Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự

Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là một trong những cách thức thực hiện tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự gắn liền với việc hạn chế một số quyền, lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp ghi nhận, đảm bảo. Do vậy, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải hết sức thận trọng, khách quan, đúng căn cứ mà pháp luật tố tụng hình sự quy định.

Thực tiễn đã chứng minh rằng, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không tuân theo trình tự, thủ tục, xâm phạm các quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp, giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật; tạo cớ cho các thế lực thù địch xuyên tạc, vu cáo nhà nước ta vi phạm “nhân quyền”, chia rẽ Đảng, Nhà nước với Nhân dân. Qua thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng vẫn còn những hạn chế như trên. Do đó, việc nắm vững các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là điều hết sức quan trọng, cần thiết giúp các cơ quan thực thi pháp luật tránh được những sai sót, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” để làm luận văn tốt nghiệp, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở làm rõ thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng mà đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Làm rõ lý luận về các biện pháp ngăn chặn;

– Thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và làm rõ tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 – 2018; kết quả đạt được, nguyên nhân, những hạn chế, khó khăn và giải pháp.

– Phân tích các quy định của pháp luật TTHS về các BPNC liên quan đến đối tượng, thẩm quyền, điều kiện, thủ tục áp dụng;

– Dự báo về tình hình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn quận Cẩm Lệ thành phố Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn dựa trên các quan điểm khoa học, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về các BPNC, thực tiễn áp dụng các biện pháp đó trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nãng để nghiên cứu các vấn đề về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Để đạt hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra, luận văn tập trung làm rõ các vấn đề trọng tâm sau:

– Phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BPNC;

– Phân tích các quy định của pháp luật TTHS về BPNC có liên quan đến đối tượng, điều kiện, thẩm quyền, thủ tục áp dụng;

– Phân tích thực tiễn áp dụng BPNC trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, thực tiễn áp dụng các biện pháp đó trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, qua đó, có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng BPNC.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác–Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời quán triệt các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước và pháp luật trong đó có vấn đề áp dụng BPNC .

4.2. Phương pháp nghiên cứu

– Phương pháp nghiên cứu tài liệu

– Phương pháp thống kê, so sánh, phân tích tổng hợp.

– Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.

– Phương pháp tham khảo chuyên gia.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đánh giá chính xác thực tiễn áp dụng các BPNC trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, những kết quả và rút ra được nguyên nhân, khó khăn, bất cập và hạn chế, đưa ra những đề xuất, kiến nghị có cơ sở lý luận và thực tiễn.

Các kiến nghị, đề xuất này có giá trị tham khảo trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, học tập cho sinh viên, học viên các trường luật, cán bộ nghiên cứu…

7. Kết cấu của luận văn

Kết cấu luận văn gồm 3 chương, cụ thể:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự

Chương 2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về áp dụng biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP

NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm

1.1.1. Khái niệm, phân loại các biện pháp ngăn chặn

1.1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn

Các BPNC trong tố tụng hình sự là một trong những cách thức thực hiện tính quyền lực nhà nước do cơ quan chức năng, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự, thủ tục được quy định tại chương VII của BLTTHS năm 2015. “Trước đây, những biện pháp này được quy định trong luật 103-SL/005 ngày 20/5/1957, Sắc luật 002-SLt ngày 18/6/1957 và Sắc lệnh số 02-SL ngày 15/3/1976 bao gồm việc bắt, giam, tha, khám xét và được gọi là những biện pháp cưỡng chế” [40].

Qua quá trình nghiên cứu luật TTHS, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn dẫn đến hình thành khái niệm các BPNC đã, đang có nhiều quan điểm khác nhau giữa các nhà nghiên cứu. Qua nghiên cứu, tác giả trích dẫn một vài quan điểm như sau:

Có quan điểm cho rằng: “Những BPNC là những biện pháp cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” [4, tr.36]. Khái niệm trên đã làm rõ được đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo hoặc người chưa bị khởi tố nhưng bị bắt khẩn cấp hoặc quả tang, mục đích áp dụng là ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn chặn tội phạm. Tuy nhiên, khái niệm này lại chưa làm rõ được chủ thể áp dụng các BPNC.

Trong BLTTHS năm 2015 có hiệu lực từ 01/01/2018, mặc dù các nhà làm luật không đưa ra một khái niệm cụ thể về BPNC, song tại Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh” [37].

Từ quá trình nghiên cứu tác giả có thể nêu ra khái niệm BPNC, theo đó: “Các BPNC là biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với người bị buộc tội, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể áp dụng biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh”.

1.1.1.2. Phân loại biện pháp ngăn chặn

Căn cứ vào mục đích áp dụng thì các biện pháp ngăn chặn được quy định trong Bộ luật TTHS năm 2015 có thể chia thành 2 nhóm:

– Nhóm 1: bao gồm những biện pháp ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người bị buộc tội bỏ trốn hoặc gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án như: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.

– Nhóm 2: bao gồm các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo thu thập chứng cứ như: Áp giải, dẫn giải, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản.

1.1.2. Khái niệm áp dụng các biện pháp ngăn chặn

Tiến hành áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người đã, đang và sẽ thực hiện hành vi phạm tội được các nhà khoa học Việt Nam nói riêng, các nhà khoa học thế giới nói chung tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có những quan điểm khác nhau, nhưng nhìn chung đều nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, đặc biệt các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nước ta còn mang tính nhân văn sâu sắc.

Áp dụng biện pháp ngăn chặn thuộc một trong nhóm của biện pháp cưỡng chế, mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất buộc người phạm tội dừng ngay việc thực hiện hành vi phạm tội hay bỏ trốn tạo thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn khi được áp dụng sẽ tác động trực tiếp đến quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp ghi nhận.

Trên cơ sở khái niệm biện pháp ngăn chặn nói chung nêu trên và các quy định về biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh quy định tại các Điều 110, Điều 111, Điều 112, Điều 113,… BLTTHS 2015 rút ra khái niệm giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh như sau:

Khái niệm biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

“Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là trường hợp giữ người khi có căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn bắt người:

Trong giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2005, Biện pháp bắt người được tác giả viết: “Bắt người là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang thì áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự” [16].

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và để phù hợp từng hành vi phạm tội diễn ra trong thực tế, khoản 2, Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người bao gồm: Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Đối với trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã được thể hiện ở nội dung giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Do đó phạm vi nghiên cứu biện pháp bắt người trong phần này bao gồm: Bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giữ:

Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, những người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan tiến hành tố tụng.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm giam:

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo nhằm cách ly họ ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Khái niệm biện pháp bảo lĩnh:

Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam, có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức làm giấy cam đoan được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án đồng ý và cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn đặt tiền để bảo đảm:

Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam do Cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.

Khái niệm biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú:

“Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú cụ thể, có lý lịch rõ ràng nhằm đảm bảo sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan tiến hành tố tụng” [37].

Khái niệm biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất cảnh:

Tạm hoãn xuất cảnh là biện pháp ngăn chặn có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố nhằm ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Từ những các khái niệm trên, qua nghiên cứu có thể đưa ra khái niệm áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội như sau: “Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra là áp dụng biện pháp cưỡng chế trong TTHS do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, người bị truy nã hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”.

1.2. Đặc điểm của áp dụng các biện pháp ngăn chặn

1.2.1. Căn cứ áp dụng

Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015, căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong hoạt động điều tra vụ án bao gồm các căn cứ sau: 

– Để kịp thời ngăn chặn tội phạm

Mỗi tội phạm xảy ra đều gây nên những hậu quả nhất định cho các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, việc kịp thời ngăn chặn tội phạm trước khi tội phạm xảy ra hoặc trong khi tội phạm đang xảy ra có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo vệ kịp thời những đối tượng được pháp luật bảo vệ đang bị tội phạm xâm hại, góp phần tích cực vào việc ngăn ngừa và hạn chế hậu quả do tội phạm gây ra. Với ý nghĩa đó, để kịp thời ngăn chặn tội phạm được coi là một căn cứ để áp dụng các biện pháp ngăn chặn.

Như vậy, kịp thời ngăn chặn tội phạm là việc ngăn ngừa tội phạm khi nó đang trong quá trình chuẩn bị thực hiện hoặc khi nó đang diễn ra.

Đối tượng áp dụng: Người chưa bị khởi tố bao gồm người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt giữ do phạm tội quả tang.

Nội dung căn cứ: Khi có tài liệu, chứng cứ cho rằng một người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hay khi phát hiện một người đang thực hiện tội phạm.

– “Khi có đủ căn cứ, cơ sở chứng minh bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan tiến hành tố tụng”.

Đối tượng áp dụng: “Người bị buộc tội là bị can, bị cáo”.

Nội dung căn cứ: Khi có tài liệu, chứng cứ chứng tỏ bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội.

Để có có thể nhận định bị can, bị cáo có thể phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội thường dựa vào một số dấu hiệu sau: Hành vi thực tế đang diễn ra của bị can, bị cáo; nhân thân của bị can, bị cáo; điều kiện thực tế của bị can, bị cáo có thể sẽ tiếp tục phạm tội.

– Để bảo đảm thi hành án

Để bảo đảm thi hành án là việc bảo đảm các phán quyết của Tòa án khi có hiệu lực sẽ được thực thi đúng pháp luật.

Một người đã có bản án của Tòa án nhưng bản án này chưa có hiệu lực, xét thấy người đó sẽ gây khó khăn cho hoạt động thi hành án trong thời gian chờ bản án này có hiệu lực thì cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn.

1.2.2. Chủ thể áp dụng

Theo quy định tại Điều 109 BLTTHS 2015, “chủ thể áp dụng là cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng” [37].

1.2.3. Trình tự, thủ tục áp dụng

Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt tù, nếu có căn cứ cho rằng bị cáo có thể bỏ trốn hoặc tiếp tục gây án thì tòa án có thể quyết định bắt giam ngay để đảm bảo thi hành án.

Đối với bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị Tòa án cấp phúc thẩm phạt tù thì Tòa án ra quyết định bắt giam ngay để đảm bảo thi hành án, trừ trường hợp hoãn thi hành hình phạt tù.

1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự

1.3.1. Các yếu tố tác động đến quy định các biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự

Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn vào thực tiễn cuộc sống có rất nhiều yếu tố tác động đến như: hệ thống văn bản còn chưa đồng bộ, chưa mang tính cụ thể; áp dụng biện pháp ngăn chặn tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là quyền tự do thân thể do Hiến pháp quy định; Năng lực chuyên môn của các nhà làm luật cũng tác động không nhỏ đến việc áp dụng pháp luật. Qua đó, ta thấy các yếu tố sau có thể tác động trực tiếp đến việc áp dụng pháp luật:

Thứ nhất, hệ thống pháp luật đặc biệt là hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tác động rất lớn hay áp dụng các BPNC trong luật TTHS Việt Nam.

Từ thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong công tác điều tra khám phá tội phạm nhằm hoàn thiện các quy định, quy phạm pháp luật liên quan đến các biện pháp ngăn chặn ngày 01/01/2018 Bộ luật TTHS năm 2015 đã chính thức có hiệu lực cơ bản đã đáp ứng yêu cầu thực tiễn về trình tự, thủ tục của việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự nói chung và về các BPNC nói riêng.

Thứ hai, Xuất phát từ thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong công tác phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Trong khi tiến hành áp dụng biện pháp ngăn chặn, có thời điểm việc áp dụng biện pháp này hay biện pháp khác cần có sự chính xác một cách toàn diện. Đã có thời điểm vì việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đại trà, giữ người trong trường hợp khẩn cấp không đúng quy định của pháp luật dẫn đến việc bắt oan. Đã có những ý kiến cho rằng cần phải bãi bỏ biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp cần thiết dùng để ngăn chặn ngay người có hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng, cũng như khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người phạm tội trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ của vụ án. Chính vì thế, không thể bãi bỏ biện pháp ngăn chặn này được.

Thứ ba, năng lực chuyên môn của các nhà làm luật cũng tác động lớn đến việc quy định các biện pháp ngăn chặn.

Trong thực tiễn thực hiện pháp luật ở nước ta, năng lực chuyên môn của các nhà làm luật cũng tác động lớn đến việc quy định các biện pháp ngăn chặn. Thực tế đã chứng minh nếu nhà làm luật ngồi viết luật, để áp dụng luật vào thực tiễn công tác điều tra, khám phá tội phạm. Bên cạnh đó, nhà làm luật là người có năng lực chuyên môn cao thì việc sắp xếp khoa học, đồng bộ, có hướng dẫn cụ thể, rõ ràng cũng góp phần cho việc triển khai thực hiện áp dụng pháp luật.

1.3.2. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Việc áp dụng các BPNC trong vụ án hình sự là hoạt động tố tụng hết sức phức tạp, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản của con người được Hiến pháp quy định. Do vậy, khi cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn phải thận trọng, khách quan, đúng quy định của pháp luật. Việc đó đòi hỏi phải dựa trên rất nhiều yếu tố, như:

– Nội dung của các quy phạm pháp luật TTHS về các BPNC trong TTHS

Các quy phạm pháp luật về các BPNC được quy định tại Chương VII của Bộ luật TTHS Việt Nam năm 2015 có hiệu lực từ 01/01/2018. BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung thêm rất nhiều quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của việc áp dụng các BPNC. Điều này góp phần làm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được nhanh chóng, chính xác hơn. Tuy nhiên, vẫn còn một số các quy định giải thích và hướng dẫn về các BPNC còn chưa hợp lý làm cho việc áp dụng trong thực tế thi hành các biện pháp ngăn chặn còn chưa phù hợp dẫn đến chưa chính xác dễ xảy ra oan sai.

– Năng lực, trách nhiệm, ý thức của người áp dụng các BPNC

TTHS là các quy phạm có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, cán bộ tiến hành tố tụng phải là những người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, đảm bảo các tiêu chuẩn theo quy định, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động điều tra không để xảy ra oan, sai.

Quá trình thực thi, áp dụng các BPNC trong từng vụ án hình sự cụ thể chịu tác động không nhỏ bởi yếu tố khách quan của người áp dụng các BPNC. Điều tra viên là người được Thủ trưởng CQĐT phân công trực tiếp thụ lý các vụ án, tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng họ không có quyền áp dụng BPNC mà chỉ có trách nhiệm, nghĩa vụ tham mưu cho Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT các cấp trong việc áp dụng các BPNC. Quá trình thực thi pháp luật TTHS chịu tác động rất lớn từ năng lực chuyên môn, kinh nghiệm của Điều tra viên, bởi điều tra viên có hiểu biết rộng, nắm vững pháp luật sẽ giúp Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng hạn chế thấp nhất sai phạm. Mặt khác, Điều tra viên có kiến thức hạn chế, chưa nghiên cứu sâu về các biện pháp ngăn chặn, chưa hiểu hết ý nghĩa của các biện pháp ngăn chặn về đối tượng áp dụng, căn cứ áp dụng, thẩm quyền, thủ tục và thời hạn áp dụng các BPNC, cũng như chưa nghiên cứu sâu các văn bản hướng dẫn thi hành thì rất dễ dẫn đến việc áp dụng các BPNC một cách tuỳ tiện, không đầy đủ và thiếu chính xác.

Tiểu kết Chương 1

BPNC là những biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với người bị buộc tội, khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để đảm bảo thi hành án.

Trải qua hơn 30 năm thi hành các bộ luật tố tụng hình sự áp dụng các quy phạm pháp luật về bắt người, tạm giữ, tạm giam …Pháp luật tố tụng hình sự ngày càng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta. Ngày 01/01/2018 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 chính thức có hiệu lực mở ra một trang mới trong việc thực thi pháp luật tố tụng cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn đã được thay đổi,đảm bảo tốt hơn mục đích TTHS, phù hợp với thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ở Việt Nam.

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

2.1. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 về áp dụng các biện pháp ngăn chặn

2.1.1. Biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là tiến hành giữ người khi có đủ căn cứ, cơ sở để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ nhằm đảm bảo cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015 thì khi thuộc một trong các trường hợp sau đây thì được giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

Trường hợp 1: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trong trường hợp này, Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có đủ thông tin, tài liệu để xác định một người cụ thể đang chuần bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng về một trong các tội phạm được quy định tại các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài những tội danh nêu trên thì không được tạm giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Tuy nhiên đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ có thể giữ người trong trường hợp khẩn cấp khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm quy định tại điều 123 và Điều 168 của Bộ luật hình sự 2015.

Trường hợp 2: Đồng phạm, người bị hại, người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy, xác nhận đúng là người đã thực hiện hành vi phạm tội, xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình;

Để giữ người trong trường hợp này cần phải có đủ hai điều kiện:

– Thứ nhất: Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm.

Chính mắt nhìn thấy được hiểu là họ trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội xảy ra chứ không phải do nghe người khác kể lại, thuật lại. Xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm là sự khẳng định một người cụ thể nào đó đã thực hiện tội phạm thông qua những dấu hiệu nhận biết nào đó chứ không phải là sự phỏng đoán hay nghi vấn.

– Thứ hai: Cần tiến hành ngăn chặn ngay việc người đó trốn nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có căn cứ cho rằng nếu không bắt giữ họ thì có thể họ sẽ bỏ trốn gây khó khăn cho công tác điều tra, khám phá vụ án. Việc nhận định một người có khả năng bỏ trốn hay không bỏ trốn. Cơ quan chức năng có thẩm quyền căn cứ vào hành vi của người đó, căn cứ vào nhân thân, lai lịch, hành vi phạm tội và điều kiện thực tế của người đó.

Trường hợp 3: “Có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ” [83].

Dấu vết tội phạm là những phản ánh vật chất có liên quan đến tội phạm tồn tại trên vật mang vết như: Dấu vết máu trên quần áo, dấu vết trầy xước trên phương tiện giao thông. Khi phát hiện có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc trên phương tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành giữ người bị nghi thực hiện tội phạm đó trong trường hợp khẩn cấp.

Chú ý: Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì ngoài các căn cứ trên đây chỉ có thể áp dụng biện pháp này đối với họ về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật hình sự. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị giữ trong trường hợp khẩn cấp về tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng (Điều 419 Bộ luật TTHS năm 2015).

Những người có quyền ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp được quy định tại Khoản 2, Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

* Trình tự, thủ tục:

Khi tiến hành giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có lệnh của cơ quan điều tra và lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải có sự phê chuẩn của Viện Kiểm sát cùng cấp. Còn công tác tiến hành bắt, công cụ, phương tiện, … do cơ quan điều tra thực hiện theo đúng quy trình, quy định của pháp luật. Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và lập biên bản về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp; giao lệnh cho người bị giữ.

Tại Điểm 4, Điều 110, BLTTHS năm 2015 quy định thời gian giữ người trong trường hợp khẩn cấp như sau: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a và điểm b khoản 2, Điều 110 Bộ luật TTHS năm 2015 phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó. Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn” [37].

Bên cạnh đó, Bộ luật tố tụng hình sự 2015 cũng quy định rõ khi tiếp nhận, bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì những người có thẩm quyền phải giải ngay người bị bắt kèm theo tài liệu, chứng cứ có liên quan đến sân bay, bến xe, bến cảng.. đi chuyến đầu tiên trở về cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải tiến hành lấy ngay lời khai báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra đó phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc trả tự do ngay cho người đó nếu không có chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đó.

Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo tất cả tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn lệnh bắt.

Trong vòng 12 giờ khi nhận hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn về bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp thì VKS phải ra ngay quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn để cơ quan điều tra tiến hành thực hiện.

Theo điểm 5, Điều 110 BLTTHS năm 2015 thì Hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp gồm:

– “Văn bản đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”; “Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, quyết định tạm giữ”; “Biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp”; “Biên bản ghi lời khai của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”; “Chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp” [37].

– Thông báo về việc giữ người, bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp.

Sau khi giữ người, bắt người, người ra lệnh giữ người, quyết định bắt người phải thông báo ngay cho những người liên quan theo quy định của luật biết. Tuy nhiên, trong một số trường hợp việc thông báo có thể gây cản trở truy bắt đối tượng khác hoặc cản trở điều tra thì sau khi những cản trở đó không còn, người ra lệnh giữ người, lệnh hoặc quyết định bắt người, Cơ quan điều tra nhận người bị giữ, người bị bắt phải thông báo ngay cho cho gia đình người bị giữ, bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết.

2.1.2. Biện pháp bắt

Bắt là biện pháp ngăn chặn được cơ quan chức năng có thẩm quyền áp dụng đối với người bị buộc tội, người đang bị truy nã, người bị yêu cầu dẫn độ nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa người phạm tội trốn tránh pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và để phù hợp từng hành vi phạm tội diễn ra trong thực tế, khoản 2, Điều 109 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định các trường hợp bắt người bao gồm: bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người bị yêu cầu dẫn độ.

Đối với trường hợp bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đã được thể hiện ở nội dung giữ người trong trường hợp khẩn cấp; trường hợp bắt người bị yêu cầu dẫn độ sẽ được nghiên cứu trong phần hợp tác quốc tế ở các bậc học cao hơn. Do đó phạm vi nghiên cứu biện pháp bắt người trong phần này bao gồm: Bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã và bắt bị can, bị cáo để tạm giam.

– Bắt người phạm tội quả tang:

Bắt người phạm tội quả tang là trường hợp bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt để phục vụ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử.

Căn cứ quy định tại khoản 1, Điều 111 Bộ luật TTHS năm 2015 thì bắt người phạm tội quả tang trong 3 trường hợp sau:

Trường hợp 1: Người đang thực hiện tội phạm thì bị phát hiện.

Đây là trường hợp một người đang thực hiện hành vi phạm tội được mô tả trong một cấu thành tội phạm cụ thể (Ví dụ: đang dùng dao đâm, chém người khác, đang dùng súng uy hiếp để cướp tài sản) thì tội phạm bị phát hiện. Hành vi phạm tội có thể đã gây ra hậu quả của tội phạm hoặc chưa gây ra hậu quả, có thể thực hiện trong một thời gian ngắn hoặc trong một thời gian dài (hành vi tàng trữ trái phép vũ khí, quân dụng, chất ma tuý).

Trường hợp 2: Ngay sau khi người đó thực hiện tội phạm thì bị phát hiện và bị bắt giữ.

Trường hợp này người phạm tội vừa thực hiện xong tội phạm, chưa kịp chạy trốn, xóa dấu vết thì bị phát hiện. Thông thường sự có mặt của người phạm tội tại hiện trường kết hợp cùng dấu vết tội phạm mà họ gây ra là chứng cứ để buộc họ mà họ không thể chối cãi về hành vi phạm tội của mình. Tuy nhiên, trong trường hợp người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chứng kiến việc người đó thực hiện tội phạm, mặc dù không có công cụ, phương tiện phạm tội cũng có thể bắt trong trường hợp quả tang.

Trường hợp 3: Ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện, người đó bỏ chạy và bị đuổi bắt.

Đây là trường hợp người phạm tội đang thực hiện tội phạm hoặc vừa thực hiện xong tội phạm thì bị phát hiện và bỏ chạy, người bị hại hoặc người khác có mặt tại nơi xảy ra tội phạm phát hiện đã hô hoán cùng mọi người đuổi theo bắt giữ.

Việc phát hiện người phạm tội và việc đuổi theo bắt giữ phải diễn ra liên tục về mặt thời gian, không gian và đối tượng. Nếu việc phát hiện, đuổi theo và bắt giữ bị gián đoạn thì không phải là bắt người phạm tội quả tang, như trường hợp: phát hiện được người phạm tội và đuổi theo nhưng không bắt được, người phạm tội đã trốn thoát, vài ngày sau mới phát hiện thì không được bắt trong trường hợp phạm tội quả tang.

* Thẩm quyền bắt người phạm tội quả tang:

Khi phát hiện người phạm tội quả tang thì bất kì người nào cũng có quyền bắt và có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt.

* Trình tự, thủ tục:

Sau khi bắt người phạm tội quả tang phải giải ngay người bị bắt đến cơ quan chính quyền địa phương nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản tiếp nhận và giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Theo quy định tại khoản 3, điều 111 BLTTHS năm 2015: “Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt giữ người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền” [37].

Khi tiếp nhận người phạm tội quả tang do quần chúng nhân dân hoặc cơ quan khác bàn giao, Cơ quan điều tra phải lập biên bản về việc giao nhận người bị bắt. Biên bản giao nhận phải ghi rõ việc bàn giao biên bản lấy lời khai, tài liệu, đồ vật, chứng cứ đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt như sức khỏe tốt, bình thường, tay chân không gãy, không có vết trầy xước…và những tình tiết xảy ra khi giao nhận.

Khi tiếp nhận người phạm tội tang bị bắt giữ, Cơ quan điều tra phải tiến hành lấy lời khai ngay, trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.

Thông báo về việc bắt người phạm tội quả tang: Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã quy định cụ thể thời gian thông báo cho gia đình người bị bắt, chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập biết là trong vòng 24 giờ; trường hợp người bị bắt là công dân nước ngoài thì phải thông báo cho cơ quan ngoại giao của Việt Nam để thông báo cho Đại sứ quán có công dân bị bắt. Trong trường hợp việc thông báo có thể ảnh hưởng đến việc truy bắt các đối tượng khác, cản trở điều tra khám phá vụ án thì ngay sau khi những cản trở đó không còn phải tiến hành thông báo ngay.

– Bắt người đang bị truy nã:

Người đang bị truy nã là người đã có quyết định truy nã của cơ quan chức năng thẩm quyền. Cụ thể là bị can, bị cáo, người bị kết án, người đang chấp hành án nhưng lại trốn khỏi nơi giam giữ, cải tạo mà các cơ quan có thẩm quyền không biết rõ họ như thế nào, ở đâu.

Bắt người đang bị truy nã là trường hợp quần chúng nhân dân, cơ quan chức năng có thẩm quyền phát hiện người đang có quyết định truy nã và bắt giữ.

Điều kiện bắt người đang bị truy nã:

Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; Người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn; Người bị kết án phạt tù bỏ trốn; Người bị kết án tử hình bỏ trốn; Người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn;

Người bị truy nã đang có lệnh truy nã của cơ quan có thẩm quyền.

* Thẩm quyền bắt người đang bị truy nã:

Theo quy định tại khoản 2, điều 112 BLTTHS năm 2015 thì: “Khi bắt người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt” [37].

* Trình tự, thủ tục:

Về cơ bản thủ tục bắt người đang bị truy nã giống với trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Tuy nhiên đối với trường hợp bắt người đang bị truy nã cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, khi bắt người bị truy nã hoặc tiếp nhận người truy nã bị bắt theo quyết định truy nã của cơ quan chức năng có thẩm quyền, Cơ quan điều tra phải tiến hành lấy lời khai ngay, trong thời hạn 12 giờ phải ra quyết định tạm giữ người bị truy nã hoặc trả tự do cho người bị truy nã nếu không có đủ căn cứ theo luật định.

Thứ hai, khi đã lấy lời khai người bị bắt theo quyết định truy nã xong thì Cơ quan điều tra tiếp nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho Cơ quan đã ra quyết định truy nã đối tượng đến nhận người bị truy nã. Một điều quan trọng, cần thiết hơn là khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã đối với đối tượng đã bị bắt.

Trường hợp cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết; nếu đã hết thời hạn tạm giữ mà cơ quan ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt gia hạn tạm giữ và gửi ngay quyết định gia hạn tạm giữ kèm theo tài liệu liên quan cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn.

Về phần mình, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra tiến hành tiếp nhận người bị bắt và điều tra theo thẩm quyền. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt truy nã phải tiến hành dẫn giải ngay bị bắt đến Trại tạm giam nơi gần nhất tiến hành giam giữ theo quy định.

Trường hợp người bị bắt có nhiều quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra nhận người bị bắt chuyển giao người bị bắt cho cơ quan đã ra quyết định truy nã nơi gần nhất.

– Bắt bị can, bị cáo để tạm giam:

Bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự hoặc người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam nhằm phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự theo đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ theo quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015 thì việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam có thể được áp dụng trong các trường hợp sau:

Trường hợp 1: Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

Trường hợp 2: Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà có khung hình phạt từ 2 năm trở lên và đảm bảo các căn cứ theo quy định.

Trường hợp 3: Nếu bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định khung hình phạt tù đến 02 năm và họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn, bị bắt theo quyết định truy nã thì vẫn tiến hành bắt để tạm giam theo quy định.

Tuy nhiên xuất phát từ tính nhân đạo của chính sách hình sự, thì đối với với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; tiếp tục phạm tội; có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật TTHS năm 2015 thì những người sau đây có thẩm quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành”; “Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp”; “Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp”; “Hội đồng xét xử” [37].

* Trình tự, thủ tục:

Việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam phải có lệnh. Người được phân công thi hành lệnh bắt phải đọc lệnh bắt, tiến hành giải thích lệnh, giải thích quyền và nghĩa vụ của người bị bắt; tiến hành lập biên bản về việc bắt; bàn giao lệnh, quyết định cho người bị bắt;

Tiến hành bắt người tại nơi người đó sinh sống, cư trú phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến và ký vào biên bản.

Tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc, học tập phải có đại diện đơn vị, cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập chứng kiến và ký vào biên bản.

Tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người;

Tuy nhiên, không giống như biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người đang bị truy nã thì việc bắt bị can bị cáo để tạm giam không được tiến hành vào ban đêm (tức là từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau).

Thông báo về việc bắt người thực hiện theo quy định tại Điều 116 Bộ luật TTHS năm 2015;

Thủ tục về việc chăm nom người thân thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giam thực hiện theo quy định tại Điều 120 Bộ luật TTHS năm 2015

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\HINH SU\NGUYEN QUANG THONG\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *