Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên

Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên

Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trước hết ở chỗ chỉ Tòa án mới có quyền quyết định hình phạt. Tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” [20, tr.54]. Tại Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định” [8, tr.26]. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc được Nhà nước giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với ngưới phạm tội, không một cơ quan nhà nước nào khác ngoài Tòa án có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật hình sự lựa chọn loại hình phạt phù hợp với mức hình phạt cụ thể tương ứng với hành vi phạm tội của người phạm tội.

Quyết định hình phạt là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự trong giai đoạn xét xử. Quyết định hình phạt là quá trình sử dụng kết quả điều tra, kết quả truy tố, kết quả xét hỏi và tranh luận; là quá trình đối chiếu các tình tiết của vụ án hình sự cụ thể với các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể gắn liền với việc đánh giá con người cụ thể đã thực hiện tội phạm để xác định một loại và một mức hình phạt phù hợp nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt được các mục đích của hình phạt: Cải tạo và giáo dục người bị kết án trở thành người cóích cho xã hội, phòng ngừa tội phạm riêng và phòng ngừa tội phạm chung. Khi quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không có khả năng đạt được mục đích của hình phạt. Vì thế việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội có đạt được mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt được ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt.

Thực tiễn xét xử cho thấy các cấp xét xử vẫn chưa phải tuân thủ và áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt, vẫn còn nhiều sai sót dẫn đến các sai lầm trong quyết định hình phạt và lựa chọn hình phạt. Hệ thống Tòa án hai cấp tại thành phố Đà Nẵng trong hoạt động quyết định hình phạt cũng còn nhiều hạn chế, làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, người bị hại… Một số nguyên nhân chínhdẫn đến hạn chế là: Quy định của pháp luật còn nhiều bất cập; việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa đáp ứng kịp thời; kinh nghiệm và năng lực của những người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng với tình hình hiện nay…

Nhằm góp phần bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự và phù hợp với thực tế tại địa phương, tác giả chọn đề tài “Các căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn thạc sỹ luật học. Đề tài này nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự trong quá trình xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Để từ đó khắc phục những vướng mắc, thiếu sót trong thực tiễn, đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảo quyết định hình phạt đúng đối với người phạm tội, góp phần xây dựng pháp luật hình sự công bằng, nhân đạo, dân chủ và công minh.

2. Tình hình nghiên cứu

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Xuất phát từ tình hình nghiên cứu về các căn cứ quyết định hình phạt, tác giả nhận thấy cần có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 45 BLHS năm 1999 (nay là Điều 50 BLHS năm 2015). Trên kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn vận dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động xét xử của hệ thống Tòa án hai cấp tại thành phố Đà Nẵng, để đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự có liên quan đến các căn cứ quyết định hình phạt và hoàn thiện quy định về căn cứ quyết định hình phạt tại Điều 45 BLHS năm 1999 (Điều 50 của BLHS năm 2015). Đồng thời, qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật hình sự và quyết định hình phạt của Toà án nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt và đạt được mục đích của hình phạt.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài cần làm rõ một số vấn đề để đạt được mục đích nghiên cứu, đó là:

– Nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện một số vấn đề lý luận chung về các căn cứ quyết định hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam.

– Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong quá trình xét xử vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để tìm ra những bất cập của pháp luật hình sự hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt.

– Nghiên cứu những bất cập của pháp luật hình sự hiện hành, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt trong xét xử các vụ án hình sự của Tòa án.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu: Trên cơ sở đối tượng nghiên cứu, luận văn xác định phạm vi nghiên cứu như sau:

– Những vấn đề lý luận, quan điểm về quyết định hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt ở Việt Nam.

– Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt.

– Đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản;

– Về thời gian trong 6 năm (2011- 2016).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền, quan điểm và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về chính sách hình sự, vấn đề cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta.

5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định hình phạt, phân tích và đánh giá nội dung quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt. Trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng từ thực tiễn xét xử.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Điểm mới quan trọng nhất của luận văn là đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt, bao gồm: Yêu cầu thực hiện đúng các nguyên tắc quyết định hình phạt; yêu cầu của cải cách tư pháp; yêu cầu bảo vệ quyền con người; yêu cầu thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội; yêu cầu về phòng ngừa tội phạm; các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt gồm: Ban hành các văn bản hướng dẫn, tập huấn thi hành BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; tiếp tục hoàn thiện pháp luật về các căn cứ quyết định hình phạt. Mặt khác, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 03 chương.

Chương 1. Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các căn cứ quyết định hình phạt

Chương 2. Thực trạng và thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH

HÌNH PHẠT

    1. 1.1. Những vấn đề lý luận về quyết định hình phạt

1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt

Trên cơ sở phân tích nội hàm khái niệm quyết định hình phạt, nội dung và đặc điểm của hoạt động quyết định hình phạt, đồng thời kế thừa các quan điểm khoa học, học viên cho rằng có thể khái niệm quyết định hình phạt như sau:

Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án mà trực tiếp là Hội đồng xét xử thực hiện thể hiện ở việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể hoặc miễn hình phạt đối với người bị tuyên có tội theo trình tự thủ tục nhất định đúng với quy định của Bộ luật Hình sự để đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt.

1.1.2. Nguyên tắc quyết định hình phạt

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt

Nguyên tắc công bằng

1.1.3. Ý nghĩa của quyết định hình phạt

Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự, do Tòa án có thẩm quyền thông qua HĐXX thực hiện sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (các hình phạt chính và bổ sung), mức hình phạt cụ thể trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định áp dụng cho chính cá nhân người phạm tội, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS.

Quyết định hình phạt được hiểu là việc Tòa án lựa chọn một loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người thực hiện tội tội phạm bị kết tội. Do vậy, quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp luật. Chỉ khi quyết định hình phạt được quyết định một cách chính xác và công bằng, thì mục đích của hình phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác [56, tr.386].

Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích của hình phạt. Mục đích của hình phạt có đạt được hay không lại phụ thuộc vào việc quyết định hình phạt của Tòa án. Quyết định hình phạt bảo đảm tính công minh, đúng pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội là điều kiện bắt buộc để hình phạt được tuyên đạt được mục đích trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Qua đó, hình phạt cũng phát huy tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung đối với các thành viên khác trong xã hội.

Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả của hình phạt. Hiệu quả của hình phạt phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Xây dựng pháp luật hình sự; quyết định hình phạt; tổ chức thi hành án và tái hoà nhập cộng đồng; công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công dân. Trong tất cả các yếu tố này thì quyết định hình phạt là yếu tố mang tính quyết định, quan trọng nhất.

Quyết định hình phạt đúng là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt. Trong quyết định hình phạt, việc Tòa án lựa chọn đúng loại và mức hình phạt, kết hợp được giữa trừng trị với giáo dục người phạm tội, phù hợp với hoàn cảnh của người phạm tội chính là điều kiện bảo đảm tính khả thi của hệ thống hình phạt trong thực tiễn. Quyết định hình phạt đúng sẽ làm cho mỗi hình phạt nói riêng và hệ thống hình phạt nói chung thực sự là công cụ hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Quyết định hình phạt đúng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định hình phạt đúng sẽ tác động đến ý thức của mỗi cá nhân để họ thấy sợ hình phạt mà không dám phạm tội và quan trọng hơn là nhận thức được tính nghiêm minh của pháp luật để tự giác chấp hành pháp luật [36, tr.10].

Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

1.2. Những vấn đề lý luận về căn cứ quyết định hình phạt

    1. 1.2.1. Khái niệm căn cứ quyết định hình phạt

Căn cứ quyết định hình phạt có bốn đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi được luật hình sự quy định một cách rõ ràng, đầy đủ.

Thứ hai, các căn cứ quyết định hình phạt có tính bắt buộc đối với Tòa án.

Thứ ba, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi có tính nguyên tắc

Thứ tư, tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện quan trọng để hình phạt được tuyên đạt được mục đích của nó theo luật định.

Trên cơ sở phân tích nội dung và đặc điểm của các căn cứ quyết định hình phạt, dựa vào các kết quả nghiên cứu trong khoa học pháp lý hình sự của các nhà khoa học, theo chúng tôi, có thể đưa ra khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt như sau: Các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi được quy định trong Bộ luật Hình sự có tính bắt buộc đối với Tòa án khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện tội phạm nhằm đạt được mục đích của hình phạt.

1.2.2. Ý nghĩa của căn cứ quyết định hình phạt

Một là, các căn cứ quyết định hình phạt là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.

Hai là, các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện cần thiết để khắc phục tình trạng thiếu thống nhất khi quyết định hình phạt, đồng thời bảo đảm tính hợp pháp và có căn cứ pháp lý của hoạt động quyết định hình phạt.

Ba là, việc tuân thủ đúng các căn cứ quyết định hình phạt là điều kiện tiên quyết để đạt mục đích của hình phạt.

Tóm lại, các căn cứ quyết định hình phạt là những đòi hỏi cụ thể do BLHS quy định mà Tòa án bắt buộc phải tuân thủ để không chỉ đảm bảo cho hình phạt được quyết định một cách khách quan, đúng pháp luật mà còn nhằm đạt được các mục đích của hình phạt ở mức cao nhất khi áp dụng đối với người phạm tội bị kết án.

1.3. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt từ năm 1945 đến trước ngày Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực

1.3.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt từ năm 1945 đến trước ngày Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực

1.3.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về căn cứ quyết định hình phạt từ ngày Bộ luật Hình sự năm 1985 có hiệu lực đến trước ngày Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH

CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VỀ CÁC CĂN CỨ

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

    1. 2.1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt

2.1.1. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường

Tòa án phải dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt được quy định trong BLHS khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Tại Điều 45 của BLHS năm 1999 quy định các căn cứ quyết định hình phạt như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

Từ quy định này, ta có thể xác định có 4 căn cứ để quyết định hình phạt đối với người bị kết án, gồm:

2.1.1.1. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt

2.1.1.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện khi quyết định hình phạt

2.1.1.3. Căn cứ vào các đặc điểm nhân thân của người phạm tội khi quyết định hình phạt

2.1.1.4. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt

2.1.2. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt

Bộ luật Hình sự đã phân quá trình thực hiện tội phạm thành ba giai đoạn, gồm:

2.1.2.1. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội

2.1.2.2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt

2.1.3. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên là người chưa phát triển hoàn thiện về mặt thể chất, tâm sinh lý nên sự hiểu biết của họ về mặt pháp luật còn hạn chế. Do vậy, cùng một tội phạm nhưng chủ thể thực hiện tội phạm là người chưa thành niên thì áp dụng hình phạt cũng khác so với người đã thành niên thực hiện tội phạm cùng loại.

Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc sau:

– Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

– Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm của nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

– Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi không được tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Theo quy định của BLHS năm 1999 việc quyết định hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội được tiến hành như sau:

– Đối với hình phạt phạt tiền: Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội nếu họ ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và họ có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không vượt quá ½ mức phạt tiền mà điều luật quy định.

– Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ: Thời hạn hình phạt áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội không vượt quá ½ thời hạn và điều luật quy định. Đồng thời, do người chưa thành niên hầu như chưa có thu nhập hoặc tài sản riêng nên không khấu trừ thu nhập của họ khi bị kết án.

– Đối với hình phạt tù có thời hạn: Bộ luật Hình sự đã phân hóa người chưa thành niên ra làm hai đối tượng là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi với đường lối xử lý khác nhau. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì được xử lý nhẹ hơn người từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi.

2.1.4. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về căn cứ quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật Hình sự

Tại Điều 47 của BLHS năm 1999 quy định: “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn”.

Với nội dung quy định ở trên, điều kiện để Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chỉ khi người phạm tội có ít nhất phải từ hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS trở lên. Mặc dù khoản 2 Điều 46 BLHS có quy định khoản 1 Điều 46 BLHS “Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ” song nếu không có từ hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS thì Tòa án có viện dẫn nhiều tình tiết giảm nhẹ khác, cũng không thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định hoặc chuyển sang loại hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Điều đáng lưu ý là, ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ là làm giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong phạm vi một khung hình phạt so với các trường hợp phạm tội tương tự nhưng không có tình tiết này; bởi vậy, nếu hành vi phạm tội thực tế mặc dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS nhưng tính chất, mức độ vẫn cần thiết phải áp dụng mới phù hợp thì Tòa án cũng không được QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Tóm lại, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 46 BLHS năm 1999 là những yếu tố có ảnh hưởng đến mức độ trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Nó làm thay đổi mức độ nguy hiểm chứ không làm thay đổi tính chất nguy hiểm của tội phạm. Các tình tiết giảm nhẹ là căn cứ để giảm hình phạt trong giới hạn của khung hình phạt (Điều 45 BLHS) và là căn cứ để quyết định hình phạt dưới mức tối thiểu của khung hình phạt (Điều 47 BLHS). Do việc, việc vận dụng đúng các quy định này sẽ góp phần vào việc quyết định hình phạt đúng.

      1. 2.1.5. Thực trạng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về căn cứ để quyết định hình phạt tù cho hưởng án treo
      2. Án treo là một trong những biện pháp được áp dụng nhằm thể hiện nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao hiệu quả của công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, được áp dụng từ rất sớm, xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của pháp luật hình sự Việt Nam. Đây là sự kế thừa và phát huy kết quả áp dụng chế định này trong hơn nửa thế kỷ qua, đồng thời có những nội dung mới, phù hợp với thể chế chính trị và sự phát triển của nền kinh tế, xã hội của đất nước trong giai đoạn mới, là công cụ sắc bén trong quá trình đấu tranh và phòng chống tội phạm, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước và đáp ứng được yêu cầu của công cuộc phòng ngừa tội phạm trong tình hình hiện nay.
    1. 2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng

2.2.1. Một số kết quả trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng

Hệ thống Toà án hai cấp thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng trong việc giải quyết tốt các vụ án hình sự như: Đảm bảo thời hạn xét xử; số lượng các bản án, quyết định của Toà án có sai phạm ngày càng giảm mạnh, không có oan sai; công tác tổng kết, hướng dẫn xét xử được chú trọng và tăng cường hơn; trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ Toà án nói chung tiếp tục được củng cố và nâng cao; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của Toà án ngày càng được cải thiện.

Tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có chiều hướng gia tăng, tính chất ngày càng phức tạp và phạm tội có tính đồng phạm ngày càng nhiều hơn. Trong đó, các loại tội tăng nhiều đó là: Tội cố ý gây thương tích; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tú; các tội xâm phạm về sở hữu. Do sự gia tăng về các hành vi phạm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nên vấn đề này có sự tác động nhất định đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự nói chung và quyết định hình phạt nói riêng của hệ thống Tòa án hai cấp thành phố Đà Nẵng.

2.2.2. Một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng

Trong quá trình hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật hình sự, Tòa án hai cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đã có nhiều cố gắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, góp phần vào sự thành công của toàn hệ thống, nâng cao năng lực công tác, góp phần đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, việc quyết định hình phạt của Tòa án hai cấp trong những năm qua vẫn không tránh khỏi những sai phạm. Thực tiễn đã cho thấy, so với hoạt động định tội danh, hoạt động quyết định hình phạt thường chiếm tỷ lệ sai phạm cao hơn rất nhiều. Cụ thể:

2.2.2.1. Không áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo

2.2.2.2. Không đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội nên đã quyết định hình phạt quá mức nghiêm khắc hoặc quá nhẹ đối với người phạm tội, quyết định hình phạt một cách không thống nhất

2.2.2.3. Nhiều trường hợp việc áp dụng căn cứ QĐHP giữa các Toà không thống nhất

2.2.2.4. Áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự dẫn đến quyết định hình phạt không phù hợp

2.2.2.5. Áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về quyết định hình phạt nhẹ hơn khi chưa thỏa mãn điều kiện theo quy định

2.2.3. Nguyên nhân của một số hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt tại thành phố Đà Nẵng

Một là, các quy định của Bộ luật Hình sự còn bất cập, chưa hợp lý.

Hai là, trình độ nhận thức và áp dụng pháp luật của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án còn hạn chế và không đồng đều.

Ba là, do bất cập, hạn chế trong hệ thống chính sách, pháp luật và công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

Bốn là, cùng với sự phát triển của nền kinh tế – xã hội, tình hình phát sinh các tranh chấp và tội phạm xảy ra ngày càng nhiều và có tính chất tinh vi, phức tạp hơn nên việc áp lực giải quyết các vụ án càng tăng cao.

Năm là, công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng có lúc, có nơi chưa thực sự chặt chẽ, hiệu quả, dẫn tới việc nhận thức và vận dụng các quy định của BLHS giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa có sự thống nhất.

Sáu là, một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân còn chủ quan, mất cảnh giác, chưa nêu cao tinh thần, ý thức phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Sự hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật của người dân còn thấp.

Bảy là, các chế độ, chính sách về tiền lương chưa đảm bảo cuộc sống tối thiểu, chưa thể hiện sự tương xứng với vai trò, nhiệm vụ của cán bộ, công chức Tòa án, nhất là đối với Thẩm phán. Cơ sở vật chất chưa được đầu tư, trang bị phù hợp với tình hình hoạt động hiện nay, chưa đáp ứng được nền tảng cơ bản trong thời đại công nghệ thông tin để minh bạch trong các hoạt động tố tụng.

Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học công lập trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

CHƯƠNG 3

NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH

VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT

    1. 3.1. Hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các căn cứ quyết định hình phạt

Khi quyết định hình phạt Tòa án phải tuân thủ đầy đủ vào các căn cứ quyết định hình phạt để hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội đạt được mục đích quy định. Các căn cứ quyết định hình phạt được quy định tại Điều 45 của BLHS năm 1999 như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Tuy nhiên, những căn cứ này hiện nay còn có nhiều tồn tại, hạn chế khi áp dụng trong hoạt động quyết định hình phạt, nên theo tác giả cần phải tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về các căn cứ quyết định hình phạt, cụ thể:

3.1.1. Hoàn thiện căn cứ thứ nhất “các quy định của BLHS”

3.1.2. Hoàn thiện căn cứ thứ hai “cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội”

3.1.3. Hoàn thiện căn cứ thứ ba về “nhân thân người phạm tội”

3.1.4. Hoàn thiện căn cứ thứ tư “các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”

    1. 3.2. Tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về các căn cứ quyết định hình phạt

Mặc dù BLHS năm 2015 kế thừa và khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1999 về quy định các căn cứ quyết định hình phạt, nhưng vẫn còn nhiều quy định cần tiếp tục hoàn thiện. Cần tiếp tục hoàn thiện căn cứ thứ nhất “quy định của BLHS năm 2015” như: Qua nghiên cứu quy định của BLHS, tác giả thấy có một số quy định của BLHS năm 2015 gây ra khó khăn, bất cập cho việc áp dụng các quy định này trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Cụ thể:

3.2.1. Hoàn thiện căn cứ miễn trách nhiệm hình sự

3.2.2. Hoàn thiện quy định về tù có thời hạn đối với người phạm tội dưới 18 tuổi

3.2.3. Hoàn thiện quy định tình tiết định khung tại một số điều luật chưa hợp lý

    1. 3.3. Các giải pháp khác bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật Hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt

3.3.1. Tăng cường hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt

Hoàn thiện nâng cao chất lượng các văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật là thực sự cần thiết, cấp bách. Các cơ quan tư pháp Trung ương cần xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn một cách đầy đủ, rõ ràng, khoa học khái niệm chung về các căn cứ quyết định hình phạt, những quy định của BLHS còn gây nhiều tranh cãi, khó khăn cho việc áp dụng pháp luật. Tòa án Tối cao cần kịp thời ban hành Nghị quyết hướng dẫn mới của Hội đồng thẩm phán TANDTC hoặc sửa đổi đối với những điểm hướng dẫn trước đây mà đến nay không còn phù hợp, bổ sung hướng dẫn những điểm chưa được hướng dẫn hoặc hướng dẫn chưa cụ thể. Gắn với việc xây dựng là hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật với công tác thi hành pháp luật.

3.3.2. Chú trọng tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt

Cần phải tiến hành tổng kết thực tiễn áp dụng những quy định của BLHS để đánh giá và qua đó khắc phục, hoàn thiện quy định của BLHS. Việc tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của BLHS là sự đòi hỏi hết sức khách quan, thực sự cần thiết và rất quan trọng. Vì thế cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn xét xử áp dụng BLHS. Thường xuyên tổ chức các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác toàn hệ thống, trong đó có nội dung thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt. Đây là một biện pháp để kịp thời kiểm nghiệm các quy định của BLHS về các căn cứ quyết định hình phạt xem có phù hợp với thực tiễn xét xử hay không, kịp thời giải quyết những vướng mắc và khắc phục các sai sót cho các cơ quan tiến hành tố tụng cấp dưới.

3.3.3. Nâng cao chất lượng Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trong áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt

Đứng trước yêu cầu xây dựng và kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức, Thẩm phán Tòa án, Hội thẩm nhân dân trong sạch vững mạnh, đáp ứng yêu cầu hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong tình hình hiện nay và nâng cao trình độ chuyên môn của cán bộ xét xử đảm bảo giải quyết đúng đắn các vụ án, đòi hỏi phải tiếp tục có các giải pháp thiết thực hơn nữa. Tác giả xin đưa ra một số giải pháp sau:

Một là, nhận thức đúng đắn tầm quan trọng có ý nghĩa quyết định trong việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

Hai là, phải tạo sự đột phá trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

Ba là, thực hiện từng bước thích hợp trong xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

Bốn là, đánh giá và sử dụng đúng đắn đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

Năm là, quan tâm xây dựng, thực hiện tốt chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

Thực hiện được đồng bộ những giải pháp trên đây không chỉ xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xét xử có chất lượng, mà quan trọng hơn là góp phần nâng cao ý thức pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án, góp phần tạo ra sự công bằng, minh bạch trong quyết định hình phạt đối với người phạm tội.

KẾT LUẬN

Quyết định hình phạt là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện thể hiện ở việc lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể hoặc miễn hình phạt đối với người bị kết án theo trình tự thủ tục nhất định đúng với quy định của Bộ luật Hình sự để đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt.

Quyết định hình phạt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị và pháp luật. Chỉ khi hình phạt được quyết định đúng thì mục đích của hình phạt mới đạt được, tức là có tác dụng giáo dục và cải tạo người phạm tội, ngăn ngừa phạm tội mới và giáo dục người khác. Cơ sở pháp lý của việc quyết định hình phạt chính là các căn cứ quyết định hình phạt với tính chất là những đòi hỏi của luật có tính bắt buộc Toà án phải tuân thủ khi quyết định hình phạt nhằm đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt khi áp dụng đối với người phạm tội.

Theo quy định tại Điều 45 của BLHS năm 1999 (Điều 50 của BLHS năm 2015), có bốn căn cứ quyết định hình phạt, bao gồm: Một là, quy định của Bộ luật Hình sự; hai là, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; ba là, nhân thân người phạm tội; bốn là, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc tuân thủ đúng bốn căn cứ quyết định hình phạt này sẽ đảm bảo việc quyết định hình phạt được chính xác. Đây chính là cơ sở để đạt được mục đích, hiệu quả của hình phạt vì trong mọi trường hợp quyết định hình phạt sai đều sẽ dẫn đến thái độ, cách xử sự tiêu cực ở chính người bị kết án và gây ra những hậu quả bất lợi cho gia đình người phạm tội cũng như xã hội. Ngoài ra, việc tuân thủ các căn cứ quyết định hình phạt chính là một hình thức biểu hiện sức sống và tính khả thi của các quy phạm pháp luật hình sự và kết quả của sự tuân thủ đó chính là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án.

Cũng như các quy định khác của Bộ luật Hình sự, các quy định về căn cứ quyết định hình phạt vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập trong thực tiễn áp dụng, mặc dù Bộ luật Hình sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa những quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và đã có những sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa khắc phục triệt để.

Do vậy, cần phải tiếp tục được tổng kết thực tiễn áp dụng, nghiên cứu và hoàn thiện nhằm đảm bảo cho hoạt động quyết định hình phạt đạt được mục đích. Trên cơ sở đó, mới đảm bảo công bằng, công lý được thực thi, nâng cao niềm tin của người dân vào các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Tòa án – Cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Từ những nghiên cứu về lý luận, quy định của pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt tại địa bàn thành phố Đà Nẵng, tác giả đã chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và đề xuất hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và năm 2015.

Hiện nay, để đảm bảo cho việc áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự về các căn cứ quyết định hình phạt, cần phải nhanh chóng thực hiện một số biện pháp đảm bảo như: Tăng cường công tác thanh kiểm tra, giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; tiếp tục hoàn thiện những quy định của pháp luật; nâng cao năng lực, phẩm chất, đạo đức của những người tiến hành tố tụng, nhất là các Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và đẩy mạnh thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ đối với họ.

Trên đây là kết quả mà luận văn đã đạt được qua quá trình nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để luận văn được hoàn thiện hơn.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 7\CHINH SACH CONG\DANG THI HOANG HA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *