Cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự

Cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự

Cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án dân sự là hoạt động đảm bảo thực thi các bản án, quyết định dân sự và Quyết dịnh của trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có hiệu lực pháp luật của các cơ quan, Tòa án, tổ chức có thẩm quyền; tăng cường hiệu lực, hiện quả của bộ máy Nhà nước; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân và góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế – xã hội. Hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự ảnh hưởng trực tiếp đến công lý, sự công bằng đời sống xã hội, vì vậy yêu cầu về tính nghiêm minh trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam đã được quy định trong hiens pháp: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh chấp hành” [31].

Để đảm bảo hiệu quả THADS, tùy thuộc vào tính chất quyết định, bản án pháp luật hiện hành quy định cụ thể về các cơ quan có thẩm quyền và thủ tục, trình tự THADS, theo đó hoạt động THADS được thực hiện và phân định theo trình tự thi hành án dân sự và thi hành án hình sự.

Đối với THADS, Luật thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự thi hành các quyết định dân sự, bản án, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, tài sản thu lợi bất chính, truy thu tiền, tài sản, xử lý vật chứng, án phí và quyết định dân sự trong quyết định, bản án hình sự, phần tài sản trong quyết định, bản án hành chính của Toà án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng tài thương mại (gọi chung là quyết định, bản án). Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về THADS, tùy điều kiện cụ thể ở từng địa phương, các cấp chính quyền, cơ quan THADS đã thực hiện nhiều biện pháp, giải pháp tổ chức THADS và đã đạt được những kết quả nhất định.

Ở thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực, trong đó đáng chú ý là kết quả thi hành án dân sự thường đạt và vượt chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp, có giá trị thi hành lớn đã được quan tâm chỉ đạo và tổ chức thi hành dứt điểm. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác thi hành án dân sự cũng còn những khó khăn, tồn tại nhất định cả về thể chế và thực tiễn. Số lượng việc chuyển kỳ sau còn nhiều; số việc chưa có điều kiện thi hành án, nhất là về giá trị (về tiền) vẫn chiếm tỷ lệ cao so với tổng số phải thi hành…Tính đến ngày 30/8/2020, tổng số việc thụ lý thi hành án mà Chi cục thi hành án dân sự TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên giải quyết là 2.712 việc (Trong đó có 1.712 đã thi hành xong, số chưa có điều kiện thi hành án: 388, Hoãn Thi hành án: 30, số việc chuyển sang kỳ sau: 575). Tỷ lệ giải quyết đạt: 77%.

Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải có những phương hướng, giải pháp để khắc phục khó khăn, tồn tại và nâng cao hiệu quả THADS, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Phú Yên nói chung và TP. Tuy Hòa nói riêng. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả Thi hành án dân sự nói chung và ở địa bàn TP. Tuy Hòa nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về kên biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự ở góc độ thể chế và thực tiễn thi hành ở thành phó Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, từ đó đề xuất các giải pháp nhăm hoàn thiện pháp luật; bảo đảm thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong Thi hành án dân sự nói chung và ở TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên nói riêng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu, hệ thống hóa những vấn đề thực tiễn về thi hành án dân sự trong những vụ án kê biên cưỡng chế tài sản; phân tích đánh giá thực trạng về công tác thi hành án dân sự trong vụ án kê biên cưỡng chế tài sản trên địa bàn TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, chỉ rõ những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế tồn tại; trên cơ sở đó đề ra hệ thống giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong vụ án kê biên cưỡng chế tài sản trên địa bàn TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên nói riêng và trên toàn quốc nói chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là cơ sở lý luận về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự và thực trạng kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ở TP. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên để từ đó luận giải các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Hoạt động thi hành án dân sự nói chung, kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự nói riêng có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu kê biên cưỡng chế tài sản trong thi trong thi hành án dân sự theo phạm vi thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định pháp luật (Không đề cập đến thẩm quyền thi hành án của Thừa phát lại).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật và các quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về công tác thi hành án dân sự, về kê biên cưỡng chế tài sản và chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, … và tổng kết thực tiễn để nghiên cứu luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Góp phần làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận chung về hoạt động cưỡng chế thi hành án dân sự.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Nêu ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hoạt động Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Tuy Hòa từ đó góp phần mang lại hiệu quả công tác thi hành án dân sự của thành phố Tuy Hòa trong giai đoạn tới.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lí về kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự.

Chương 2: Thực trạng kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp đảm bảo hiệu quả về kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KÊ BIÊN CƯỠNG CHẾ

TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự:

Quyết định, Bản án của Tòa án, Trọng tài. Hội đồng xét xử vụ việc cạnh tranh có hiệu lực thi hành có được thi hành nghiêm chỉnh, dứt điểm hay không; kỷ cương pháp luật có được tôn trọng; lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tập thể, của các tổ chức xã hội và mội chông dân có được bảo đảm hai không phụ chuộc nhiều kết quả của việc thi hành án.

Với tính chất dân sự của mình, Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự (Chủ yếu là các ngành, nghĩa vụ về tài sản) của các bên đã được bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan tài phán khác đã ghi nhận. Trong thi hành án dân sự, các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thoả thuận với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định, thực hiện ý chí của các bên đương sự nhằm thi hành bản án, quyết định có hiệu lực thi hành [22].

Tuy nhiên, khi người phải thi hành án đã được thuyết phục, giải thích, mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành, hoặc trốn tránh thi hành thì buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế thi hành.

Cưỡng chế THADS thể hiện quyền năng của cơ quan thi hành án dân sự, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, nhằm đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực thi hành được kịp thời, nghiêm chỉnh, đúng pháp luật.

Như vậy, cưỡng chế Thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan Thi hành án dân sự, do Chấp hành viên quyết định theo quyền hạn và nhiệm vụ nhằm buộc người phải thi hành án phải thực hiện những nghĩa vụ tài sản theo Bản án và Quyết định. Cưỡng chế thi hành án được áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành, hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi huỷ hoại tài sản, tẩu tán hoặc trốn tránh việc thi hành án.

1.1.2. Đặc điểm của kê biên cưỡng chế tài sản trong THADS

Kê biên cưỡng chế tài sản là một biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự, vì vậy biện pháp này có những đặc điểm chung của cưỡng chế thi hành án dân sự. Đó là: thể hiện quyền lực nhà nước và được bảo đảm bằng quyền lực nhà nước; được áp dụng khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành (sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành); người phải thi hành án ngoài việc thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định thì còn phải chịu chi phí cưỡng chế thi hành án; việc cưỡng chế không chỉ có hiệu lực với người phải thi hành án mà còn đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; việc cưỡng chế THADS phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và xã hội; phải trên cơ sở trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.

Ngoài các đặc điểm chung của cưỡng chế thi hành án dân sự nêu trên, kê biên tài sản trong thi hành án dân sự còn có một số đặc thù sau đây:

Thứ nhất, cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền bằng biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

Điều 71 Luật Thi hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ sung) năm 2014 quy định 6 biện pháp cưỡng chế và biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một trong các biện pháp cưỡng chế. Tuy nhiên, để thực hiện nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án, nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án Chấp hành viên chỉ có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế sau đây: Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; khai thác tài sản của người phải thi hành án; buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ; buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định [30].

Biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, xử lý tiền, thu hồi, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế hoàn toàn độc lập với các biện pháp cưỡng chế thi hành án khác. Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế nào do Chấp hành viên quyết định những biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là những biện pháp đầu tiên mà Chấp hành viên phải cân nhắc để lựa chọn. Chỉ khi nào không đủ điều kiện để áp dụng biện pháp cưỡng chế này, thì Chấp hành viên mới lựa chọn các biện pháp cưỡng chế khác (như biện pháp kê biên xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án). Vì biện pháp cưỡng chế này trên thực tế dễ thực hiện hơn các biện pháp cưỡng chế khác.

Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án được quy định cụ thể tại Điều 76, Điều 79 và các điều 80, 81, 82, 83 Luật Thi hành án dân sự 2014.

Khấu trừ tiền trong tài khoản, xử lý tiền, thu hồi, giấy tờ có giá của người phải thi hành án là một biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên áp dụng. Vì vậy, Chấp hành viên phải tuân thủ nghiêm túc, chặt chẽ tất cả các nguyên tắc và điều kiện chung khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, đối với từng biện pháp cưỡng chế có những nguyên tắc và điều kiện áp dụng cũng rất khác nhau. Dưới đây là một số nguyên tắc và điều kiện khi áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

Chỉ Chấp hành viên mới có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án: Chấp hành viên là công chức, được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực thi hành. Việc pháp luật quy định cụ thể như vừa để tránh trình trạng các đối tượng khác lạm dụng việc thi hành án để gây áp lực đối với người phải thi hành án, mặt khác tăng cường tính trách nhiệm cá nhân của chấp hành viên khi tổ chức hoạt động này. Là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các Bản án, quyết định dân sự của Tòa án, khi thực hiện nhiwwmj vụ của chấp hành viên chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Chấp hành viên khi tiến hành hoạt động thi hành án chỉ được thực hiện những gì pháp luật cho phép và phải tuân theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật; phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả thi hành án [36].

Người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền: Nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án chính là nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định của Tòa án người phải thi hành án phải trả (hoặc có thể là: phải thanh toán, phải bồi thường, thanh toán tiền chênh lệch giá trị tài sản, án phí…) cho người được thi hành án. Người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền, thì Chấp hành viên mới có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản, xử lý tiền, thu hồi, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Nghĩa vụ này chủ yếu được xác định trong các quyết định hay bản án của Tòa án. Đây là loại việc chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số vụ việc được thụ lý ở các Cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, đã có không ít trường hợp nghĩa vụ của người phải thi hành án được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án không phải là nghĩa vụ trả tiền (nghĩa vụ giao vật, trả nhà hoặc quyền sử dụng đất…), nhưng trong quá trình tổ chức thi hành, nghĩa vụ trả tiền của người phải thi hành án mới phát sinh (ví dụ: trong trường hợp nộp phí thi hành án hoặc trong trường hợp phải nộp chi phí cưỡng chế thi hành án). Trong trường hợp này nghĩa vụ của người phải thi hành án vẫn được áp dụng như nghĩa vụ trả tiền.

Phải hết thời gian tự nguyện thi hành án: Thời gian để người phải thi hành án tự nguyện thi hành án là khoảng thời gian để đương sự sắp xếp, phải chuẩn bị khoản tiền để thanh toán cho bên được thi hành án. Thời gian tự nguyện theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự là 10 ngày, kể từ khi người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ các quyết định thi hành án [36]. Nội dung và cách thức tống đạt các giấy tờ về thi hành án được quy định tại các điều từ Điều 39 đến Điếu 43 Luật Thi hành án dân sự 2014. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có biểu hiện tẩu tán, hủy bỏ tài sản hoặc né tránh việc thi hành án, thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay biện pháp quy định tại Chương IV Luật Thi hành án dân sự.

Như vậy, đối với trường hợp này, Chấp hành viên không cần xem xét đến điều kiện đã hết thời gian tự nguyện hay chưa mà khi phát hiện người phải thi hành án có tiền (trong tài khoản hoặc tiền mặt), thì Chấp hành viên có thể áp dụng ngay các biện pháp đã quy định tại Chương IV Luật Thi hành án dân sự có thể là biện pháp bảo đảm và có thể là biện pháp cưỡng chế. Vì tiền là loại tài sản rất dễ tẩu tán.

Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án: Để khẳng định được người phải thi hành án có điều kiện thi hành án chính là kết quả xác minh của Chấp hành viên. Đây là một hoạt động nghiệp vụ thi hành án và phải được thể hiện trong hồ sơ thi hành án. Mục đích của hoạt động thi hành án dân sự là thực hiện các quyền về tài sản và những vấn đề liên quan đến tài sản khác với mục đích của thi hành án hình sự là trừng phạt và giáo dục. Như vậy, để khẳng định người phải thi hành án có điều kiện thi hành án trong thi hành án dân sự được hiểu là người phải thi hành án có tài sản hoặc quyền về tài sản. Tiền (có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ) và giấy tờ có giá cũng là tài sản, đây chính là đối tượng mà biện pháp cưỡng chế này hướng tới. Trong trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ trả tiền, thì Chấp hành viên phải có căn cứ chứng tỏ được người phải thi hành án có điều kiện thi hành như: người phải thi hành án đang có tiền mặt hoặc trong tài khoản mở tại ngân hàng, kho bạc nhà nước hay tổ chức tín dụng hoặc giấy tờ có giá thì mới có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế.

Thứ hai, cưỡng chế thi hành án bằng biện pháp khấu trừ vào thu nhập của người phải thi hành án:

Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án chỉ được áp dụng khi Chấp hành viên đã xác định được người phải thi hành án có thu nhập tương đối ổn định, nhưng không tự nguyện thi hành án và chỉ được áp dụng trong một số trường hợp cụ thể. Vì vây, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế này cần phải có đủ các điều kiện.

Điều kiện áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án: Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ trả tiền (không phải trả vật, trừ trường hợp người phải thi hành án, người được thi hành án có thỏa thuận khác theo khoản c Điều 114 Luật Thi hành án dân sự). Nghĩa vụ trả tiền là nghĩa vụ mà theo bản án, quyết định người phải thi hành án phải trả một khoản tiền nào đó cho người được thi hành án trong các trường hợp như: bồi thường, trả nợ, cấp dưỡng, thanh toán theo hợp đồng, tiền chênh lệch giá trị tài sản khi chia tài sản, di sản và án phí, phí thi hành án…. Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án tức là người phải thi hành án có thu nhập tương đối ổn định.

Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án chỉ được áp dụng trong các trường hợp sau (khoản 2 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự): Theo thỏa thuận của các đương sự, Bản án, quyết định ấn định biện pháp trừ vào thu nhập của người phải thi hành án để thi hành án. Thi hành án theo định kỳ, thi hành án cấp dưỡng, khoản tiền phải thi hành án không lớn hoặc tài sản khác của người phải thi hành án không đủ để thi hành.

Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, Chấp hành viên phải tuân thủ các nguyên tắc chung về cưỡng chế thi hành án, cụ thể như sau:

Chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi đã hết thời hạn 10 ngày tự nguyện thi hành án:

Việc ấn định thời gian tự nguyện thi hành án cho người phải thi hành án là một thủ tục bắt buộc trong thi hành án dân sự, đó cũng là nhiệm vụ bắt buộc của Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án các bản án, quyết định. Việc ấn định thời gian tự nguyện thi hành án được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 45 Luật Thi hành án dân sự. Sau khi hết thời gian tự nguyện thi hành án, nếu xác định được người phải thi hành án có thu nhập tương đối ổn định mà không tự nguyện thi hành án, thì Chấp hành viển ra quyết định cưỡng chế thi hành án theo khoản 2 Điều 71 và Điều 78 Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 45 đã quy định “Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có biểu hiện tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng ngay các biện pháp quy định tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự” [36]. Vì vậy, trong trường hợp cần thiết, Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án phải phù hợp với tỷ lệ mà pháp luật quy định:

Mức trừ vào tiền lương, tiên công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động: Để đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu của người phải thi hành án và những người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật, khoản 3 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự quy định mức cao nhất được trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động là 30% (ba mươi phần trăm) tổng số tiền được nhận hàng tháng, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác. Như vậy, theo nguyên tắc này, khi thực hiện việc trừ vào thu nhập của người phải thi hành án, thì người phải thi hành án phải có khoản tiền tương đối ổn định được nhận hàng tháng, Chấp hành viên sẽ tính toán và quyết định mức trừ, nhưng mức trừ tối đa không được quá 30% tổng số tiền mà người phải thi hành án được nhận hàng tháng.

Như vậy, đối với những khoản thu nhập khác không phải là tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động, thì mức khấu trừ không bắt buộc phải thấp hơn hoặc bằng 30% tổng số tiền thu nhập, mà mức khấu trừ trong trường hợp này phụ thuộc vào thu nhập thực tế của người phải thi hành án, đồng thời, mức khấu trừ phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà người phải thi hành án có nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Do đó, mức này trừ vào tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động của người phải thi hành án không quá 30%.

Các loại thu nhập của người phải thi hành án: Theo quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật Thi hành án dân sự (Được sữa đổi, bổ sung) năm 2014, thu nhập của người phải thi hành án gồm: tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp mất sức lao động, tiền lương hưu và các thu nhập hợp pháp khác. Các khoản thu nhập hợp pháp của người phải thi hành án ngoài tiền lương, tiền lương hưu, tiền công, tiền trợ cấp mất sức lao động có thể là tiền thưởng, tiền phụ cấp chức vụ… do cơ quan, cá nhân, tổ chức quản lý thu nhập của người phải thi hành án trả cho người được thi hành án. Thu nhập khác của người phải thi hành án trong trường hợp này là những khoản được nhận gắn liền với tiền lương, tiền công từ các tổ chức, cá nhân, cơ quan đang quản lý các khoản thu nhập đó. Trong trường hợp này không được coi việc được nhận một khoản tiền do tặng cho, thừa kế, trúng xổ số… là nguồn thu nhập thường xuyên. Tuy nhiên, những nguồn thu nhập này đều được coi là thu nhập chính đáng của một cá nhân, nhưng không thể được coi là thu nhập thường xuyên của người phải thi hành án để áp dụng việc khấu trừ thu nhập của họ. Vì vậy, khi xác minh người phải thi hành án có tài sản là những khoản tiền trên, thì Chấp hành viên không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập mà lựa chọn biện pháp cưỡng chế khác phù hợp với quy định của Luật Thi hành án dân sự (được sữa đổi, bổ sung) năm 2014, như biện pháp khấu trừ tiền, thu hồi, xử lý tiền của người phải thi hành án theo khoản 1 Điều 71 Luật Thi hành án dân sự (được sữa đổi, bổ sung) năm 2014 [36].

Tiền lương là khoản tiền trả cho cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan Nhà nước, chính trị xã hội và các tổ chức chính trị, được trả từ ngân sách Nhà nước, trả qua hệ thống kế toán của cơ quan, tổ chức nơi công tác, cán bộ đó làm việc. Lương, bảng lương, hệ số lương… đều được thể hiện rõ trên sổ sách kế toán của đơn vị, cơ quan. Theo quy định của pháp luật hiện hành, thông thường cứ hai hoặc bà năm cán bộ, công chức sẽ được nâng lương một lần theo ngạch mà công chức, cán bộ đó đang được hưỡng. Như vậy, mức lương sẽ được tăng lên theo quy định. Ngoài mức lương chính cán bộ, công chức còn có thể có phụ cấp, như phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên…

Các thu nhập hợp pháp khác của người phải thi hành án trong nội dung này được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là các khoản thu nhập của người phải thi hành án ngoài khoản tiền lương, tiền công do các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc đang quản lý thu nhập chi trả thêm cho người lao động như tiền thưởng hàng tháng, phụ cấp chức vụ, phụ cấp vùng…Thu nhập hợp pháp của một người cụ thể từ nhiều nguồn thu khác nhau như: tài sản được tặng cho, do được thừa kế, hoặc do trúng xổ số kiến thiết… nhưng những nguồn thu nhập này, chấp hành viên không được áp dụng biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập của người phải thi hành án mà phải lựa chọn biện pháp cưỡng chế khác, vì đây là khoản thu nhạp không thường xuyên của đương sự [36].

Thứ ba, kê biên cưỡng chế tài sản là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm:

Theo quy định Điều 89 Luật Thi hành án dân sự (được sữa đổi, bổ sung) năm 2014, đối với tài sản là quyền sư dụng đất hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc tài sản phải đăng ký quyền sở hữu để hạn chế các khiếu kiện từ phía người phải thi hành án và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan pháp luật quy định trước khi kê biên, Chấp hành viên phải yêu cầu (Bằng văn bản) cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký về một số nội dung như giao dịch đã đăng ký hoặc quyền sử dụng đất là của người nào? Có bị cầm cố hay thế chấp không?… Và sau khi đã thực hiện xong việc kê biên tài sản, Chấp hành viên phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc đăng ký quyền sở hữu về việc kê biên dó để các cơ quan này xử lý theo khoản 1 Điều 178 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung) năm 2014 như: tạm dừng hoặc dừng việc thực hiện các yêu cầu liên quan đến các giao dịch đối với tài sản của đương sự đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo, đăng ký tài sản.

Tại Điều 111 Luật Thi hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ sung) năm 2014 còn quy định chi tiết việc kê biên quyền sử dụng đất như sau: Khi kê biên quyền sử dụng đất, Chấp hành viên yêu cầu người đang quản lý giấy tờ về quyền sở hữu sử dụng đất, người phải thi hành án phải nộp các giấy tờ đó cho Cơ quan THADS. Khi kê biên quyền sử dụng đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án thì kê biên cả tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng đất. Trường hợp tài sản gắn liền với đất thuộc tài sản của người khác (không phải của người phải thi hành án) thì Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử đất và thông báo cho người có tài sản gắn liền với đất. Quyền sử dụng đất cũng là một loại tài sản có những đặc thù nhất định như đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng quyền sử dụng đất thì lại thuộc quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Vì vậy, Luật THADS đã dành một mục (Mục 8 Chương IV của Luật Thi hành án dân sự năm 2014) gồm 04 điều quy định về việc cưỡng chế đối với tài sản là quyển sử dụng đất trong đó có việc kê biên quyền sử dụng đất. Để kê biên tài sản là quyền sử dụng đất, Chấp hành viên cần làm những việc sau:

– Xác định giấy tờ về quyền sử dụng đất được kê biên: Quyền sử dụng đất là loại tài sản rất đặc thù và do tính chất phức tạp của loại tài sản này nên khi tiến hành kê biên, Chấp hành viên cần chú ý đến giấy tờ xác định giá trị pháp lý của quyền sử dụng đất. Khi kê biên quyền sử dụng đất của người phải thi hành án, Chấp hành viên cần xem xét kỹ các giấy tờ xác định quyền sử dụng đất của người phải thi hành án. Chấp hành viên chỉ kê biên quyền sử dụng đất khi người phải thi hành án có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp theo quy định của Luật Đất đai.

Thứ tư, kê biên cưỡng chế tài sản đang cầm cố, thế chấp và do người thứ ba giữ:

Theo quy định tại Điều 90 Luật Thi hành án dân sự (Được sửa đổi, bổ sung) năm 2014, Chấp hành viên có quyền kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp.

Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp: Chấp hành viên tiến hành kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp khi: Người phải thi hành án có nhưng không đủ để thi hành án hoặc không còn tài sản nào khác. Giá trị tài sản đang thế chấp, cầm cố phải lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo và chi phí cưỡng chế thi hành án.

Trong thực tiễn thi hành án đã gặp rất nhiều trường hợp khi xác minh người phải thi hành án có tài sản nhưng họ đã thế chấp cho Ngân hàng hoặc cầm cố hoặc cá nhân, tổ chức để vay một khoản tiền nhất định, nếu người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có nhưng tài sản có giá trị nhỏ không đủ để thi hành án thì Chấp hành viên phải xác minh làm rõ việc thế chấp, cầm cố có hợp pháp không? Giá trị tài sản đang thế chấp, cầm cố và nghĩa vụ được đảm bảo là bao nhiêu và dự tính các chi phí cưỡng chế để quyết định có kê biên hay không kê biên tài sản đang thế chấp, cầm cố. Chấp hành viên chỉ được kê biên tài sản đang thế chấp, cầm cố của người phải thi hành án khi đã có cơ sở cho rằng, người phải thi hành án không còn tài sản nào khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án và giá trị tài sản thế chấp, cầm cố lớn hơn nghĩa vụ được đảm bảo và các chi phí cần thiết trong quá trình kê biên cưỡng chế tài sản cho đến khi người mua trúng đấu giá.

Khi kê biên, Chấp hành viên phải thông báo ngay cho người nhận thế chấp, cầm cố và khi xử lý tài sản cầm cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ được đảm bảo sau khi đã trừ các chi phí về thi hành án yêu tiên theo quy định tại khoản 3 Điếu 47 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 “Trường hợp xử lý tài sản thế chấp, cầm cố mà bên nhận thế chấp, cầm cố là bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà quyết định, bản án tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể thì số tiền thu được từ việc bán tài sản thế chấp, cầm cố bị kê biên được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm sau khi trừ án phí của quyết định, bản án đó, chi phí cưỡng chế.

Thứ năm, kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ:

Khi Chấp hành viên xác minh tài sản của người phải thi hành án đối với tài sản đang do người thứ ba giữ như: Vay, thuê, mượn…, kể cả trường hợp tài sản được xác định bằng quyết định, bản án của Tòa án khác thì Chấp hành viên ra quyết định kê biên, cưỡng chế tài sản đó để thi hành khi tài sản đó có giá trị tương đương với nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết hoặc người phải thi hành án không còn tài sản nào khác. Nếu người đang giữ tài sản của người thi hành không tự nguyện giao tài sản cho cơ quan THADS thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc họ phải giao tài sản để thi hành án.

Lưu ý: Khi kê biên, xử lý tài sản đang cho thuê hợp pháp thì người thuê được tiếp tục thuê theo hợp đồng đã giao kết.

1.1.3. Vai trò của kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự

Từ thực tiễn công tác THADS, có thể khái quát một số vai trò của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự như sau:

Một là, kê biên tài sản trong THADS nhằm bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các quyết định, bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên: Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là kết quả xét xử, giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội, vì vậy đòi hỏi đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân phải nghiêm chỉnh thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình, nhất các nghĩa vụ của người phải thi hành án; nếu các đương sự không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế buộc thực hiện nghĩa vụ. Như vậy, việc cưỡng chế thực hiện bằng biện pháp kê biên tài sản sẽ là cơ sở để đấu giá tài sản, thu tiền thi hành án để trả cho người được thi hành án. Điều này có nghĩa là việc kê biên cưỡng chế tài sản là cơ sở quan trọng cho việc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan, nhất là người được thi hành án. Bên cạnh đó, thực tế cho thấy rằng, trong các nghĩa vụ thi hành án thì nghĩa vụ thi hành về tiền chiếm tỷ lệ lớn, vì vậy nếu người phải thi hành án có tài sản mà không tự nguyện thi hành án hoặc có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản thì việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản sẽ kịp thời ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản và đảm bảo hiện trạng tài sản để có cơ sở xử lý để thi hành án; góp phần khôi phục các quan hệ xã hội được bảo vệ bởi quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật. Đặc biệt là, việc áp dụng kịp thời biện pháp kê biên cưỡng chế tài sản sẽ tránh được những tố cáo, khiếu nại phát sinh đối với Chấp hành viên trong quá trình thi hành án hoặc những tranh chấp xảy ra khi tài sản của người phải thi hành án được chuyển nhượng cho các tổ chức, cá nhân khác. Vì vậy, có thể nói rằng kê biên cưỡng chế tài sản có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cho các quyết định, bản án được thực thi nghiêm chỉnh trong đời sống xã hội.

Hai là, kê biên cưỡng chế tài sản trong THADS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội: Kê biên cưỡng chế tài sản cũng như các biện pháp cưỡng chế khác được áp dụng thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật đối với trường hợp người phải thi hành án hoặc tổ chức, cá nhân liên quan làm vụ việc kéo dài, gây khó khăn, cản trở, chống đối việc thi hành án . Thực tế cho thấy rằng, trong số các biện pháp kê biên cưỡng chế tài sản nhằm hạn chế quyền sỡ hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án (thường là tài sản có giá trị lớn, trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống hằng ngày của người phải thi hành án). Vì vậy, biện pháp kê biên cưỡng chế tài sản có thể coi là biện pháp có tính răn đe, nghiêm khắc và rất quan trọng đến xã hội qua đó tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật của người thi hành án và các tổ chức cá nhân khác về trách nhiệm tôn trọng và thi hành quyết định, bản án của tòa án có hiệu lực pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự

Ba là, kê biên tài sản trong THADS góp phần nâng cao hiệu quả cảu công tác xét xử và THADS: Bản án, quyết định là sản phẩm của quá trình xem xét, xét xử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền do pháp luật quy định qua nhiều thủ tục, trình tụ với những hoạt động tố tụng cụ thể, chính vì vậy, khi quyết định, bản án được người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tự nguyện thi hành thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả của công tác xét xử và thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh đó có những trường hợp áp dụng biện pháp kê biên cưỡng chế tài sản chưa được sự đồng tình của người phải thi hành án, dư luận xã hội về tính đúng đắn của các quyết định, bản án; không tin tưởng đối với công tác xét xử và thi hành án dân sự. Vì vậy, kê biên cưỡng chế tài sản ngoài mục đích đảm bảo thi hành án thì còn là cơ sở đánh giá lại tính nghiêm minh của hoạt động xét xử để khắc phục những vi phạm, tồn tại, hạn chế (nếu có).

Ví dụ như: khi áp dụng biện pháp kê biên cưỡng chế tài sản, cơ quan THADS phát hiện những thiếu sót, vi phạm trong quyết định, bản án của Tòa án; sự khác nhau giữa nội dung quyết định, bản án với thực tế tài sản của người phải thi hành án và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; quyết định về tài sản không rõ ràng, khó thi hành (không rõ diện tích, không rõ tứ cận diện tích đất bị kê biên của đương sự)… thì cơ quan THADS có quyền đề nghị tòa án đã xét xử điều chỉnh, bổ sung, sữa chữa sai sót, giải thích đối với các quyết định, bản án hoặc đề nghị người có thẩm quyền xưm xét lại bản án, quyết định của Tòa án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm.

1.2. Chủ thể, nội dung và thủ tục kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự

Ngành Tư pháp ra đời từ những ngày đầu thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với vai trò trọng yếu bảo vệ pháp luật và thực thi công lý. Cùng với quá trình xây dựng và phát triển Ngành Tư pháp, hệ thống cơ quan thi hành án dân sự từng bước được hình thành theo Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa quy định về thể thức thi hành mệnh lệnh hoặc bản án của Tòa án, bảo đảm cho quyền tư pháp của Nhà nước được thực hiện trọn vẹn, công lý trở thành hiện thực và trật tự pháp luật được khôi phục. Từ đó, hệ thống tổ chức cán bộ thi hành án dân sự được hình thành trong lòng Tư pháp Việt Nam và trải qua chặng đường 74 năm, đã không ngừng được kiện toàn, phát triển lớn mạnh cả về quy mô, tổ chức.

1.2.1. Chủ thể thực hiện kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tại Điều 16 Luật Thi hành án dân sự quy định: “Trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35 của Luật Thi hành án dân sự; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của Luật này; Thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương tiện hoạt động được giao theo hướng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh; Lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; Giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 174 của Luật Thi hành án dân sự; Báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật; báo cáo Tòa án về kết quả thi hành bản án, quyết định khi có yêu cầu” [36, tr.63].

Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên tại Điều 20 Luật Thi hành án dân sự quy định: Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên; Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành án; Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án; Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật; Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm; Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác; Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ; Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín [36, tr.66].

1.2.2. Nội dung và Thủ tục kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự

Bước 1: Ra quyết định kê biên cưỡng chế tài sản thi hành án dân sự:

Điều 70 Luật Thi hành án dân sự đã quy định về căn cứ cưỡng chế, theo đó để tổ chức cưỡng chế một vụ việc thì công việc đầu tiên của chấp hành viện là phải lựa chọn đúng biện pháp cưỡng chế quy định tại Chương IV của Luật Thi hành án dân sự và ra quyết định cưỡng chế theo biểu mẫu của Bộ Tư pháp ban hành Quyết định cưỡng chế thi hành án gồm phần căn cứ và phần nội dung (quyết định). Khi Chấp hành viên ra quyết, định cưỡng chế thì phải căn cứ vào từng vụ việc cụ thể để lựa chọn các biểu mẫu tương ứng cho từng biện pháp cưỡng chế thi hành án.

Bước 2: Xác minh trước khi tổ chức kê biên cưỡng chế tài sản thi hành án dân sự:

Xác mình về nhân thân của đối tượng phải thi hành án và gia đình. Cần làm rõ đối tượng phải thi hành án về các nội dung sâu: Trình độ nhận thức hiểu biết pháp luật, đã từng có tiền án, tiền sự chưa, nghề nghiệp của người phải thi hành án, biểu hiện thái độ chống đối, đối phó và các hành vi trốn tránh khác của người phải thi hành án và gia đình như: đe doạ, thách thức, có chuẩn bị hung khí, lực lượng để chống đối…; Thái độ các thành viên khác trong gia đình như thế nào; có đối tượng hình sự mà cơ quan công an đang quản lý như: tập trung cải tạo, tha tù vế hay đang có biểu hiện những hành vi nghi vấn khác như việc làm phi pháp… hoặc gia đình có thuộc diện chính sách, có công với cách mạng không? Việc xác minh này được thực hiện qua Tổ trưởng tổ dân phố, chính quyền địa phương, công an khu vực. Kết quả xác minh sẽ là cơ sở để chấp hành viên dự liệu thành phần mời tham gia cưỡng chế, số lượng người bảo vệ cưỡng chế, dự liệu các tình huống có thể xảy ra trong kế hoạch cưỡng chế. Đồng thời xác minh về quan hệ, quan điểm của địa phương và thái độ của dư luận đối với vụ việc cưỡng chế thi hành án, điều kiện địa hình và giao thông nơi có tài sản cưỡng chế.

Công tác xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế nhằm giúp chấp hành viên xây dựng kế hoạch cưỡng chế có tính sát thực và khả thi vì vậy đây là công việc rất cần thiết, không thể thiếu được đối với vụ việc cưỡng chế có tính phức tạp.

Bước 3: Xây dựng kế hoạch kê biên cưỡng chế tài sản:

Việc lập kế hoạch kê biên cưỡng chế tài sản: Theo quy định tại Điều 72 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung) năm 2014 ‘ Chấp hành viên lập kế hoạch kê biên cưỡng chế tài sản thi hành án trong trường hợp cần huy động lực lượng”. Như vậy, việc lập kế hoạch cưỡng chế trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay hoặc không huy động lực lượng, còn đối với những trường hợp tự nguyện cưỡng chế thi hành án thì không lập kế hoạch cưỡng chế. Nội dung trong kế hoạch cưỡng chế: Quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 rõ ràng kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải bao gồm 6 nội dung chính như sau: Tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế; Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng; Thời gian, địa điểm cưỡng chế; Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu cầu về lực lượng tham gia bảo vệ cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế. Kế hoạch kê biên cưỡng chế tài sản gửi ngay cho Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế hoặc cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án.

Thông báo quyết định cưỡng chế và các giấy tờ khác có liên quan cho người phải thi hành án, người được thi hành án và những người có quyền lợi liên quan. Việc thông báo quyết định cưỡng chế được thực hiện theo quy định chung về thông báo thi hánh án quy định tại điều 39, 40, 41, 42 của Luật thi hành án DS và được hướng dẫn tại điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, ngày 18/7/2015 của Chính phủ, Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS.

Tiến hành cưỡng chế tại đối tượng cần cưỡng chế hoặc nơi có tài sản. Trước khi thực hiện việc kê biên cưỡng chế theo kế hoạch và quyết định cưỡng chế đã ấn định, Chấp hành viên hoặc lãnh đạo Thi hành án dân sự chủ trì phổ biến toàn bộ kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể của từng người, từng đơn vị nêu các tình huống có thể xảy ra và biện pháp xử lý các tình huống đó. Chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành kê biên cưỡng chế tài sản. Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ tốt cho việc cưỡng chế. Người có thẩm quyền thi hành án công bố quyết định cưỡng chế, giải thích các quy định có liên quan, chủ trì điều hành toàn bộ quá trình cưỡng chế, kịp thời xử lý mọi tình huống phát sinh diễn ra và tình huống đã dự kiến trong kế hoạch trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc kê biên, cưỡng chế.

Kết thúc kê biên cưỡng chế tài sản thi hành án Thư ký thông qua các loại biên bản, yêu cầu các thành viên trong hội đồng, người phải thi hành án hoặc đại diện gia đình, người được thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan, người làm chứng…ký xác nhận vào các biên bản. trường hợp người phải thi hành án không ký thì ghi rõ lý do vào biên bản, biên bản vẫn đảm bảo giá trị pháp lý.

Rút kinh nghiệm sau khi cưỡng chế: Sau khi kết thúc cưỡng chế, Chấp hành viên và lực lượng công an làm nhiệm vụ bảo vệ tập trung hội ý với những thành viên tham gia cưỡng chế về những thành công và những việc chưa đạt yêu cầu trong quá trình tổ chức cưỡng chế, nhằm rút kinh nghiệm cho các buổi cưỡng chế khác.

1.3. Nguyên tắc, điều kiện áp dụng kê biên cưỡng chế tài sản trong thi hành án dân sự

Quá trình thi hành án dân sự nói chung, kê biên cưỡng chế tài sản trong THADS nói riêng liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản của các cá nhân, tổ chức (quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản) và có ảnh hưởng rất lớn đến an ninh và trật tự xã hội, vì vậy, pháp luật quy định kê biên cưỡng chế tài sản phải trên cơ sở các căn cứ, nguyên tắc, điều kiện, trình tự và thủ tục nhất định.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 5/ NGUYEN MINH NAM

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *