Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giám sát thực hiện chính sách công là một trong những chức năng rất quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách công, nó được coi là bước đo lường kết quả và hiệu quả của một chính sách công trong thực tế sau khi đưa chính sách vào thực thi. Thực tiễn trong những năm qua, tỉnh Quảng Nam đã không ngừng đổi mới nội dung, phương thức giám sát chính sách công để nâng cao hiệu lực hiệu quả thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng của tỉnh.

Tuy nhiên, hoạt động giám sát chính sách công của tỉnh Quảng Nam vẫn còn có những hạn chế nhất định. Nội dung giám sát chưa sâu, nhất là ở cấp xã, chưa tập trung vào các vấn đề mang tính bức xúc ở địa phương. Các kết luận giám sát còn sơ sài, chưa chỉ đúng căn nguyên, đúng trọng tâm vấn đề đề cập. Trong thực hiện giám sát vẫn còn có sự nể nang, ngại va chạm nên hiệu lực và hiệu quả giám sát chưa cao. Có những yêu cầu, kiến nghị sau giám sát chậm được khắc phục, một số cơ quan, tổ chức cá nhân giải quyết các yêu cầu, kiến nghị của đoàn giám sát còn chậm hoặc không triển khai, không báo cáo kết quả thực hiện theo luật định. Việc đôn đốc, theo thõi thực hiện kết luận giám sát chưa thường xuyên, thiếu kiên quyết. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu chế tài xử lý vi phạm qua giám sát.

Để hoạt động giám sát chính sách công đem lại hiệu quả trong thời gian đến, thì việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng giám sát thực hiện chính sách công đối với cả nước nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng là thật sự cần thiết. Hiệu quả của hoạt động giám sát phải được phân tích, đánh giá tích cực, đầy đủ và phải có một phương pháp phân tích, đánh giá phù hợp. Tuy nhiên, cho đến nay các cơ quan, đơn vị, các ngành chức năng có trách nhiệm triển khai hoạt động giám sát vẫn chưa tiếp cận được các phương pháp để phân tích, đánh giá một cách chất lượng. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sĩ chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nhằm vận dụng lý luận giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam để soi rọi giữa lý luận và thực tiễn giám sát thực hiện chính sách công ở tỉnh Quảng Nam, tìm ra những bất cập trong hoạt động giám sát thực hiện chính sách công hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công trong những năm tiếp theo.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam.

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng giám sát thực hiện chính sách công từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

Thứ ba, trên cơ sở đánh giá kết quả giám sát thực hiện chính sách công tại tỉnh Quảng Nam hiện nay, đề ra mục tiêu, định hướng, giải pháp để hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công trong thời gian tới.

4. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Giám sát các chính sách công của Nhà nước ta hiện nay đang được thực thi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Đề tài nghiên cứu chủ thể thực hiện giám sát các chính sách công đang thực thi trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu. Nghiên cứu việc giám sát thực hiện chính sách công tại tỉnh Quảng Nam.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cách tiếp cận nghiên cứu

Tiếp cận hệ thống

Tiếp cận đa ngành, liên ngành

Tiếp cận lịch sử

5.2. Câu hỏi nghiên cứu

Những vấn đề lý luận về giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam hiện nay là gì?

Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công ở tỉnh Quảng Nam hiện nay như thế nào? Những kết quả đạt được đã đáp ứng được mục tiêu đề ra hay chưa?

Giải pháp nào đổi mới, hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam?

5.3. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu xã hội liên ngành đa ngành được sử dụng chủ đạo trong đề tài này. Cụ thể là nghiên cứu, xem xét tổng thể thực tiễn giám sát chính sách công của Việt Nam hiện nay.

Ngoài ra, đề tài còn vận dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu của chính quyền, ban, ngành, đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan tới vấn đề giám sát thực hiện chính sách công.

Kết hợp cùng với các phương pháp thống kê, khái quát thực tiễn, phương pháp phân tích định tính, suy luận logic, diễn giải trong quá trình phân tích, đánh giá chính sách. 

6. Ý nghĩa của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu, bổ sung kiến thức lý thuyết về giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam; đồng thời, biết vận dụng các lý thuyết về quy trình phân tích chính sách công, đánh giá chính sách công để đánh giá thực tiễn việc giám sát thực hiện chính sách công ở địa phương.

Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết phân tích chính sách công, đánh giá chính sách công là cần thiết trong quá trình nghiên cứu thực tiễn giám sát thực hiện chính sách công, từ đó góp phần hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công ở nước ta.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài, trước hết là góp phần nâng cao nhận thức đối với các đồng chí lãnh đạo chính quyền, các hội, đoàn thể các cấp từ tỉnh, huyện đến cơ sở hiểu rõ hơn về lý luận giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả việc giám sát thực hiện chính sách công tại tỉnh Quảng Nam, từ đó định hướng góp phần hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công, nâng cao hiệu quả chất lượng hoạt động giám sát ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

Kết quả nghiên cứu đưa ra các giải pháp thực hiện phù hợp hơn, việc giám sát thực hiện chính sách công đem lại hiệu quả thiết thực, giúp các cơ quan, đơn vị thực hiện tốt chức năng giám sát của mình để các chính sách đã ban hành được thực thi hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng giám sát thực hiện chính sách công từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm giám sát thực hiện chính sách công

1.1.1. Mục tiêu của việc giám sát thực hiện chính sách công Mục tiêu của giám sát chính sách công là đảm bảo chính sách công được thực hiện có hiệu quả, mang lại hiệu suất cao, đảm bảo tính công bằng, bình đẳng cho mọi người trong xã hội, đúng đối tượng, đúng nguyên tắc và đem lại lợi ích chính đáng cho nhân dân.

1.1.2. Khái niệm giám sát thực hiện chính sách công. Giám sát thực hiện chính sách công là hoạt động kiểm tra sự phù hợp, hiệu quả và tác động của chính sách bởi các tiêu chí cụ thể nhằm cải thiện việc xây dựng và thực hiện chính sách để giải quyết các vấn đề kinh tế – xã hội. Giám sát thực hiện chính sách công là các quy định, luật, nguyên tắc, thông lệ mà một nhóm hoặc tổ chức sử dụng để mà thực hiện các quyết định và hành động liên quan đến giám sát (TS. Đỗ Phú Hải, 2014)

1.1.3. Chức năng và chủ thể của việc giám sát thực hiện chính sách công

1.1.3.1. Giám sát sự tuân thủ pháp luật: Đối với chức năng này, chủ thể giám sát là Quốc hội và HĐND các cấp.

Nội dung giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp rất rộng lớn, đa dạng trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng vv, nhưng dù trên lĩnh vực nào thì hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp cũng gồm ba nội dung cơ bản, đó là: giám sát việc tuân thủ pháp luật, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và giám sát việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

1.1.3.2. Giám sát sự phù hợp của chính sách: Đối với chức năng này, chủ thể giám sát là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội từ Trung ương đến cơ sở..

Để có thể đi vào cuộc sống, chính sách công được thể chế hóa thành các quy định của pháp luật. Do đó, việc nhìn nhận và đánh giá chính sách thường gắn với sự đánh giá những quy định của pháp luật này có phù hợp với những yêu cầu của cuộc sống hay không và chúng được vận hành như thế nào trên thực tế, chính sách có mang tính xã hội, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, có phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, phong tục tập quán của địa phương hay không.

1.1.3.3. Giám sát thực hiện chính sách (giám sát thực hiện các giải pháp, công cụ chính sách công). Đối với chức năng này, chủ thể giám sát là Chính phủ, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp và các Bộ, ngành.

Chính phủ tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước và theo dõi, giám sát việc thực thi chính sách công của cấp dưới.

Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công; tổ chức thi hành và theo dõi việc thi hành pháp luật liên quan đến ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc.

Khi đưa một chính sách vào thực thi, Chính phủ, UBND các cấp, các Bộ, ngành giám sát việc thực hiện thông qua việc ghi chép, cập nhật chỉ số chính sách, thu thập thông tin; trên cơ sở đó đánh giá chính sách có đạt hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đề ra hay không. Giám sát việc thực hiện chính sách công là giám sát từ khâu tuyên truyền chính sách đến phương thức, hình thức tổ chức thực hiện cụ thể, kết quả đạt được so với yêu cầu, mục tiêu chính sách.

1.1.3.4. Giám sát kết quả thực hiện chính sách công (hay là giám sát giải thích về kết quả, hiệu quả chính sách công). Đối với chức năng này, chủ thể giám sát là Quốc hội, HĐND các cấp và khu vực xã hội; trong một số trường hợp Đảng chính trị tham gia giám sát.

Sau một thời gian khi chính sách công được đưa vào thực thi, dựa trên các báo cáo và theo dõi những tác động trên các lĩnh vực mà chính sách mang lại, các nhà hoạch định chính sách sẽ đánh giá được kết quả, hiệu suất của chính sách đó. Đây sẽ là cơ sở để đưa ra các giải pháp, công cụ chính sách phù hợp nhằm từng bước hoàn thiện các chính sách đã ban hành. Qua đó, Quốc hội, HĐND các cấp, cộng đồng xã hội và nhân dân sẽ giám sát việc thực hiện các giải pháp, công cụ chính sách công đó có phù hợp với thực tiễn, có đúng quy định không để đề xuất, kiến nghị các nhà hoạch định chính sách đưa ra giải pháp khác phù hợp hơn.

Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có thể thực hiện chức năng giám sát thực hiện các giải pháp, công cụ chính sách công thông qua việc chất vấn Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các thành viên khác của Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân về các giải pháp, công cụ chính sách công.

Đảng chính trị giám sát kết quả, tác động chính sách do đảng đã hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện. Hiện nay các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng đều được yêu cầu lãnh đạo việc thực hiện và giám sát kết quả của các chính sách đã được hoạch định này.

1.1.4. Đặc điểm của việc giám sát thực hiện chính sách công

Giám sát thực hiện chính sách công với mục đích xem xét chính sách đã ban hành có phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, phong tục tập quán của nhân dân địa phương hay không.

Để thực hiện tốt hoạt động giám sát chính sách công thì phải xác định khía cạnh vấn đề chính sách đo lường cái gì.

Xây dựng bộ chỉ số đo lường trên từng phương diện của vấn đề chính sách, chỉ số đo lường mục tiêu dự kiến của chính sách.

Việc xác định nguyên nhân và bộ chỉ số đo lường nguyên nhân vấn đề chính sách công cũng là vấn đề rất cần thiết.

Xây dựng hệ thống thông tin giám sát (bảng ghi, tần suất ghi, báo cáo), giao trách nhiệm cho các chủ thể chính sách.

Xác định chỉ số kết quả thực hiện chính sách có đạt không?

Xác định năng lực của chính sách công.

1.1.5. Các hình thức giám sát thực hiện chính sách công

1.1.5.1. Giám sát theo Đoàn

Chủ thể thực hiện hình thức giám sát theo Đoàn là cơ quan quyền lực, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội.

1.1.5.2. Giám sát thường xuyên

Chủ thể thực hiện hình thức giám sát thường xuyên là cơ quan hành chính, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức hội đặc thù, cộng đồng xã hội và người dân.

1.1.5.3. Giám sát chuyên đề:

Chủ thể thực hiện hình thức giám sát chuyên đề là cơ quan quyền lực, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội.

Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị có thể giám sát qua ý kiến trao đổi, phản ánh tại các cuộc họp, các buổi sinh hoạt, hội thảo, hội nghị, kiến nghị, báo cáo kết quả thanh tra, kiểm tra, giám sát của các tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội, phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng và xem xét đơn tố cáo, khiếu nại của quần chúng nhân dân. Chủ thể thực hiện hình thức giám sát này là cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và khu vực xã hội.

1.1.6. Vai trò của cơ quan truyền thông trong việc giám sát thực hiện chính sách công

Giám sát xã hội của cơ quan truyền thông trong quá trình thực hiện chính sách công là kịp thời phát hiện những nơi làm đúng, làm hay để biểu dương, khích lệ và tổng kết thực tiễn; đồng thời cũng sớm phát hiện những “khiếm khuyết” của các kiến tạo chính sách – thể chế, qua đó nâng cao chất lượng quản trị của bộ máy nhà nước. Đây là một trong những chức năng cơ bản của cơ quan truyền thông. Những năm qua, cơ quan truyền thông đã chủ động tham gia giám sát xã hội, đóng góp tích cực vào việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các luận điệu thù địch, sai trái, phòng chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội đang làm cản trở sự phát triển của đất nước. Trong vai trò giám sát của mình, cơ quan truyền thông không chỉ thông tin mà còn thể hiện chính kiến, quan điểm đối với các vấn đề của thực tiễn đời sống xã hội.

Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1.2. Giám sát thực hiện chính sách công ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Giám sát của cơ quan hành chính

Là giám sát nội bộ do Chính phủ, UBND các cấp, các Bộ ngành hoặc cơ quan có thẩm quyền riêng ban hành chính sách công tiến hành, gồm:

– Giám sát việc thực hiện chính sách công

– Giám sát kết quả việc thực hiện chính sách công

– Giám sát hiệu quả việc thực hiện chính sách công

– Giám sát hiệu suất việc thực hiện chính sách công

– Giám sát công tác quản lý thực hiện chính sách công

1.2.2. Giám sát của cơ quan quyền lực (Đây là hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp)

1.2.2.1. Giám sát của Quốc hội

a. Hoạt động giám sát của Quốc hội: Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:

– Xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

– Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

– Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

– Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.

b. Hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:

– Xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;

– Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

– Xem xét việc trả lời chất vấn của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;

– Xem xét báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

– Xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;

– Tổ chức Đoàn giám sát.

c. Hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội: Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau:

– Thẩm tra báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách hoặc theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;

– Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị – xã hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên;

– Trong trường hợp cần thiết, yêu cầu Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách;

– Tổ chức Đoàn giám sát;

– Cử thành viên đến cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề mà Hội đồng, Uỷ ban quan tâm;

– Tổ chức nghiên cứu, xử lý và xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

d. Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội: Đại biểu Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau:

– Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

– Giám sát văn bản quy phạm pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương;

– Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.

– Đại biểu Quốc hội tự mình tiến hành hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội; tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.

e. Hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội: Đoàn đại biểu Quốc hội giám sát thông qua các hoạt động sau:

– Tổ chức Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;

– Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân mà đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết;

– Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân ở địa phương trả lời về những vấn đề mà Đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm;

– Cử đại biểu Quốc hội trong Đoàn tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.

1.2.2.2. Giám sát của HĐND các cấp: Tương tự như giám sát của Quốc hội, ở địa phương có giám sát của HĐND các cấp, gồm: giám sát của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân.

1.2.3. Giám sát của Viện kiểm sát nhân dân

Viện kiểm sát nhân dân giám sát tính pháp lý của chính sách công cũng như sự hợp hiến và quyền con người; giám sát để xem xét chính sách có phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành không? Giám sát, đánh giá xem xét chính sách công có vi phạm các nguyên tắc của một xã hội dân chủ.

Giám sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, hoạt động của Viện kiểm sát còn nhiều hạn chế trong giám sát thực hiện chính sách công ở nước ta.

1.2.4. Giám sát của UBMTTQVN và các tổ chức chính trị xã hội

Giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) của cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội tiếp thu ý kiến phản ảnh của các thành viên, đoàn viên, hội viên, ý kiến của nhân dân, ý kiến của các chuyên gia và tổ chức khảo sát thực tế để có cơ sở kiến nghị với cơ quan Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền cùng cấp.

Giám sát thông qua việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ ở cơ sở, hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng.

Giám sát thông qua nghiên cứu văn bản, tài liệu, báo cáo của các cơ quan, tổ chức; đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của các tổ chức, cá nhân gửi Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội và qua phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng.

1.2.5. Giám sát của khu vực xã hội

Giám sát của khu vực xã hội chính là giám sát của nhân dân; nhân dân giám sát việc thực hiện chính sách của nhà nước, giám sát hoạt động của nhà nước, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước. Trước khi ban hành chính sách, các nhà hoạch định chính sách cần phải lấy ý kiến góp ý xây dựng chính sách của nhân dân. Trong quá trình thực thi chính sách, các nhà hoạch định chính sách cần phải xem xét sự đồng thuận của nhân dân đối với chính sách ban hành như thế nào để đưa ra các pháp sửa đổi phù hợp.

Chức năng giám sát của nhân dân còn thể hiện ở quy định: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Ngoài ra, giám sát của khu vực xã hội còn được thể hiện thông qua công tác giám sát, đánh giá đầu tư các công trình, dự án tại địa phương.

Chương 2

THỰC TRẠNG GIÁM SÁT THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

2.1. Thực trạng thực hiện giám sát chính sách công của cơ quan hành chính

2.1.1. Giám sát thực hiện chính sách xây dựng Nông thôn mới của UBND tỉnh Quảng Nam

Trong quá trình triển khai thực hiện, UBND tỉnh thường xuyên theo dõi, giám sát việc thực hiện (qua báo cáo, thu thập thông tin, giám sát trực tiếp), kịp thời phát hiện những sai sót để khắc phục và thực hiện tốt hơn trong thời gian đến. Quá trình giám sát được thực hiện cụ thể như sau:

2.1.1.1. Xây dựng bộ chỉ số đo lường: UBND tỉnh đã xây dựng bộ chỉ số đo lường để giám sát chính sách xây dựng Nông thôn mới, gồm:

– Công tác chỉ đạo, điều hành quản lý Chương trình

– Công tác thi đua, tuyên truyền, vận động

– Công tác đào tạo, tập huấn

– Công tác lập quy hoạch, đề án xây dựng nông thôn mới

– Thực hiện việc phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân

– Thực hiện việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội nông thôn

– Giáo dục, y tế, văn hóa – xã hội – môi trường:

– Hệ thống tổ chức chính trị xã hội và an ninh, trật tự xã hội

– Kết quả huy động các nguồn lực, giai đoạn 2011-2014.

2.1.1.2. Sau khi xây dựng bộ chỉ số đo lường, UBND tỉnh, các Sở, ngành của tỉnh đã thành lập Đoàn giám sát (gồm các cơ quan, đơn vị liên quan như: Thường trực UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn, Kế hoạch & Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Giáo dục & Đào tạo, Y tế…), lập kế hoạch, đề cương giám sát, gửi đối tượng được giám sát trước 10 ngày để chuẩn bị nội dung. Sau đó, Đoàn giám sát tổ chức giám sát, thu thập thông tin về kết quả thực hiện chính sách theo bộ chỉ số đo lường.

2.1.2. Giám sát thực hiện chính sách giảm nghèo của UBND tỉnh Quảng Nam

Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo, UBND tỉnh thường xuyên theo dõi, giám sát việc thực hiện (qua báo cáo, thu thập thông tin, giám sát trực tiếp), kịp thời phát hiện những sai sót để khắc phục và thực hiện tốt hơn trong thời gian đến. Quá trình giám sát được thực hiện cụ thể như sau:

2.1.2.1. Xây dựng bộ chỉ số đo lường: UBND tỉnh đã xây dựng bộ chỉ số đo lượng để giám sát chính sách giảm nghèo, gồm:

– Tỷ lệ đói nghèo, nguyên nhân dẫn đến đói nghèo.

– Công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành.

– Huy động nguồn vốn và phân bổ vốn ngân sách thực hiện chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo.

– Thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo.

– Tác động của các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo.

2.1.2.2. Sau khi xây dựng bộ chỉ số đo lường, UBND tỉnh, các Sở, ngành của tỉnh đã thành lập Đoàn giám sát (gồm các cơ quan, đơn vị liên quan như: Thường trực UBND tỉnh, Sở Lao động – Thương binh & Xã hội, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giáo dục & Đào tạo, Y tế, Tài nguyên & Môi trường…), lập kế hoạch, đề cương giám sát, gửi đối tượng được giám sát trước 10 ngày để chuẩn bị nội dung. Sau đó, Đoàn giám sát tổ chức giám sát, thu thập thông tin về kết quả thực hiện chính sách chính sách theo bộ chỉ số đo lường.

Ngoài ra, UBND tỉnh còn thực hiện chức năng giám sát chính sách của mình thông qua việc phỏng vấn cán bộ công chức trực tiếp tham mưu thực hiện chính sách xây dựng Nông thôn mới và chính sách giảm nghèo về những kết quả đạt được, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách; phỏng vấn sự hài lòng của các đối tượng có liên quan đến chính sách, UBND tỉnh cũng đã thực hiện chức năng giám sát chính sách thông qua ý kiến trao đổi, phản ánh tại các cuộc họp, các buổi sinh hoạt, hội thảo, hội nghị, tiếp xúc cử tri, phản ánh của các phương tiện thông tin đại chúng và xem xét đơn tố cáo, khiếu nại của quần chúng nhân dân.

2.2. Thực trạng thực hiện giám sát chính sách công của cơ quan quyền lực

2.2.1. Kết quả việc giám sát chính sách công của Hội đồng nhân dân các cấp

Thực hiện Chương trình hoạt động của HĐND, hằng năm Thường trực HĐND các cấp đã xây dựng Kế hoạch giám sát, phối hợp với UBMTTQVN và các cơ quan, ban, ngành liên quan thành lập các Đoàn, tổ chức các cuộc giám sát theo đúng quy định.

Ngoài các cuộc giám sát chuyên đề theo kế hoạch, Thường trực HĐND các cấp còn tiến hành giám sát trên một số lĩnh vực bức xúc, nổi cộm khác; đồng thời Thường trực HĐND các cấp còn thực hiện chức năng giám sát thông qua các báo cáo, ý kiến chất vấn của đại biểu HĐND và trả lời chất vấn của các cơ quan, ban, ngành liên quan về tình hình thực hiện nhiệm vụ KT-XH, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại các kỳ họp HĐND; thông qua các cuộc họp do UBND cùng cấp hoặc các cơ quan liên quan mời và thông qua hoạt động độc lập của mỗi cá nhân.

2.3. Thực trạng thực hiện giám sát chính sách công của UBMTTQVN và các tổ chức chính trị xã hội

Thực tế những năm qua, MTTQ và các đoàn thể các cấp tỉnh Quảng Nam luôn chủ động thực hiện vai trò giám sát thông qua việc tham gia với Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực HĐND, các ban của HĐND các cấp giám sát việc chấp hành và thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội; tham gia việc tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán, Kiểm sát viên; giám sát công tác xét đặc xá. Động viên nhân dân thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động Ban Thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng ở xã, phường, thị trấn; tổng hợp kiến nghị của nhân dân để phản ánh cho các cơ quan có thẩm quyền xem xét xử lý. Tổ chức lấy phiếu tín nhiệm các chức vụ chủ chốt cấp xã và trưởng thôn. Giám sát công tác bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp; tổ chức các đoàn giám sát việc chấp hành thực hiện pháp luật ở một số cơ quan, đơn vị; việc giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân.

Đối với các tổ chức chính trị xã hội, thời gian qua, các cấp Hội của tỉnh Quảng Nam đã tích cực tham gia công tác giám sát thông qua việc cử cán bộ, hội viên có trình độ, có trách nhiệm tham gia vào Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát cộng đồng. Đồng thời, các cấp Hội đã tích cực, chủ động và thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát đại biểu dân cử trong việc thực hiện trách nhiệm của người đại biểu dân cử; giám sát việc tham gia các hội nghị tiếp xúc cử tri và thực hiện trách nhiệm giữ mối liên hệ với cử tri của các đại biểu; giám sát việc tham dự các kỳ họp và trách nhiệm của đại biểu dân cử trong việc tham gia xây dựng và ban hành các nghị quyết, quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước ở Trung ương và địa phương; giám sát về đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật của đại biểu dân cử…

2.4. Thực trạng thực hiện giám sát chính sách công của khu vực xã hội

2.4.1. Giám sát của nhân dân thông qua quy chế dân chủ cơ sở

Thời gian qua, tỉnh Quảng Nam rất quan tâm chỉ đạo triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở, cụ thể.

– Tổ chức tuyên truyền để nhân dân nắm được các thông tin về pháp luật, về chính sách của Nhà nước.

– Tổ chức để nhân dân thảo luận và quyết định những loại công việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn dân cư.

– Tổ chức để nhân dân thảo luận, tham gia vào các chủ chương, chính sách, nhiệm vụ chuyên môn của chính quyền trước khi HĐND, UBND ra quyết định.

2.4.2. Giám sát đầu tư công của cộng đồng

Thời gian qua, Uỷ ban MTTQ và các ngành chức năng thuộc UBND các cấp đã triển khai, chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các địa phương thực hiện Quyết định số 80/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Ban Giám sát đầu tư của cộng đồng ở xã, phường, thị trấn được thành lập và bước đầu hoạt động có hiệu quả đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trên địa bàn tỉnh.

Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Giám sát thực hiện chính sách từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC GIÁM SÁT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG

3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công

3.1.1. Quan điểm thực hiện giám sát chính sách công

Phải phù hợp với quá trình chuyển đổi, quá trình hội nhập, quá trình cải cách hành chính, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và năng lực tài chính của chủ thể giám sát.

Phải xuất phát từ quan điểm giai cấp, trên cơ sở am hiểu và vận dụng đường lối chính trị của Đảng, vì quyền lợi của nhân dân lao động, vì lợi ích chung và lâu dài của dân tộc.

Phải đảm bảo mục tiêu chính sách công đã ban hành; phải có cơ chế và chế tài thực thi và quy định rõ ràng tổ chức, đơn vị chịu trách nhiệm thực thi.

Phải biết phân tích, nhìn nhận và ủng hộ những chính sách do Nhà nước ban hành; đấu tranh với những biểu hiện sai trái, không thực hiện chính sách của Nhà nước vì những lợi ích cá nhân, cục bộ.

Giám sát chính sách công phải đảm bảo tính hữu dụng, thiết thực, tức là phải có mục đích, mục tiêu và hiệu quả thực tế. Việc giám sát chính sách công phải được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đúng quy định. Thông qua giám sát chính sách công phải rút ra những thông tin hữu ích, kết luận giám sát phải hết sức khách quan, có căn cứ khoa học và thực tiễn, sát đúng tình hình, phải đánh giá chính xác kết quả, hiệu quả của chính sách mang lại; tránh trường hợp ngại va chạm, nể nang, đánh giá không sát đúng với thực tế, giúp cho các nhà chính sách trong quá trình vận hành, quản lý, bổ sung, hoàn thiện chính sách, không ngừng nâng cao chất lượng của chính sách và hiệu quả quản lý nhà nước.

3.1.2. Định hướng thực hiện giám sát chính sách công

Đổi mới quy trình hoạch định chính sách công theo hướng dân chủ, huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào giám sát chính sách. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng khoa học, có hiệu quả kinh tế – xã hội cao; tăng cường chức năng giám sát chính sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài tới lợi ích chung của toàn xã hội nhằm đảm bảo các chính sách đã ban hành đem lại hiệu quả, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội.

Nâng cao tính kịp thời, đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả của quá trình tổ chức giám sát chính sách công. Đề cao vai trò của hoạt động phân tích, giám sát chính sách công như là một điều kiện tối quan trọng để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình hoạch định và thực thi chính sách. Có cơ chế ràng buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên cứu, phân tích, giám sát chính sách công.

Coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về hoạch định, thực thi, giám sát chính sách công theo hướng thường xuyên, thiết thực; tránh phô trương, hình thức, lãng phí để rút kinh nghiệm cần thiết, bổ ích cho các hoạt động đó. 

Xây dựng lộ trình giám sát chính sách công, quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của chủ thể giám sát, nguồn lực để thực hiện công tác giám sát. Cải thiện hệ thống cung cấp thông tin, sự phối hợp của các cơ quan liên quan, chế tài trong hoạt động giám sát chính sách.

3.2. Các giải pháp hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công

Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về tầm quan trọng của việc giám sát thực hiện chính sách công; đưa việc giám sát thực hiện chính sách thành một nội dung bắt buộc đối với một số chính sách quan trọng của Nhà nước.

Hai là, xây dựng các tiêu chí giám sát chính sách một cách đầy đủ và đúng đắn. Tùy theo từng lĩnh vực, sẽ có các tiêu chí giám sát chính sách khác nhau.

Ba là, quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy được các bất cập trong hoạch định và quá trình thực thi chính sách.

Bốn là, dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc giám sát thực hiện chính sách.

Năm là, mở rộng và phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp ở Việt Nam:

Sáu là, cần quan tâm làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ có tâm, có tầm làm công tác giám sát. Chú trọng cán bộ trẻ, có năng lực, trình độ cả về chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị.

Bảy là, các cấp ủy đảng và chính quyền cần có thái độ thực sự cầu thị trong việc lắng nghe ý kiến góp ý của Mặt trận và các đoàn thể.

Tám là, tăng cường theo dõi, đôn đốc các đơn vị thực hiện tốt các kết luận kiến nghị sau giám sát; có chế tài xử lý nghiêm những cơ quan, đơn vị không thực hiện kết luận sau giám sát.

KẾT LUẬN

Trong một xã hội đang phát triển theo xu hướng dân chủ hóa, việc giám sát các chính sách công có vai trò, chức năng rất quan trọng, ngày càng trở thành đòi hỏi chính đáng và cấp thiết. Với chức năng giám sát sự tuân thủ pháp luật, giám sát sự phù hợp của chính sách, giám sát thực hiện chính sách (giám sát thực hiện các giải pháp, công cụ chính sách công); giám sát kết quả thực hiện chính sách (giải thích về kết quả, hiệu quả của chính sách) của các chủ thể tham gia giám sát là cơ quan quyền lực, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội, Chính phủ, UBND các cấp, các Bộ, ngành và khu vực xã hội sẽ giúp Nhà nước kiểm soát được các chính sách đã ban hành, xác định được các bất cập trong đời sống kinh tế – xã hội và tìm cách khắc phục các bất cập đó.

Qua giám sát chính sách cho phép Nhà nước nhìn nhận lại năng lực thể chế và năng lực thực thi chính sách của mình. Trong một môi trường không ngừng biến đổi, việc đánh giá, giám sát các chính sách công sẽ tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển quản lý nhà nước trong giai đoạn tiếp theo, hướng đến một Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, trong thời gian đến việc thực hiện các giải pháp để hoàn thiện việc giám sát thực hiện chính sách công sẽ là một nhiệm vụ rất cần thiết, quan trọng, đòi hỏi sự vào cuộc của các ngành, các cấp và sự hưởng ứng tích cực của các tầng lớp nhân dân.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CHINH SACH CONG\VO THI KIM VAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *