Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam

Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam

Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong đó lĩnh vực lao động và những vấn đề liên quan đến quan hệ lao động có lẽ là một trong những điều đáng phải quan tâm.

Để tham gia quan hệ này người lao động có một thứ tài sản duy nhất đó là sức lao động, trong khi đó, người sử dụng lao động có vốn, tài sản và pháp luật trao cho người sử dụng lao động quyền quản lý lao động. Ở đây chúng ta có thể thấy vị thế của người lao động sẽ là kẻ yếu trong quan hệ lao động.

Chính vì điều đó nên Nhà nước cần phải có cách điều tiết quan hệ lao động một cách phù hợp và thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Khi Nhà nước tham gia vào quan hệ lao động tức là đã hình thành nên một bên trong quan hệ lao động. Chính vì vậy mà cơ chế ba bên trong quan hệ lao động được biết đến như một yếu tố nhằm tạo nên mối quan hệ hài hoà và một môi trường lao động phát triển.Cơ chế ba bên thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, người lao động và người sử dụng lao động cũng như các tổ chức đại diện của họ nhằm duy trì quan hệ lao động hài hoà ổn định giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Đồng thời thông qua đó nâng cao trách nhiệm của các bên trong quan hệ lao động và hiện nay cơ chế ba bên đã và đang thực hiện một cách có hiệu quả đúng vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc đảm bảo quyền và lợi ích của các bên. Tuy nhiên, pháp luật về cơ chế ba bên vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.Cụ thể là việc xây dựng hệ thống pháp luật về cơ chế ba bên còn nằm rải rác trong các văn bản pháp luật và thực tiễn áp dụng cơ chế ba bên còn nhiều hạn chế vướng mắc.

Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam” để xem xét, đánh giá và giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về cơ chế ba bên và các quy định cụ thể của nó trong pháp luật lao động. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế ba bên ở pháp luật nước ta.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Cơ chế ba bên giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hệ thống các quy định pháp luật cũng như quá trình thực thi pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật về cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam.

Về không gian, thời gian: Luận văn nghiên cứu từ thực tiễn thực hiện pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về cơ chế ba bên, từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng ở Việt Nam.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:

Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận pháp luật về cơ chế ba bên.

Thứ hai, khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật, thực trạng cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay.

Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi cơ chế ba bên ở Việt Nam.

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để làm rõ các vấn đề dặt ra.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:

Phương pháp phân tích, bình luận, diễn giải, so sánh và phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 khi nghiên cứu các vấn đề lý luận về cơ chế ba bên và pháp luật về cơ chế ba bên.

Phương pháp so sánh luật học, phân tích, tổng hợp, thống kê, đánh giá được sử dụng chủ yếu trong Chương 2 khi khái quát, đánh giá thực trạng cơ chế ba bên. Đánh giá ưu điểm và hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này.

Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng ở Chương 3 khi xem xét, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng cơ chế ba bên.

6. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

6.1. Câu hỏi nghiên cứu

1. Các quy định của pháp luật về cơ chế ba bên?

2. Thực trạng cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay như thế nào?

3. Giải pháp nào hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu lực thực thi cơ chế ba bên ở Việt Nam?

6.2. Giả thuyết nghiên cứu

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, tác giả luận văn đưa ra các giả thuyết nghiên cứu sau đây:

– Những vẫn đề lý luận về cơ chế ba bên hiện nay ở Việt Nam chưa hoàn thiện, thiếu các quan điểm học thuật để làm cơ sở lý luận cho cơ chế ba bên trong nền kinh tế thị trường.

– Thực trạng pháp luật về cơ chế ba bên hiện nay ở Việt Nam đang bộc lộ các hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với lý luận và thực tiễn về cơ chế ba bên.

– Hiện nay ở Việt Nam chưa có các giải pháp hiệu quả để hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên và tổ chức thực hiện pháp luật về cơ chế ba bên.

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Về mặt lý luận, luận văn là công trình góp phần xây dựng các luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật, nhằm nâng cao tính minh bạch, khả thi của pháp luật về cơ chế ba bên; tạo hành lang pháp lý thuận lợi góp phần thực thi cơ chế ba bên; nâng cao hiệu quả cơ chế ba bên, hoàn thiện cơ chế và các thiết chế thực thi cơ chế ba bên ở Việt Nam hiện nay.

Về mặt thực tiễn, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề pháp luật về cơ chế ba bên nói riêng và pháp luật lao động nói chung.

8. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có bố cục gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về cơ chế ba bên và sự điều chỉnh của pháp luật về cơ chế ba bên

Chương 2: Thực trạng pháp luật lao động về cơ chế ba bên ở Việt Nam

Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về cơ chế ba bên ở Việt Nam.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ BA BÊN VÀ SỰ ĐIỀU CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ BA BÊN

1.1. Khái quát về cơ chế ba bên

1.1.1. Khái niệm cơ chế ba bên

Cơ chế ba bên là sự phối hợp, tương tác giữa Nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động và đại diện của họ nhằm giải quyết tốt các vấn đề liên quan đến quan hệ lao động.

1.1.2. Đặc điểm về cơ chế ba bên

Thứ nhất, cơ chế ba bên là cơ chế có sự phối hợp, tương tác giữa Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động hoặc đại diện của các bên.

Thứ hai, cơ chế ba bên gắn với quan hệ lao động tồn tại trong quan hệ lao động

Thứ ba, cơ chế ba bên là một quá trình dân chủ hoá mối quan hệ lao động

Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam
Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam

1.2. Pháp luật về cơ chế ba bên

1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật về cơ chế ba bên

Thứ nhất, bảo đảm tính phù hợp theo sự ghi nhận của hành lang pháp lý quốc tế.

Thứ hai, pháp luật điều chỉnh cơ chế ba bên nhằm điều tiết quan hệ lao động phát triển ổn định, bền vững

Thứ ba, điều chỉnh về cơ chế ba bên để thiết lập hành lang pháp lý góp phần vào việc hoạch định chủ trương, chính sách về lĩnh vực lao động.

Thứ tư, điều chỉnh về cơ chế ba bên tạo ra công cụ để nâng cao hiệu quả quản lý lao động.

1.2.2. Khái niệm pháp luật về cơ chế ba bên

Pháp luật về cơ chế ba bên bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành điều chỉnh mối quan hệ phối hợp, tương tác giữa nhà nước, người lao động, người sử dụng lao động và các đại diện của họ thông qua các hình thức, biện pháp khác nhau nhằm giải pháp tốt các vấn đề liên quan đến quan hệ lao động.

1.2.3. Nội dung pháp luật về cơ chế ba bên

Thứ nhất, nhóm các quy phạm pháp luật điều chỉnh về chủ thể (theo nghĩa rộng) khi tham gia vào quan hệ lao động.

Thứ hai, sự tham gia của các chủ thể cơ chế ba bên trong quan hệ lao động.

1.2.4. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về cơ chế ba bên

Thứ nhất, về môi trường chính trị, pháp lý.

Thứ hai, sự tuân thủ pháp luật về cơ chế ba bên của các chủ thể tham gia quan hệ lao động.

Thứ ba, năng lực, vai trò phối hợp của các chủ thể trong cơ chế ba bên.

Thứ tư, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế toàn cầu và sự tương thích với hệ thống pháp luật quốc tế.

Kết luận chương 1

Cơ chế ba bên có vị trí, vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách pháp luật về lao động, điều hòa lợi ích, phòng ngừa các tranh chấp lao động, đình công và bình ổn các quan hệ lao động góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội ổn định và tiến bộ xã hội.

Cơ chế ba bên được ghi nhận trong hành lang pháp lý quốc tế và quốc gia. Pháp luật quốc tế đã điều chỉnh cơ chế ba bên thông qua các Công ước Quốc tế và các Khuyến nghị. Pháp luật các quốc gia ghi nhận cơ chế ba bên thông qua các quy phạm pháp luật về lao động.

Với vai trò cơ bản của cơ chế ba bên, luận văn đã làm rõ những vấn đề sau:

Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế ba bên như việc hình thành quan hệ lao động, cơ chế ba bên, khái niệm cơ chế ba bên dưới góc độ ngôn ngữ và pháp lý, các đặc trưng cơ bản của cơ chế ba bên.

Thứ hai, làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về cơ chế ba bên như sự cần thiết của việc quy định cơ chế ba bên, nội dung pháp luật về cơ chế ba bên, làm rõ các chủ thể của cơ chế ba bên, mức độ phối hợp, sự tham gia của các chủ thể cơ chế ba bên trong các nhóm vấn đề về thương lượng, thoả ước lao động tập thể; tiền lương; tranh chấp lao động và giải quyết tranh chấp lao động…Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi cơ chế ba bên.

Các vấn đề lý luận về cơ chế ba bên và pháp luật về cơ chế ba bên sẽ làm cơ sở soi chiếu khi nghiên cứu pháp luật về cơ chế ba bên hiện hành trong Chương 2 để giải quyết một cách có hệ thống logic từ lý luận đến quy định pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về cơ chế ba bên.

CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VỀ

CƠ CHẾ BA BÊN Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về chủ thể cơ chế ba bên

2.1.1. Thực trạng quy định pháp luật về Nhà nước

Nhà nước là một chủ thể không thể thiếu của cơ chế ba bên. Thực hiện vai trò đại diện cho Nhà nước là Chính phủ và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực lao động bảo đảm là Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội.

2.1.2. Thực trạng quy định pháp luật về tổ chức đại diện người lao động

Trong cơ chế ba bên, tổ chức công đoàn tham gia với vai trò đại diện người lao động để phản ánh ý chí của người lao động, nguyện vọng của người lao động trong các chính sách pháp luật liên quan đến người lao động đặc biệt là các quy định về tiền lương, chế độ cho người lao động trong quan hệ lao động.

2.1.3. Thực trạng quy định pháp luật về tổ chức đại diện người sử dụng lao động

Hiện nay, pháp luật chủ yếu quy định vai trò của tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Pháp luật thừa nhận tổ chức đại diện người sử dụng lao động gồm có: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.

2.2. Thực trạng quy định pháp luật về sự tham gia của chủ thể cơ chế ba bên trong quan hệ lao động

2.2.1. Trong lĩnh vực thoả ước lao động tập thể

Thứ nhất, về đại diện ký kết thỏa ước lao động tập thể ngành.

Thứ hai, pháp luật quy định trách nhiệm của tổ chức công đoàn, tổ chức đại diện người sử dụng lao động và cơ quan quản lý nhà nước về lao động trong thương lượng tập thể.

Thứ ba, thỏa ước lao động tập thể nói chung có những nội dung và điều khoản giống nhau, tuy nhiên, đối với thỏa ước lao động tập thể ngành là những thỏa ước lao động tập thể có những điểm tương đồng thì pháp luật lại chưa quy định nội dung cơ bản của thỏa ước lao động tập thể ngành.

Thứ tư, các chủ thể hiện nay mới tập trung ký kết thỏa ước lao động tập thể doanh nghiệp mà chưa chú trọng thỏa ước lao động tập thể ngành.

Thứ năm, vai trò phối hợp giữa các chủ thể cơ chế ba bên và thực tế vai trò tổ chức bồi dưỡng kỹ năng thương lượng tập thể và ký kết thỏa ước lao động tập thể cho người tham gia thương lượng tập thể còn hạn chế, chưa theo kịp được yêu cầu đặt ra.

2.2.2. Trong lĩnh vực tiền lương

Sự tham gia của các chủ thể cơ chế ba bên thể hiện thông qua Hội đồng tiền lương quốc gia.

Ở cấp quốc gia, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam sẽ tham gia trong Hội đồng tiền lương quốc gia để tư vấn cho Chính phủ trong việc ban hành các chế độ chính sách tiền lương. Ở cấp ngành, công đoàn ngành sẽ thỏa thuận và ký kết thỏa ước ngành trong đó xây dựng thang lương, bảng lương cấp ngành. Ở cấp doanh nghiệp, khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở (Điều 93,Bộ luật Lao động).

2.2.3. Trong lĩnh vực kỷ luật lao động

Thứ nhất, tổ chức công đoàn được người sử dụng lao động tham khảo ý kiến khi ban hành nội quy.

Thứ hai, việc đăng ký nội quy.

2.2.4. Trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp lao động

Thứ nhất, trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp lao động, Hội đồng trọng tài được xem là một cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể phản ánh rõ nội hàm của cơ chế ba bên.

Thứ hai, pháp luật quy định về thành phần của Hội đồng xét xử các tranh chấp lao động

2.3. Đánh giá thực trạng quy định về cơ chế ba bên

2.3.1. Những kết quả đạt được

Thứ nhất, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế ba bên đã cơ bản hình thành, tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ lao động.

Thứ hai, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế ba bên đã xuất phát từ thực tiễn của các quan hệ xã hội về việc làm, tiền lương, thỏa ước lao động tập thể, tranh chấp lao động… dựa trên sự tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế ba bên; tiếp thu các Điều ước, Công ước quốc tế mà nước ta đã phê chuẩn.

Thứ ba, việc ban hành các văn bản hướng dẫn đồng bộ, đầy đủ, kịp thời và đáp ứng được yêu cầu điều tiết về cơ chế ba bên, thị trường lao động và quan hệ lao động trong giai đoạn hiện nay.

Thứ tư, các quy phạm pháp luật về cơ chế ba bên có nhiều quy định mới đáp ứng được yêu cầu thực tế khách quan.

2.3.2 Những hạn chế tồn tại

Bên cạnh tính hợp lý của các quy định pháp luật hiện hành về cơ chế ba bên, pháp luật về cơ chế ba bên vẫn còn bộc lộ một số hạn chế sau:

Thứ nhất, pháp luật hiện hành đã quy định Ủy ban quan hệ lao động có chức năng tư vấn tham mưu xây dựng chính sách pháp luật về quan hệ lao động.

Thứ hai, pháp luật ngoài quy định Ủy ban Quan hệ lao động, hiện nay vẫn chưa quy định và thành lập các Ban chuyên môn thực hiện vai trò hỗ trợ cho Ủy ban quan hệ lao động để xây dựng quan hệ lao động hài hòa ổn định và xây dựng chính sách pháp luật về lao động tầm vĩ mô.

Thứ ba, pháp luật đã quy định chủ thể của cơ chế ba bên nhưng lại chưa quy định sự phối hợp, tham mưu cụ thể của các chủ thể tham gia trong cơ chế ba bên.

Thứ tư, Nhà nước ta vẫn chưa ký kết một số Công ước quan trọng và nòng cốt liên qua đến cơ chế ba bên như: Công ước 87 và Công ước 98.

Thứ năm, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể cơ chế ba bên trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ lao động như: lĩnh vực thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội…

Kết luận Chương 2

Pháp luật về cơ chế ba bên đã quy định về chủ thể cơ chế ba bên và các thiết chế cho cơ chế ba bên thực thi có hiệu quả trong việc điều tiết quan hệ lao động trên bình diện vĩ mô. Cơ chế ba bên được quy định trong Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn và các văn bản hướng dẫn đã tạo lập hành langpháp lý để bảo vệ các bên tham gia quan hệ lao động.

Tuy nhiên, từ các phân tích về thực trạng pháp luật về cơ chế ba bên cho thấy, pháp luật về cơ chế ba bên còn hạn chế, bất cập hoặc có nhiều vấn đề chưa được quy định hoặc cụ thể hoá dẫn đến khó thực hiện hoặc không thể thực hiện. Nhiều vấn đề về cơ chế ba bên chưa phù hợp với thực tế. Nhiều vấn đề trong cơ chế ba bên còn chưa được ghi nhận một cách cụ thể. Chính vì vậy, hiệu quả áp dụng cơ chế ba bên trong thực tiễn còn hạn chế.

Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam
Cơ chế ba bên theo pháp luật lao động Việt Nam

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ BA BÊN Ở VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên

3.1.1. Khắc phục hạn chế của pháp luật hiện hành về cơ chế ba bên

Hệ thống pháp luật về cơ chế ba bên vẫn còn những hạn chế nhất định, việc vận dụng vào thực tiễn còn những khó khăn, vướng mắc, nhiều quy định của pháp luật vẫn chưa được lượng hóa, nhiều nội dung vẫn còn khoảng cách giữa văn bản và thực tế áp dụng.

3.1.2. Đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế

Để hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên, Nhà nước cần phải có hành lang pháp lý tương thích với hệ thống pháp luật quốc tế. Quan hệ lao động điều tiết phù hợp với thị trường lao động quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên phải sửa đổi, bổ sung các quy phạm tương thích với thực tế, ban hành mới những vấn đề còn bỏ ngỏ và kịp thời hướng dẫn những quy phạm khung.

3.2. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam

Khi hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên cũng cần tính đến yếu tố chính trị, điều kiện kinh tế xã hội của Nhà nước Việt Nam.Pháp luật về cơ chế ba bên chỉ phát huy hiệu quả khi triển khai trên thực tiễn nếu như pháp luật phù hợp với hệ thống chính trị, điều kiện kinh tế của Nhà nước Việt Nam.

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên đặt trong việc hoàn thiện các chế định khác nhau của Bộ luật Lao động

Hoàn thiện pháp luật về cơ chế ba bên cần được xem xét trong việc hoàn thiện pháp luật về tiền lương.

Hoàn thiện pháp luật vềcơ chế ba bên phải đặt trong việc hoàn thiện các chế định pháp lý khác của hệ thống pháp luật lao động.

3.3. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về cơ chế ba bên

Thứ nhất, pháp luật cũng nghiên cứu các kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc xây dựng và ban hành Luật Quan hệ lao động.

Thứ hai, nhà nước cần quy định bổ sung đại diện cho người sử dụng lao động có thành viên từ các hiệp hội ngành, nghề.

Thứ ba, pháp luật cần quy định và thành lập các Ban chuyên môn thực hiện vai trò hỗ trợ cho Ủy ban quan hệ lao động để xây dựng quan hệ lao động hài hòa ổn định và xây dựng chính sách pháp luật về lao động tầm vĩ mô.

Thứ tư, pháp luật cần quy định sự phối hợp, tham mưu cụ thể của các chủ thể tham gia trong cơ chế ba bên.

Thứ năm, Nhà nước cần ký kết một số Công ước quan trọng và nòng cốt liên qua đến cơ chế ba bên như: Công ước 87 và Công ước 98.

Thứ sáu, pháp luật cần bổ sung các quy định về chủ thể tham gia vào cơ chế ba bên trong các lĩnh vực khác nhau của quan hệ lao động.

Thứ bảy, pháp luật cần bổ sung thêm chức năng và nhiệm vụ của Ủy ban Quan hệ lao động ngoài các chức năng đã được pháp luật quy định.

Thứ tám, quy định thêm số lượng thành viên của Ủy ban quan hệ lao động. Tăng số thành viên từ 9 hiện nay lên 12 hoặc 15 và đảm bảo cơ cấu thành viên bằng nhau giữa các bên (mỗi bên 4 hoặc 5 thành viên).

Thứ chín, cần sửa đổi thành phần của Hội đồng xét xử theo hướng bổ sung nhân sự đại diện người sử dụng lao động.

3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cơ chế ba bên

3.4.1. Vai trò phối hợp của các chủ thể cơ chế ba bên trong tuyên truyền pháp luật lao động

3.4.2. Vai trò của tổ chức công đoàn

3.4.3. Vai trò tổ chức đại diện người sử dụng lao động

3.4.4. Xây dựng bộ công cụ đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các chủ thể trong cơ chế ba bên

3.4.5. Thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật lao động

Kết luận Chương 3

Pháp luật đã tôn trọng và bảo đảm cho việc thiết lập mối quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động, tổ chức đại diện lao động của người lao động và người sử dụng lao động, tạo hành lang pháp lý để các bên tham khảo ý kiến của nhau, lắng nghe ý kiến của công đoàn và người lao động, người sử dụng lao động trước khi quyết định các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động.

Tuy nhiên một số nội dung trong cơ chế ba bên vẫn còn chưa hiệu quả, còn nhiều yếu kém bộc lộ. Vì vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động cơ chế ba bên cần nghiên cứu các mô hình cơ chế ba bên trên thế giới để xem xét, đối chiếu với Việt Nam, từ đó học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia.

KẾT LUẬN

Cơ chế ba bên là một cơ chế phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và đại diện của người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.

Cơ chế ba bên được ghi nhận trong Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, hành lang pháp lý quy định về cơ chế ba bên còn nhiều hạn chế, bất cập. Chưa có nhiều tổ chức trung gian phối hợp hỗ trợ cho Ủy ban quan hệ lao động thực thi vai trò tham mưu, tư vấn về cơ chế ba bên. Chưa quy định cụ thể cơ chế ba bên trong một số chế định của Bộ luật Lao động. Trong thành phần Hội đồng xét xử vẫn chưa quy định sự tham gia của người lao động, người sử dụng lao động hoặc đại diện lao động của người lao động và người sử dụng lao động …

Thời gian tới, Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về cơ chế ba bên. Việc hoàn thiện các quy định về cơ chế ba bên cần phải đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn nhất định.Và vấn đề đặt ra trong hoàn thiện cơ chế ba bên hiện nay, chính là việc hoàn thiện cơ chế ba bên đồng bộ, toàn diện, bảo đảm tính thống nhất.Đồng thời, bảo đảm sự sửa đổi mang tính đồng bộ các chế định của Bộ luật Lao động.

Ngoài ra, cần có nhiều giải pháp đặt ra để nâng cao hiệu quả thực thi về cơ chế ba bên trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, cần có sự kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật trên thực tế để kịp thời có những sửa đổi cần thiết; song song với đó là việc kiện toàn về tổ chức cũng như nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao chất lượng cán bộ của tổ chức đại diện chính thức cho tập thể lao động – công đoàn, nâng cao vai trò của Nhà nước, người sử dụng lao động và tổ chức của người sử dụng lao động để tổ chức này thự sự là tổ chức đại diện cho quyền lợi người lao động và người sử dụng lao động.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC LUAT HUE\CƠ CHẾ BA BÊN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *