hiện được tồn tại, yếu kém của UBND).

Mối quan hệ trao đổi công tác giữa HĐND cấp thành phố với HĐND các xã, gặp nhiều khó khăn; thẩm tra, giám sát hoạt động của cơ quan dân cử kém hiệu quả vì công chức giúp việc cơ quan dân cử ít, HĐND thành phố theo dõi, giám sát tới 11 xã không có cấp trung gian giúp. Công tác tổng hợp, trả lời ý kiến kiến nghị, giám sát việc giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri của quận, huyện gặp khó khăn (trước đây Thường trực HĐND quận, huyện chủ trì theo dõi, giám sát trực tiếp cơ quan cùng cấp, nay nhiệm vụ này giao cho ủy ban MTTQ nhưng hiệu quả thấp).

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời gian qua Thường trực HĐND thành phố Đà Nẵng tích cực cải tiến nội dung và phương thức hoạt động; tăng cường phối hợp hoạt động với các Tổ đại biểu HĐND thành phố, các Ban HĐND với các đại biểu HĐND thành phố trong công tác thẩm tra, giám sát, chuẩn bị nội dung kỳ họp HĐND theo hướng gần dân, bước đầu đã đem lại kết quả quan trọng, tạo ra sự chuyển biến trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, cụ thể:

– Tổ đại biểu HĐND: Thường trực HĐND thành phố kiện toàn Tổ đại biểu HĐND thành phố và các Tổ được cơ cấu theo đơn vị hành chính cấp huyện, theo hướng Tổ trưởng là người có kinh nghiệm và nhiệt tình trong công tác HĐND, không nhất thiết phải trực tiếp công tác, sinh hoạt tại địa phương, nhưng Tổ phó phải là người cư trú và sinh hoạt, công tác tại địa phương. Chỉ đạo và khuyến khích Tổ đại biểu HĐND duy trì chế độ sinh hoạt hàng tháng, quý. Mời đại diện cử tri tham gia, đóng góp và trực tiếp phản ánh, ý kiến, kiến nghị thuộc cấp quận, huyện, thành phố; phân công mỗi đại biểu HĐND thành phố tiếp dân tại cơ quan, đơn vị công tác vào ngày 10, 20 hàng tháng. Tổ trưởng chủ trì phối hợp với ủy ban MTTQ quận, huyện nơi đại biểu ứng cử tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri thuộc thành phố; các ngành và phân loại ý kiến, kiến nghị thuộc cấp thành phố, quận, huyện chuyển về Thường trực HĐND thành phố để UBND thành phố có trách nhiệm giải quyết hoặc trả lời tại kỳ họp.

– Hoạt động phối hợp giữa Thường trực HĐND, các Ban và Tổ đại biểu HĐND thành phố, Thường trực HĐND thành phố vận dụng linh hoạt cơ chế phối hợp cùng thực hiện đem lại hiệu quả thiết thực (vì theo Luật và Quy chế hoạt động HĐND không quy định cụ thể; và thực tế 100% đại biểu các Tổ đại biểu HĐND hoạt động kiêm nhiệm, chuyên viên giúp việc trực tiếp không có, nếu không có sự phối hợp hoạt động của Thường trực, các Ban và Tổ đại biểu HĐND thành phố thì hoạt động của HĐND thành phố sẽ không sâu).

2.2. Đánh giá hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (từ 4/2009 đến nay)

2.2.1. Chuyển biến của của tình hình kinh tế xã hội sau khi có hoạt động giám sát

Trong thời gian thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND, UBND các huyện, quận, phường từng bước ổn định đi vào hoạt động có nề nếp, tiếp tục quản lý, chỉ đạo điều hành và duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, tập trung giải quyết nhiều vấn đề bức xúc, đảm bảo tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Trong 03 năm liền 2008, 2009, 2010 thành phố Đà Nẵng là địa phương xếp vị trí dẫn đầu xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh.

Qua 10 năm qua, triển khai Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16-10-2003 của Bộ Chính trị khóa IX “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng, khắc phục khó khăn, tổ chức thực hiện nghiêm túc, năng động, sáng tạo Nghị quyết số 33 của Bộ Chính trị và đạt những kết quả quan trọng. Kinh tế phát triển nhanh, GDP tăng bình quân 11,5%/năm, giá trị kinh tế năm 2013 tăng gấp 3 lần và GDP bình quân đầu người tăng gấp 5,4 lần so với năm 2003. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp trước dự kiến 2 năm. Chú trọng phát huy tiềm năng, lợi thế, các nguồn lực xã hội của thành phố và nguồn lực thế mạnh của vùng. Công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch được thực hiện khá tốt. Kết cấu hạ tầng phát triển nhanh, nhất là giao thông, làm thay đổi diện mạo đô thị theo hướng văn minh, hiện đại. Văn hóa xã hội có bước phát triển khá. Các chính sách an sinh xã hội, nhất là chương trình “5 không”, “3 có” đạt kết quả tích cực, góp phần cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

2.2.2. Mức độ đạt được của mục đích, yêu cầu giám sát

Hằng năm, HĐND thành phố xây dựng các chương trình giám sát cụ thể. Thông qua giám sát giúp cho Thường trực HĐND, các Ban của HĐND thành phố đánh giá đúng tình hình triển khai thực hiện các nghị quyết của HĐND để có biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo dần đưa công tác giám sát của HĐND đi vào nền nếp, đạt hiệu quả cao.

Cũng qua giám sát, giúp các đơn vị được giám sát nhận rõ các ưu điểm, khuyết điểm trong việc lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ giám sát; từ đó, phát huy ưu điểm, khắc phục các khuyết điểm, làm tốt công tác giám sát thuộc phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình.

2.2.3. Các kết quả cụ thể đạt được do tác động trực tiếp của hoạt động giám sát

So với trước khi thực hiện thí điểm, số lượng các cuộc giám sát của Thường trực HĐND thành phố, các Ban của HĐND thành phố đối với UBND quận, huyện tăng từ 2,3-3 lần. Từ khi thực hiện thí điểm đến tháng 6 năm 2013, Thường trực HĐND thành phố đã đã làm việc được 364 lượt tại các địa phương, cơ sở. Số lượng các cuộc giám sát của Thường trực HĐND, các ban của HĐND đối với TAND, VKSND tăng 2,9 lần so với trước khi thực hiện thí điểm.

Để đánh giá một cách chính xác các kết quả đạt được do tác động của hoạt động giám sát cần căn cứ trên các báo cáo của các cuộc giám sát đã được Thường trực và các Ban của HĐND thành phố Đà Nẵng triển khai thực hiện trên các lĩnh vực. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, hoặc mỗi năm Thường trực HĐND và các Ban của HĐND thành phố đều xây dựng chương trình giám sát để triển khai thực hiện theo sự phân công; các cuộc giám sát diễn ra theo đúng quy trình, có chất lượng hiệu quả phản ánh những vấn đề nỗi cộm, những bức xúc mà cử tri quan tâm qua đó phản được kết quả, tình hình thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị được giám sát; từ đó có những đề xuất đối với địa phương, đơn vị về những tồn tại, hạn chế cần khắc phục; phát huy ưu điểm để đạt được kết quả cao hơn.

2.2.4. Kết quả đạt được so với chi phí bỏ ra

Chi phí bỏ ra bao gồm chi phí về vật chất và tinh thần cũng như số lượng người tham gia, thời gian tiến hành. Ở khía cạnh chi phí về vật chất, có thể nhận thấy một điều, tất cả các cán bộ công chức làm việc đều nhận được lương, ngoài lương họ còn nhận thêm những khoản thu nhập khác để đảm bảo cuộc sống.

Tuy nhiên với việc thành lập một đoàn giám sát, kinh phí để tổ chức thực hiện là không đáng kể. Tại thành phố Đà Nẵng, HĐND đã có quy định về việc chi cho việc thành lập các đoàn, công tác phí và chế độ cho mỗi cán bộ thực hiện nhiệm vụ giám sát.

2.2.5. Nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế trong hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng (từ 4/2009 đến nay)

2.2.5.1. Nguyên nhân của những ưu điểm

Thứ nhất, sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng từ thành phố đến cơ sở được tăng cường; trách nhiệm của cấp ủy Đảng ở cơ sở được cụ thể hóa hơn. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp ủy, HĐND và UBND thành phố được thuận lợi. Giảm được thời gian hội họp, giảm biên chế và tiết kiệm ngân sách.

Thứ hai, đối với UBND huyện, quận, phường theo chức năng, quyền hạn chỉ đạo trực tiếp và chủ động quyết định những vấn đề phát sinh theo thẩm quyền kịp thời không phải thông qua kỳ họp HĐND một năm hai kỳ.

Thứ ba, bộ máy chính quyền từ quận đến phường tinh gọn, phân công trách nhiệm rõ ràng giữa tập thể UBND và Chủ tịch UBND.

Thứ tư, Mặt trận và các đoàn thể chính trị – xã hội đã phát huy được vai trò giám sát, phản biện.

Thứ năm, các chỉ tiêu kinh tế xã hội đều đạt và vượt kế hoạch đề ra; quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; hoạt động sản xuất, kinh doanh được duy trì và phát triển; đời sống nhân dân vẫn được cải thiện.

Thứ sáu, đội ngũ cán bộ, công chức trong toàn hệ thống chính trị được tuyển chọn, sắp xếp cẩn trọng hơn, hợp lý hơn, nhờ đó chất lượng của đội ngũ này ngày càng được quan tâm không chỉ từ phía lãnh đạo, quản lý công tác cán bộ mà còn là một áp lực và trở thành nhu cầu bức thiết của mỗi người.

2.2.5.2. Nguyên nhân của những hạn chế

– Nguyên nhân khách quan

+ Hướng dẫn quy chế phối hợp và công tác giám sát chưa cụ thể;

+ Văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành chậm;

– Nguyên nhân chủ quan

+ Công tác tuyên truyền còn thụ động;

+ Chưa kịp thời ban hành Quy chế làm việc của UBND và quy chế phối hợp giữa UBND với Mặt trận và các đoàn thể cùng cấp.

Kết luận Chương 2

HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN
HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

Chương 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG ĐIỀU KIỆN KHÔNG TỔ CHỨC HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN

3.1. Các giải pháp chung về thể chế

3.1.1. Ban hành Luật Giám sát của Hội đồng nhân dân

– Về chủ thể giám sát

Cần bổ sung ghi rõ thành một mục riêng trong luật chủ thể giám sát của HĐND là các đại biểu HĐND, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các đại biểu hoạt động cũng như để họ phát huy tinh thần, trách nhiệm của mình. Bởi thực tế đã chứng minh rằng đại biểu HĐND là nhân tố quan trọng nhất để nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng.

– Về đối tượng chịu giám sát của HĐND

Thứ nhất, trong luật hiện hành không quy định HĐND giám sát các Ban của Hội đồng. Vậy, đối tượng giám sát của HĐND bao gồm: TTHĐND, các Ban của HĐND, UBND cùng cấp, UBND quận, huyện và các tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa phương.

Thứ hai, cần phân cấp đối tượng chịu giám sát của các cấp Hội đồng, khắc phục tình trạng phạm vi giám sát của HĐND tỉnh quá rộng như hiện nay dẫn đến quá tải và hiệu quả giám sát sẽ không cao.

– Về trách nhiệm của các thành phần trong đoàn giám sát

Hiện nay, thành phần của các đoàn giám sát thường bao gồm các đại biểu HĐND do một cơ quan của HĐND chủ trì cử ra, sự tham gia đại diện các cơ quan nhà nước hữu quan như Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các tổ chức thành viên và một số cán bộ có chuyên môn.

– Về trách nhiệm pháp lý của các đơn vị liên quan khi không thực hiện các kết luận giám sát

Để tạo điều kiện cho hoạt động giám sát của HĐND có hiệu quả thiết thực, phải có quy định về các chế tài xử lý đối với các cơ quan ban ngành khi không thực hiện các kiến nghị, yêu cầu của HĐND. Có như vậy mới nâng cao tinh thần trách nhiệm của các đơn vị và đảm bảo uy tín cho HĐND.

3.1.2. Nghiên cứu ban hành Luật tổ chức Chính quyền địa phương, bổ sung Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân

– Tăng tỷ lệ đại biểu chuyên trách không thấp hơn 1/3 tổng số đại biểu HĐND (quy định rõ Trưởng Ban, Phó Trưởng Ban HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách).

– Tăng số lượng chức danh Phó Chủ tịch HĐND cấp tỉnh ít nhất là 02 Phó Chủ tịch (bỏ chức danh Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh)

– Có thể bố trí một số thành viên các Ban HĐND cấp tỉnh hoạt động chuyên trách (ủy viên chuyên trách).

– Cần thiết phải quy định rõ Thường trực HĐND cấp tỉnh là cơ quan có chức năng giải quyết những công việc nhất định giữa hai kỳ họp HĐND. Thành viên của Thường trực HĐND bao gồm: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, Trưởng các Ban HĐND.

– Ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về quyền và trách nhiệm của đại biểu dân cử, trong đó quyền yêu cầu giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri, yêu cầu trả lời chất vấn phải được pháp luật bảo hộ bằng những biện pháp xử lý cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị không giải quyết hoặc báo cáo kết quả giải quyết đối với những vấn đề đã được đại biểu yêu cầu.

3.2. Các giải pháp cụ thể đối với Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng

3.2.1. Giải pháp đối với Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố

– Giải quyết tốt mọi quan hệ giữa HĐND với UBND, Ủy ban Mặt trận Tổ quóc Việt Nam thành phố và các cơ quan khác.

– Cơ cấu Thường trực HĐND cấp tỉnh nên quy định bao gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch (ít nhất 02 Phó Chủ tịch và bỏ chức danh Ủy viên Thường trực HĐND tỉnh), Trưởng các Ban của HĐND tỉnh.

– Bên cạnh đó, Thường trực HĐND cần xây dựng chương trình công tác cụ thể trong năm, trong quí và hàng tháng và phải bám vào chương trình để tổ chức thực hiện cho đạt.

3.2.2. Giải pháp đối với các Ban Hội đồng nhân dân thành phố

Thứ nhất, tăng số lượng cán bộ chuyên trách cho các Ban của HĐND, mỗi ban có 3 đại biểu chuyên trách gồm 01 Trưởng ban và 02 Phó Trưởng ban (tổng cộng có 12 đại biểu chuyên trách tại các Ban). Cán bộ chuyên trách các Ban HĐND phải thực sự có trình độ, năng lực mới có đủ khả năng đảm nhận được nhiệm vụ theo luật định.

Thứ hai, xây dựng chương trình công tác của Ban hàng năm và trong từng thời gian cụ thể để chủ động thực hiện.

Thứ ba, với những địa phương đặc thù, ngoài việc cho phép thành lập thêm Ban Dân tộc thì đối với các tỉnh thí điểm không tổ chức HĐND cấp quận, huyện, phường có thể cho phép thành lập thêm một Ban nữa cho phù hợp với điều kiện địa phương. Ví dụ như Ban Chính quyền địa phương hoặc như hiện nay, thành phố Đà Nẵng đang trình TW xem xét mô hình chính quyền đô thị thì có thể thành lập thêm Ban Đô thị.

3.2.2.1. Ban Kinh tế – Ngân sách

– Trên lĩnh vực quản lý, điều hành thu – chi ngân sách Nhà nước:

+ Đối với một số nguồn vốn như chương trình mục tiêu quốc gia, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn ODA… Trung ương nên giao cho địa phương theo hướng giao tổng mức (không nên phân bổ có địa chỉ) và giao cùng thời điểm với giao dự toán. Trên cơ sở đó, HĐND cấp tỉnh xem xét quyết định phân bổ cho các ngành, địa phương, công trình, dự án cụ thể để có sự lồng ghép các nguồn vốn, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách.

+ Kiểm toán Nhà nước cần mở rộng phạm vi, tăng cường kiểm toán các đơn vị dự toán ngân sách nhà nước, nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán, đẩy mạnh kiểm toán hoạt động, kiểm toán kinh tế gắn với đánh giá trách nhiệm của Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị trong quản lý kinh tế. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa KTNN với Thường trực HĐND tỉnh, thành phố để giúp HĐND có những quyết định đúng đắn trên lĩnh vực ngân sách nhà nước.

– Trên lĩnh vực quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản:

Việc phân bổ vốn đầu tư phát triển từ nguồn ngân sách nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc công khai, minh bạch, công bằng trong phân bổ vốn đầu tư phát triển; thực hiện đúng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; bảo đảm tương quan hợp lý giữa các vùng miền; cân đối vốn đầu tư phát triển bám sát mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước, của địa phương, phù hợp với quy hoạch của cấp có thẩm quyền; nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tạo điều kiện thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước để bảo đảm huy động cao nhất các nguồn lực cho đầu tư phát triển, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế.

Ngoài ra, đề xuất Chính phủ phân cấp về tự chủ ngân sách (nhưng vẫn đảm bảo cơ chế Trung ương hỗ trợ nếu cần thiết) để đẩy mạnh việc huy động nguồn lực cho phát triển. UBND thành phố sẽ phê duyệt về dự toán thu chi ngân sách của UBND quận, huyện, phường, xã.

3.2.2.2. Ban Văn hóa – Xã hội

Qua hoạt động giám sát theo chuyên đề mà Ban Văn hóa – Xã hội HĐND thành phố Đà Nẵng đã tổ chức triển khai thực hiện bước đầu mang lại hiệu quả và đạt được mục đích giám sát, các đề xuất là:

– Xây dựng chính sách khuyến khích việc thành lập và hoạt động của các bệnh viện tư nhân, các phòng khám tư nhân, cải tiến chế độ khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế trên địa bàn thành phố;

– Trong lĩnh vực giáo dục, khuyến khích, tạo điều kiện thành lập, hoạt động của các trường dân lập, tư thục, chú trọng vào các trường tiểu học, trung học cơ sở chất lượng cao, các trường dạy nghề, các trường đạt tiêu chuẩn quốc tế;

– Xúc tiến việc chuyển giao các dịch vụ công ích như thu gom và tái chế rác thải, vệ sinh môi trường, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào các công trình công cộng: công viên, khu vui chơi công cộng, các nhà thi đấu, nhà triển lãm…; đồng thời, nghiên cứu chuyển các đơn vị sự nghiệp có thu sang cơ chế tự chủ về tài chính.

3.2.2.3. Ban Pháp chế

Để tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giám sát đơn thư trong thời gian tới, các giải pháp là:

Thứ nhất, cần sớm ban hành Luật hoạt động giám sát của HĐND, quy định cụ thể về trình tự, thủ tục quyền hạn và trách nhiệm của các bên trong hoạt hoạt động giám sát, nghiên cứu, bổ sung các quy định nhằm tăng cường các biện pháp chế tài xử lý nghiêm trách nhiệm của các chủ thể bị giám sát, thực hiện không đúng, cố tình không thực hiện kết luận giám sát, nhằm đảm bảo tính hiệu quả của cơ quan quyền lực của Nhà nước ở địa phương trong hoạt động giám sát nói chung và giám sát việc xử lý đơn thư giải quyết khiếu nại tố cáo nói riêng.

Đề nghị Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nghiên cứu có biện pháp chỉ đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tích cực rà soát, xem xét trả lời thỏa đáng các kiến nghị của HĐND cấp tỉnh.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, pháp luật, giúp người dân hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, tăng cường vận động nhân dân chấp hành pháp luật và các quy định giải quyết của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Tăng cường kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị trong việc tiếp nhận, trả lời kiến nghị của HĐND, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm.

3.2.3. Giải pháp đối với Đại biểu và Tổ Đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố

Số lượng đại biểu HĐND thành phố sẽ là từ 70 đến 80 đại biểu (không vượt quá 85 đại biểu theo quy định của Trung ương, đồng thời đảm bảo số lượng hợp lý để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của HĐND thành phố). Tăng hợp lý số đại biểu hoạt động chuyên trách, thường xuyên từ 8 đại biểu như hiện nay lên vào khoảng từ 23 – 26 đại biểu HĐND thành phố chuyên trách (chiếm hơn 1/3 tổng số đại biểu). Mỗi quận, huyện có từ 1 đến 3 đại biểu hoạt động chuyên trách nhưng không quá 3 đại biểu.

Cần chủ động hơn nữa để liên hệ, làm việc với chính quyền địa phương, giúp địa phương tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện công tác quản lý nhà nước trên địa bàn; qua đó, báo cáo đề xuất với Thường trực HĐND thành phố xem xét, chỉ đạo, xử lý đối với những vấn đề, lĩnh vực vượt thẩm quyền của Đại biểu, Tổ đại biểu và chính quyền của địa phương đó.

Đại biểu và Tổ đại biểu (nhất là Tổ trưởng) cần duy trì đều đặn sinh hoạt họp Tổ hàng tháng; tùy tình hình thực tế tại địa phương để tổ chức cho các thành viên đi giám sát, nắm tình hình tại đơn vị, cơ sở; tập trung giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri, tham gia đầy đủ các đợt tiếp xúc cử tri và có trách nhiệm đến cùng trong quá trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kiến nghị của cử tri; thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động với Mặt trận huyện, quận, phường, xã ở địa bàn Tổ phụ trách.

Bản thân mỗi người đại biểu cũng cần phát huy cao tinh thần tự học để trau dồi kiến thức chuyên môn, quán triệt kỳ nhiệm vụ đại biểu và vai trò chức năng của HĐND thành phố; nắm được trách nhiệm của UBND thành phố, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố và nhiệm vụ của chính quyền địa phương nơi đại biểu được phân công theo dõi, giám sát.

Bên cạnh đó, cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về quyền và trách nhiệm của đại biểu dân cử, trong đó quyền yêu cầu giải quyết ý kiến, kiến nghị của cử tri, yêu cầu trả lời chất vấn phải được pháp luật bảo hộ bằng những biện pháp xử lý cụ thể đối với những cá nhân, đơn vị không giải quyết hoặc báo cáo kết quả giải quyết đối với những vấn đề đã được đại biểu yêu cầu.

KẾT LUẬN

Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân ; mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây dựng và quản lý nhà nước thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát của HĐND trở thành yêu cầu khách quan và hết sức cấp bách làm cho HĐND thực quyền, là người chủ đích thực và chịu trách nhiệm trước nhân dân, xem xét quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương.

Trước yêu cầu khách quan và tính cấp bách của sự nghiệp đổi mới hiện nay và xuất phát từ tình hình thực tế hoạt động của chính quyền địa phương nói chung và HĐND nói riêng, việc đề ra biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND thành phố Đà Nẵng là hết sức cần thiết. Để không ngừng củng cố hoàn thiện bộ máy Nhà nước ta trong đó có chính quyền địa phương, để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Đó cũng chính là nguyện vọng của nhân dân; là sự kế tục và bảo vệ thành quả cách mạng trong hơn nửa thế kỷ xây dựng chính quyền; là điều kiện tất yếu để đảm bảo thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thời gian qua, hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả rất quan trọng. Vị trí, vai trò của Hội đồng nhân dân thành phố trong hệ thống chính quyền thành phố ngày càng được khẳng định. Nhân dân thành phố Đà Nẵng đặt niềm tin và gửi gắm rất nhiều kỳ vọng vào Hội đồng nhân dân thành phố. Chính điều ấy càng thôi thúc mỗi đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố, đặc biệt là Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố, các Ban Hội đồng nhân dân thành phố và Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND thành phố phải phấn đấu, nỗ lực nhiều hơn nữa, tập trung sức mạnh và trí tuệ tập thể, cố gắng khắc phục khó khăn, vươn lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ trong suốt quá trình thực hiện thí điểm, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Thông qua hoạt động giám sát của HĐND kịp thời phát hiện ra những lỗ hổng của hệ thống pháp luật và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền sửa đổi bổ sung, ban hành mới để bổ khuyết cho những thiếu sót đó; Kịp thời phát hiện ra những sai phạm trong quá trình thực thi Luật pháp và các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành để đưa ra các kiến nghị các biện pháp xử lý phù hợp.

Thực tiễn hoạt động giám sát trong thời điểm hiện nay cũng xuất hiện những vấn đề mới, những nội dung trên đặt ra yêu cầu cần phải rà soát một cách tổng thể để có giải pháp phù hợp nhằm đảm bảo và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND cấp tỉnh. Những giải pháp đó cần tập trung vào các vấn đề sau:

– Quốc hội cần ban hành Luật hoạt động giám sát của HĐND.

– Nghiên cứu ban hành Luật Tổ chức Chính quyền địa phương, sửa đổi bổ sung Quy chế hoạt động của HĐND.

– Đề cao năng lực, trách nhiệm và bản lĩnh của đại biểu HĐND trong hoạt động giám sát. Hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND có đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo cử tri hay không suy cho cùng được quyết định bởi chất lượng giám sát và năng lực hoạt động của từng đại biểu HĐND.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN HOC VIEN HANH CHINH\LUAN VAN (Hoang Nam)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *