ĐẤU THẦU VIỆC CUNG CẤP LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY

ĐẤU THẦU ĐỐI VỚI VIỆC CUNG CẤP, LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

ĐẤU THẦU ĐỐI VỚI VIỆC CUNG CẤP, LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1.Tính cấp thiết của đề tài

Hôn nhân được hiểu là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Quan hệ giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân không chỉ là quan hệ về nhân thân, quan hệ về con chung mà còn quan hệ về tài sản. Trong thời kỳ hôn nhân khi tình cảm vợ chồng còn mặn nồng thì lợi ích riêng tư về tài sản của vợ hay của chồng ít được quan tâm, chú ý đến. Khi đời sống hôn nhân không còn hạnh phúc, tình cảm vợ chồng rạn nứt, hôn nhân đổ vỡ, vợ chồng không thỏa thuận được tài sản riêng và tài sản chung dẫn đến tranh chấp thì việc vận dụng những quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng là điều cần thiết, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Hiện nay vấn đề tranh chấp tài sản khi ly hôn ngày càng tăng về số lượng, phức tạp về nội dung. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu các quy định của pháp luật HN&GĐ về giải quyết vấn đề tranh chấp tài sản hết sức quan trọng nhằm giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện những vấn đề bất cập, trên cơ sở đó có giải pháp hoàn thiện pháp luật về tranh chấp tài sản của vợ chồng làm cho pháp luật luôn là một công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ trật tự xã hội nói chung cũng như bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên khi ly hôn. Đây cũng là lý do học viên chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ luật học.

  1. Tình hình nghiên cứu đề tài
  2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích của luận văn

Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật về việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn; đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định. Từ đó, tìm hiểu những điểm bất cập, vướng mắc, quan điểm áp dụng pháp luật chưa thống nhất trên cơ sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xét xử của tòa án về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

3.2. Nhiệm vụ của Luận văn

Luận văn có một số nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án.

Thứ hai, nghiên cứu các căn cứ pháp lý xác định tài sản tranh chấp khi ly hôn và các nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật.

Thứ ba, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật khi xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định qua một số vụ án cụ thể, từ đó tìm hiểu các vướng mắc, bất cập còn tồn tại và đề xuất hướng hoàn thiện.

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng ly hôn có phạm vi rất rộng, vì lẽ đó, đề tài này không nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn có yếu tố nước ngoài mà chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn đối với quan hệ hôn nhân trong nước theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại Toà án nhân dân tỉnh Bình Định, thời gian từ năm 2010 đến năm 2014.

  1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề giải quyết án Hôn nhân gia đình có tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp dựa trên các báo cáo, thống kê; phân tích các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2010-2014.

6. Những đóng góp về khoa học của luận văn

Với mong muốn đầu tiên là trang bị thêm kiến thức chuyên sâu cho bản thân và sau đó là góp phần vào việc hoàn thiện những quy định về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ky hôn, luận văn đã chỉ ra được những vướng mắc mà thực tế áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn, đồng thời tác giả cũng mong muốn rằng những thực trạng và kiến nghị hoàn thiện mà tác giả đưa ra trong đề tài sẽ có tác dụng đóng góp ý kiến vào quá trình xem xét, hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

7. Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật của việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn

Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN

1.1. Cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1.1.1. Khái quát chung về tài sản

Tại Điều 163 BLDS 2005 quy định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.

1.1.2. Tài sản chung của vợ chồng

Theo Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động …”.

1.1.3. Tranh chấp tài sản của vợ chồng

Theo Từ điển tiếng Việt thì tranh chấp nói chung được hiểu là: “Tranh giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên nào”. Thông thường tranh chấp tài sản của vợ chồng diễn ra các trường hợp: Tranh chấp về xác định tài sản thuộc sở hữu chung, tranh chấp về việc phân chia hiện vật, tranh chấp về việc định giá nhà đất không đúng và chỉ phân chia hiện vật cho một bên, tranh chấp về việc thực hiện các nghĩa vụ tài sản trong thời kỳ hôn nhân.

1.1.4. Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng

Giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn là tổng hợp các hành vi tố tụng của Tòa án, đương sự và các chủ thể khác theo trình tự, thủ tục do luật định được tính từ giai đoạn đương sự có đơn gửi đến Tòa án, Tòa án tiếp nhận đơn của đương sự cho đến các bước tố tụng khác như: Hòa giải, thu nhập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật về việc xác định tài sản chung và các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn nhằm đảm bảo sự công bằng, hợp tình, hợp lý, cho vợ, chồng khi họ không thỏa thuận được việc phân chia tài sản chung.

1.1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn

Đảm bảo quyền lợi của các bên vợ, chồng đối với khối tài sản chung, đồng thời quyền lợi chính đáng của người thứ ba tham gia quan hệ tài sản với vợ chồng cũng được đảm bảo, ngăn ngừa các hậu quả xấu do tranh chấp gây ra; đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng của vợ, chồng, đặc biệt quyền lợi của phụ nữ, con chưa thành niên, con đã thành niên bị mất năng lực hành vi dân sự; thông qua giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn, người thứ ba trong giao dịch tài sản với vợ chồng có quyền yêu cầu hoặc Tòa án xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết phần tài sản liên quan đến họ sẽ tiết kiệm được thời gian, công sức, tiền bạc… của các bên đương sự cũng như người thực hiện pháp luật, tránh được các khiếu nại kéo dài

1.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn

1.2.1. Pháp luật về nội dung

Để giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn Tòa án căn cứ vào các quy định của BLDS về việc xác lập quyền sở hữu đối với khối tài sản đem ra phân chia và một số nguyên tắc cơ bản định hướng cho việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Nguyên tắc chia đôi tài sản chung của vợ chồng, nguyên tắc chia tài sản bằng hiện vật hoặc bằng giá trị, nguyên tắc phân chia tài sản riêng của vợ, chồng khi đã xác lập vào tài sản chung, nguyên tắc đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động, nguyên tắc chia tài sản chung trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nguyên tắc chia QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn, nguyên tắc về quyền lưu cư của vợ hoặc chồng khi ly hôn, nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng đưa vào kinh doanh.

1.2.2. Pháp luật về tố tụng

Pháp luật tố tụng quy định quyền hạn, nhiệm vụ, thẩm quyền và trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

1.2.3. Cơ chế áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

Giải quyết án ly hôn có tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn Tòa án áp dụng các cơ chế như sau: Phân tích những tình tiết khách quan của vụ án và các đặc trưng pháp lý của vụ án, lựa chọn các quy định pháp luật tương ứng để giải quyết vụ án, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của quy phạm pháp luật HN&GĐ hiện hành và các quy phạm pháp luật có liên quan khi đưa ra áp dụng đối với vụ án ly hôn có tranh chấp tài sản, Tòa án quyết định giải quyết vụ án hoặc ra bản án.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp tài sản chung khi vợ chồng ly hôn tại Tòa án

1.3.1. Tính thống nhất đồng bộ của hệ thống pháp luật

Pháp luật thực thi vào đời sống đòi hỏi pháp luật phải có tính thống nhất, đồng bộ cụ thể để Tòa án giải quyết được vấn đề tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn đòi hỏi giữa Luật HN&GĐ hiện hành và Luật Đất đai, Bộ luật dân sự, … phải có tính thống nhất, đồng bộ không có sự mâu thuẫn, chồng chéo với nhau và phải phù hợp với quy định của Hiến pháp.

1.3.2. Ý thức pháp luật của người dân

Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, là tiền đề tư tưởng trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật; là cơ sở hình thành văn hoá pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo cho chủ thể có khả năng và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh pháp luật để bảo vệ lợi ích cho bản thân mình, cho nhà nước và cho xã hội, xử sự đúng đắn, phù hợp trong các mối quan hệ xã hội.

1.3.3. Sự phát triển kinh tế – xã hội

Thực tế cho thấy phát triển kinh tế, xã hội con người được mở rộng kiến thức và hiểu biết hơn, có điều kiện để phát triển kinh tế, giao lưu hội nhập với các nền văn hóa tiên tiến, văn minh của các nước. Chính vì vậy con người có khả năng phát triển toàn diện hơn, nhưng đồng thời cũng không tránh khỏi nhiều tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường. Những tiến bộ về kinh tế, xã hội có thể làm tăng mức sống, nhưng ảnh hưởng đến tình cảm vợ chồng. Do vợ, chồng dành nhiều thời gian làm kinh tế, sự quan tâm đến nhau cũng như quỹ thời gian dành cho gia đình bị hạn chế; vợ, chồng ít có điều kiện để chăm sóc lẫn nhau, làm cho tình cảm giữa vợ, chồng phần nào mờ nhạt đi dẫn đến tình trạng vợ chồng ly hôn ngày càng tăng.

1.3.4. Trình độ nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của Thẩm phán

Thực trạng đội ngũ Thẩm phán hiện nay vẫn còn hạn chế về trình độ nghiệp vụ. Thể hiện ở chỗ án bị hủy, sửa, oan sai vẫn còn, Thẩm phán chưa được tái bổ nhiệm, thậm chí có những Thẩm phán còn bị truy tố trước pháp luật

1.4. Quy định của pháp luật về vấn đề tài sản và giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng qua các thời kỳ

Thời Văn Lang – Âu Lạc chưa có quy định của lệ làng, luật tục, tập quán chính trị quy định giải quyết tranh chấp tài sản giữa vợ chồng. Đến thời kỳ Bắc thuộc pháp luật chưa quy định giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng. Đến thời kỳ phong kiến nước ta có hai bộ luật đó là Bộ luật Hồng Đức nhà Lê và Bộ luật Hoàng Việt Luật Lệ nhà Nguyễn cả hai bộ luật này đều chưa quy định về vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn mà chỉ quy định về vấn đề thừa kế. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, mô hình gia đình Việt Nam có những thay đổi sâu sắc. Ðại gia đình, biểu tượng của chế độ phong kiến, bị loại ra khỏi luật viết; thay vào đó là mô hình gia đình hộ gồm có vợ chồng và các con. Mô hình gia đình hộ được chính thức thừa nhận tại Luật NH&GĐ năm 1959.

1.4.1. Pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

Luật gồm 35 điều. Trong đó, việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn ở thời kỳ này chỉ đề cập đến tài sản chung mà không xét đến tài sản riêng. Cụ thể, tại Điều 29

1.4.2. Pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 1986

Luật HN&GĐ năm 1986 đã có quy định về tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân; bổ sung quy định về chia tài sản chung trong trường hợp sống chung với gia đình mà ly hôn; quy định cụ thể hơn một nguyên tắc phải “bảo vệ quyền lợi của người vợ, và của người con chưa thành niên, bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp”.

Tuy nhiên, Luật HN&GĐ năm 1986 chỉ quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi của con chưa thành niên còn con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình chưa được đề cập đến. Quy định chia đôi tài sản không rõ. Trường hợp sống chung với gia đình mà ly hôn cũng là một trường hợp phức tạp nhưng chỉ được Luật đề cập như là một nguyên tắc giải quyết. Một tài sản khác gây khó khăn trong việc áp dụng luật để giải quyết mà Luật HN&GĐ năm 1986 chưa đề cập đó là quyền sử dụng đất.

1.4.3. Pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Trước hết, Luật HN&GĐ năm 2000 đã bổ sung cho hoàn thiện nguyên tắc “bảo vệ quyền lợi của vợ và con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự”, được quy định cụ thể tại điểm c khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ. Bên cạnh đó, Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch”. Như vậy, mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo giá trị sử dụng của tài sản sau khi chia.

Luật HN&GĐ năm 2000 quy định rõ việc chia tài sản chung là nhà ở, quyền sử dụng đất. Đặc biệt là bổ sung thêm trường hợp giải quyết quyền lợi của vợ, chồng khi ly hôn trong trường hợp nhà thuộc sở hữu riêng của một bên. Ngoài ra, trường hợp chia tài sản khi ly hôn trong trường hợp sống chung với gia đình cũng được cụ thể hóa tại điều luật riêng Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2000.

Tuy nhiên, dù đã dự liệu nhiều trường hợp nhưng vẫn còn đó những trường hợp đang cần được pháp luật hướng dẫn cụ thể.

1.4.4.Pháp luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung quy định đối với tài sản chung của vợ chồng, theo đó thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014.

Tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung quy định việc chia tài sản khi ly hôn căn cứ lỗi mỗi bên; quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác. Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể hơn về trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia quy định tại Điều 59 của Luật này.

Luật HN&GĐ năm 2014 bổ sung quy định vợ, chồng đang thực hiện hoạt động kinh doanh liên quan đến tài sản chung có quyền được nhận tài sản đó và phải thanh toán cho bên kia phần giá trị tài sản mà họ được hưởng, trừ trường hợp pháp luật về kinh doanh có quy định khác. Ngoài ra, Luật HN&GĐ năm 2014 còn bổ sung quy định, trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó, nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng việc chia tài sản khi ly hôn theo luật định.

ĐẤU THẦU ĐỐI VỚI VIỆC CUNG CẤP, LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
ĐẤU THẦU ĐỐI VỚI VIỆC CUNG CẤP, LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chương 2

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH

2.1. Giới thiệu sơ lược đặc điểm tỉnh Bình Định và công tác giải quyết án tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định từ năm 2010 – 2014

Bình Định là một tỉnh thuộc duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam; có diện tích tự nhiên 6.025 km2, có 01 thành phố, 01 thị xã, 09 huyện và 159 xã, phường, thị trấn. Tỉnh có số dân đông nhất Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, đứng thứ 14 so với cả nước (trên 1,5 triệu người, mật độ 250 người/ km2), với hơn 75% dân số sống bằng nghề nông, mức phát triển kinh tế – xã hội nhìn trên bình diện chung cả nước còn thấp, GDP tăng bình quân 10,7%/ năm, thu nhập bình quân đầu người chỉ 1.553 USD/ năm. Bình Định được đánh giá là có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào, đông bắc Campuchia.

Theo số liệu thống kê từ năm 2010-2014, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã thụ lý 21.103 vụ việc dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính, HN&GĐ. Trong đó số vụ việc về HN&GĐ là 10.961 (chiếm khoảng 52% tổng số việc đã thụ lý).

Có 4.871 vụ án tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn chiếm 44% trong tổng số các vụ án về HN&GĐ mà TAND tỉnh Bình Định thụ lý

Tỷ lệ án bị hủy, sửa so với tổng số vụ việc đã giải quyết trong 5 năm qua (từ năm 2010-2014) ngành Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định có sự biến độ cụ thể năm 2011 tỷ lệ án ly hôn tranh chấp tài sản của vợ chồng bị hủy, sửa 2,3% chỉ một năm sau năm 2012 tỷ lệ án bị hủy, sửa đã giảm đáng kể và ở mức 0,9%. Sau đó năm 2013 tỷ lệ án ly hôn tranh chấp tài sản của vợ chồng bị hủy, sửa đã tăng lên 1,3% đến năm 2014 tỷ lệ án ly hôn tranh chấp tài sản của vợ chồng bị hủy, sửa tiếp tục tăng lên 1,7% và trung bình án HN&GĐ tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn tỷ lệ án bị hủy, sửa chiếm tỷ lệ trung bình là 2%.

2.2. Nguyên nhân cơ bản của tồn tại, thiếu sót

2.2.1. Nguyên nhân khách quan

Số lượng các vụ việc dân sự và HN&GĐ mà các Tòa án đã thụ lý, giải quyết là rất lớn và ngày càng tăng; tính chất án HN&GĐ tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn phức tạp. Trong khi đó, số lượng cán bộ, Thẩm phán tại nhiều đơn vị trong ngành Tòa án còn thiếu, một bộ phận còn yếu về trình độ năng lực. Một số văn bản quy phạm pháp luật chưa rõ ràng, nhưng các cơ quan có thẩm quyền chưa hướng dẫn kịp thời, làm cho việc giải quyết nhiều vụ án có khó khăn và trong một số trường hợp có sai sót.

2.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Thẩm phán chưa nghiên cứu kỹ, cập nhật, dẫn đến áp dụng sai pháp luật khi giải quyết vụ án. Tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề của một bộ phận cán bộ, công chức trong ngành chưa cao đã để xảy ra những sai sót trong chuyên môn.

2.3. Những bất cập, vướng mắc khi áp dụng pháp luật HN&GĐ để giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

2.3.1. Xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tài sản “Có trước khi kết hôn, có sau khi kết hôn” để xác định tài sản chung, tài sản riêng. Theo Luật HN&GĐ năm 2014 ta hiểu “Có” ở thực tế. Nhưng BLDS năm 2005 quy đinh từ Điều 233 đến Điều 247 xác định “Có” ở góc độ pháp lý dựa trên thời điểm xác định quyền sở hữu đối với tài sản. Bên cạnh đó, tại khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 cho phép Thẩm phán suy đoán tài sản chung, tài sản riêng dẫn đến cùng nọi dung vụ án kết quả Tòa án các cấp quyết định khác nhau. Điển hình như vụ án ly hôn có tranh chấp tài sản giữa Chị Lê Thị Thanh Nga và anh Đặng Hồng Nhân.

2.3.2. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn

Xác định được một cách chính xác công sức đóng góp của một bên trong việc phát triển khối tài sản chung thì không đơn giản. Thực tế cho thấy, mỗi Tòa có một cách xác định khác nhau. Sở dĩ như vậy là vì cho đến thời điểm hiện tại pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Điển hình như vụ ly hôn giữa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Thúy bị đơn anh Võ Đình Mưu.

2.3.3. Chia quyền sử dụng đất đối với trường hợp quyền sử dụng đất được bố mẹ tặng cho chung

Theo quy định của pháp luật thì chỉ sau khi vợ chồng được bố mẹ tặng cho phải đăng ký QSDĐ, lúc đó mới coi là tài sản thuộc quyền sở hữu của vợ chồng. Dù pháp luật đã quy định hình thức hợp pháp rõ ràng như vậy, nhưng thực tế việc tặng cho QSDĐ bố mẹ tặng cho con lại không tuân theo pháp luật. Khi vợ chồng xảy ra mâu thuẩn dẫn đến ly hôn tranh chấp tài sản nảy sinh, thực tế Tòa án xử theo nhiều cách khác nhau. Điển hình vụ án ly hôn nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc Dung bị đơn anh Phạm Tuấn Nghị; vụ án ly hôn nguyên đơn chị Trần Thị Hạnh bị đơn anh Dương Minh Thủy.

2.3.4. Tài sản chung vợ chồng chia đôi nhưng có tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung

Theo điểm b khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định áp dụng tài sản chung vợ chồng chia đôi nhưng có tính đến yếu tố công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung không thống nhất trong thực tiễn xét xử, có Thẩm phán không xem xét yếu tố này khi chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn. Vụ án xin ly hôn nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim Son bị đơn anh Châu Văn Nhàn.

2.3.5. Tranh chấp tài sản liên quan đến người thứ ba, người có quyền lợi liên quan đến tài sản đang tranh chấp

Trong thực tiễn, việc xác định trách nhiệm của vợ chồng đối với các khoản nợ dùng cho mục đích đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình hay không thường gặp nhiều khó khăn. Vấn đề này phụ thuộc vào nhận định của Tòa án, có trường hợp Tòa án cho rằng khoản nợ phục vụ cho gia đình nên cả vợ và chồng phải có nghĩa vụ trả nợ, có trường hợp cho rằng người chồng hoặc vợ không biết nên chỉ buộc một mình vợ hoặc chồng có nghĩa vụ trả nợ. Điển hình vụ án giữa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé bị đơn ông Nguyễn Trọng Kim.

2.3.6. Phong tục, tập quán của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Định ảnh hưởng đến kết quả giải quyêt án HN&GĐ của Tòa án

Bình Định là tỉnh có khá nhiều dân tộc sinh sống, trong đó có dân tộc Kinh (Việt) chiếm khoảng 98% còn các dân tộc thiểu số điểm hình như: Chăm, Bana, H’rê, Hoa ở tỉnh Bình Định chỉ chiếm 2%. Chính những phong tục, tập quán của dân tộc sinh sống tỉnh Bình Định có nét đặc thù riêng ảnh hưởng đến đời sống HN&GĐ nói chung và vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng khi ly hôn nói riêng. Do đó, trong 5 năm trở lại đây số vụ án vợ chồng ly hôn tranh chấp tài sản đối với dân tộc Bana, H’rê, Chăm không đáng kể nhưng khi xảy ra Tòa án rất khó giải quyết bởi khi Tòa án áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản vợ chồng thì vợ hoặc chồng không đồng ý bởi cách giải quyết của Tòa khác với cách giải quyết theo phong tục tập quán của dân tộc họ. Do đó, Tòa án khó đưa ra cách giải quyết trọn vẹn điều này làm ảnh hưởng đến kết quả giải quyết án HN&GĐ của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định.

ĐẤU THẦU ĐỐI VỚI VIỆC CUNG CẤP, LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
ĐẤU THẦU ĐỐI VỚI VIỆC CUNG CẤP, LẮP ĐẶT HỆ THỐNG PHÒNG CHÁY VÀ CHỮA CHÁY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TÀI SẢN CỦA VỢ CHỒNG KHI LY HÔN TẠI TÒA ÁN

3.1 Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luât

Tại khoản 1 Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động…” Vậy thời kỳ hôn nhân là căn cứ để Tòa án xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Thực tế phát sinh trường hợp vợ chồng ly hôn trong thời gian chờ Tòa giải quyết có được coi vợ chồng không luật chưa đề cập đến. Do đó, Luật HN&GĐ nên quy định rõ, thống nhất trường hợp trên theo hướng “Trong thời gian vợ chồng ly hôn chờ quyết định của Tòa án vẫn công nhận họ là vợ chồng”.

Giữa Luật HN&GĐ năm 2014 và BLDS năm 2005 quy định khác nhau “Có” tài sản . Do đó, tác giả kiến nghị pháp luật cần bổ sung quy định hướng dẫn theo hướng công nhận thời điểm xác lập tài sản riêng là thời điểm “Có” tài sản trên thực tế. Theo đó, tại khoản 1 Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 cần sửa đổi như sau: “Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có được trên thực tế trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân,…”.

Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung tại Điều 34 chưa quy định đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản riêng. Nên quy định tại Điều 34 thêm quy định theo hướng “đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản chung, tài sản riêng”. Ngoài ra, tại Điều 34 Luật HN&GĐ năm 2014 cần quy định thêm bằng chứng xác định tài sản chung .

Khoản 3 Điều 33 Luật HN&GD năm 2014 trao cho Thẩm phán có quyền suy đoán tài sản của vợ chồng. Do đó, việc phán quyết thế nào phụ thuộc phần lớn vào ý chí của từng Thẩm phán. Vì thế pháp luật cần quy định rõ ràng tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng không thể trao cho Thẩm phán có quyền suy đoán mà quyết định của Thẩm phán phải dựa vào bằng chứng cụ thể.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn

Luật HN&GD năm 2014 quy định tại Điều 61 quy định: Cách chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình chồng, vợ tài sản vợ chồng trong khối tài sản chung gia đình, chưa quy định trường hợp vợ chồng sống chung gia đình chồng, vợ không có quan hệ kinh tế chung. Do đó, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định thêm.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp QSDĐ trường hợp quyền sử dụng đất được bố mẹ tặng cho chung

Nếu QSDĐ đó là do bố mẹ nhận chuyển nhượng hoặc có nguồn gốc là của bố mẹ nhưng vợ chồng người con đã sử dụng trong một thời gian dài, được bố mẹ đồng ý cho vợ chồng đứng tên trong sổ địa chính hoặc bố mẹ biết việc vợ chồng người con đứng tên nhưng không phản đối, chỉ đến khi vợ chồng ly hôn, bố mẹ mới phủ nhận việc tặng cho ấy, thì bố mẹ phải đưa ra được chứng cứ chứng minh, nếu không QSDĐ sẽ thuộc sở hữu của vợ chồng người con. Ngược lại, nếu QSDĐ đứng tên bố mẹ trong giấy chứng nhận QSDĐ thì không thể chỉ dựa vào căn cứ thời gian sử dụng lâu dài của vợ chồng người con ở trên mảnh đất đó, kể cả trường hợp vợ chồng người con đã xây nhà kiên cố trên đất để xác định đây là QSDĐ của người con mà cần tham khảo ý chí của bố mẹ về việc tặng cho này hoặc ý kiến của những nhân chứng hoặc dùng những chứng cứ chứng minh khác để xác định.

Nếu QSDĐ do bố mẹ và vợ chồng người con cùng bỏ tiền ra mua, hợp đồng chỉ có tên vợ chồng người con và vợ chồng này cũng đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ, xây nhà kiên cố, sử dụng liên tục. Sau đó bố mẹ mất, một bên chồng hoặc vợ không có ý kiến gì, chỉ đến lúc ly hôn mới cho rằng đó là tiền bố mẹ cho vay nay đòi lại hoặc bố mẹ mua nhưng nhờ vợ chồng đứng tên hộ thì Tòa án không chấp nhận những lập luận đó mà phải công nhận QSDĐ trong trường hợp này thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Tuy nhiên, nếu đến thời điểm vợ chồng ly hôn, bố mẹ khẳng định rằng trước đây vợ chồng có vay tiền bố mẹ để nhận chuyển nhượng QSDĐ thì vợ chồng lúc bấy giờ phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán số tiền đó cho bố mẹ.

QSDĐ có nguồn gốc là của bố mẹ nhận chuyển nhượng rồi cùng vợ chồng người con xây nhà ở chung thì Tòa nên công nhận QSDĐ thuộc sở hữu của bố mẹ, chỉ có phần nhà trên đất mới thuộc sở hữu chung của bố mẹ và vợ chồng người con, từ đó ngôi nhà sẽ được phân chia theo công sức đóng góp của mỗi thành viên.

Bố mẹ giúp vợ chồng người con vay tiền để nhận chuyển nhượng QSDĐ, vợ chồng người con đã đứng tên trên giấy chứng nhận QSDĐ. Đến khi vợ chồng ly hôn, bố mẹ vẫn chưa thanh toán hết khoản nợ đã vay thì vợ chồng người con phải thanh toán cho chủ nợ và thanh toán cho bố mẹ khoản tiền bố mẹ đã bỏ ra trả nợ cho họ.

3.1.4. Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn căn cứ vào công sức đóng góp

Điểm b khoản 2 Điều 59; khoản 1 Điều 61; khoản 2 Điều 103 Luật HN&GĐ năm 2014 đều có quy định “công sức đóng góp”. Nhưng lại chưa quy định rõ thế nào về công sức đóng góp. Pháp luật nên quy định thống nhất, đồng bộ công sức đóng góp như: Công sức tạo lập, phát triển tài sản, công sức giữ gìn, bảo quản, duy trì, cải tạo, công sức chăm sóc, nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình.

3.1.5. Hoàn thiện pháp luật để đảm bảo quyền lợi của người thứ ba trong giải quyết tranh chấp tài sản là QSDĐ của vợ chồng khi ly hôn

Nếu bên thứ ba không đủ chứng cứ chứng minh một tài sản thuộc sở hữu của mình thì sẽ công nhận tài sản đó thuộc sở hữu chung của vợ chồng. Sau đó giải quyết tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014.

Nếu tài sản đang tranh chấp thực sự là tài sản của bên thứ ba, một bên vợ, chồng chỉ đứng tên hộ thì: Tòa án sẽ công nhận quyền sở hữu cho bên thứ ba.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn

3.2.1. Củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ, đặc biệt là thẩm phán

Ngành Tòa án củng cố và kiện toàn bộ máy Tòa án các cấp đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng. Trong quản lý tăng cường kỷ luật công vụ, quản lý cán bộ để phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của tập thể, cá nhân bảo đảm nâng cao kỷ luật, kỷ cương của ngành; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án các cấp.

3.2.2. Tăng cường công tác phổ biến tuyên truyền pháp luật, đặc biệt chú trọng xét xử lưu động

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua phiên tòa xét xử lưu động là một trong những nhiệm vụ quan trọng để góp phần tuyên truyền, nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật trong quần chúng nhân dân.

3.2.3. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong giải quyết các vụ án HN&GĐ

Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, nhịp nhàng với Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án, chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng, phòng tài nguyên và môi trường, trung tâm định giá, ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn…Để cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu liên quan đến công tác giải quyết án HN&GĐ có tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn.

3.2.4. Tăng cường công tác tổng kết rút kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng xét xử và thống nhất áp dụng pháp luật

Thực trạng trong giải quyết án nói chung và án HN&GĐ nói riêng vẫn còn án bị hủy, sửa. Do đó, trong ngành Tòa án cần phải thường xuyên, định kỳ tổng kết rút kinh nghiệm để đưa ra hướng giải quyết đúng đắn và thống nhất trong xét xử án.

KẾT LUẬN

Việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn từ thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định theo Pháp luật Việt Nam vấn đề giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng quy định trong Luật HN&GĐ Việt Nam có sự thay đổi rõ rệt phù hợp với từng giai đoạn phát triển của xã hội. Các quy định về quyền, nghĩa vụ tài sản vợ chồng, phân định tài sản riêng, tài sản chung ngày càng hoàn thiện, rõ ràng, khắc phục những thiếu sót của các quy định của luật trước. Luật HN&GĐ năm 2014 hiện hành cũng đã có nhiều quy định thêm một số quy định mới cụ thể trong đó có quy định thêm vấn đề chia tài sản chung thuận lợi trong thực tiễn áp dụng luật. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa pháp luật về giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn đã hoàn thiện. Mỗi một vụ việc có đặc điểm riêng của nó nên không thể đồng nhất mà tùy từng trường hợp giải quyết cụ thể, áp dụng luật linh hoạt để đưa ra bản án đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý.

Tác giả đã tìm hiểu, phân tích những vấn đề lý luận cũng như những quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến việc giải quyết tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn và liên hệ thực tiễn xét xử tại TAND tỉnh Bình Định. Từ đó, đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng Luật HN&GĐ.

Trong quá trình thực hiện luận văn tác giả nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của TAND tỉnh Bình Định, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định và đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của Cô hướng dẫn khoa học. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn và thời gian nghiên cứu có hạn, tác giả chưa giải quyết hết được những vấn đề liên quan đến tranh chấp tài sản của vợ chồng khi ly hôn. Quá trình thực hiện cũng có sai sót nhất định. Do đó, rất mong nhận được sự đóng góp của Quý thầy cô, anh chị và các bạn. Xin chân thành cảm ơn./.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 3\LUAT KINH TE\LE THI XUAN THUY

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *