Thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn

Thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn

Thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Sau hơn 30 năm đổi mới, nông nghiệp Việt Nam đạt được mức tăng trưởng nhanh và ổn định trong một thời gian dài, cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực. Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế sâu và rộng, việc ký kết, thực thi và đang đàm phán tổng cộng 16 hiệp định thương mại tự do sẽ tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Nông nghiệp nói riêng. Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang các đối tác trong AEC, TPP, EVFTA, các cơ chế khác, rộng hơn là WTO… nên tác động của những cơ chế liên kết này lên kim ngạch xuất khẩu sẽ là không nhiều. những cơ hội mới từ hội nhập, nông nghiệp sẽ đón những dòng đầu tư mới, nhất là đầu tư vào nông nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ ngành Nông nghiệp – những lĩnh vực hiện nay còn bỏ ngỏ do thiếu nguồn lực. Tuy nhiên, năng lực sản xuất của ngành Nông nghiệp Việt Nam là vô cùng lớn nhưng giá thành của nhiều sản phẩm còn cao, do công nghiệp hỗ trợ ngành Nông nghiệp yếu, năng suất lao động thấp, trong khi thị trường nông sản nội địa đang có sự cạnh tranh quyết liệt ở tất cả các phân khúc. Môi trường ở nông thôn cũng chưa được quản lý tốt. Ô nhiễm nước thải, khí thải ở các khu công nghiệp, làng nghề đang trực tiếp làm suy thoái môi trường, gây nguy hiểm cho sinh kế bền vững của người dân và làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản. Mức độ đầu tư toàn xã hội cho nông nghiệp thấp, việc xây dựng nền nông nghiệp công nghệ cao chậm chuyển biến, chưa tạo đột phá để nâng cao giá trị gia tăng và tạo cơ sở vững chắc cho chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả bền vững. Cán bộ có đủ năng lực chủ trì đề tài nghiên cứu đưa lại kết quả cao chiếm tỷ lệ thấp, còn thiếu cán bộ đầu ngành giỏi…

Đại hội Đảng bộ huyện Hiệp Đức lần thứ VIII, trong 5 năm qua tổng giá trị sản xuất nông – lâm – thủy sản của địa phương đạt xấp xỉ 451 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 7,25%, vượt 1,25% so với nghị quyết đề ra. Ngoài việc phát triển mạnh lĩnh vực chăn nuôi theo hướng tập trung, những năm tới Hiệp Đức sẽ tiếp tục duy trì các mô hình trồng rừng nguyên liệu giấy. Cạnh đó, nếu giá mủ cao su ở mức cao và thị trường tiêu thụ ổn định thì từ nay đến năm 2020 địa phương sẽ tiến hành quy hoạch, hỗ trợ nông dân mở rộng thêm khoảng 1.000ha cao su tiểu điền. Thời gian qua việc phát triển các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng tập trung, an toàn sinh học đã mang lại hiệu quả hết sức thiết thực cho người dân Hiệp Đức. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức, triển khai thực hiện phát triển ngành nông nghiệp huyện Hiệp Đức cũng gặp nhiều khó khăn, hạn chế. Trong những năm tới, chính quyền địa phương và các ngành liên quan sẽ tiếp tục quan tâm hỗ trợ nhân dân cũng như các doanh nghiệp nhân rộng mô hình này. Xuất phát từ những nội trên nên tôi chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” để làm Luận văn tốt nghiệp.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành, các giải pháp thực hiện tốt hơn chính sách phát triển ngành nông nghiệp tại địa phương.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hoá cơ sở lý luận và những căn cứ pháp lý của ngành nông nghiệp và phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện trong những năm qua, rút ra những ưu điểm, tồn tại, những nguyên nhân và các tác động của nó đến quá trình phát triển kinh tế xã hội tại địa phương. 

Nghiên cứu, định hướng và có những giải pháp để thực hiện tốt hơn chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện, góp phần xây dựng huyện Hiệp Đức phát triển bền vững.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu công tác thực hiện phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Đức.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

+ Không gian: Trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

+ Thời gian: từ năm 2015 đến 2019.

+ Vấn đề nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện Hiệp Đức.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về chính sách phát triển ngành nông nghiệp và thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Quá trình nghiên cứu, học viên đã sử dụng các phương pháp phân tích, diễn giải, quy nạp để đưa ra những khái niệm, đặc điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp ở một số địa phương. Học viên sử dụng phương pháp thống kê, thu thập số liệu, so sánh, phân tích ở chương 2 để đưa ra những đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp tại huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam. Đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện tốt hơn chính sách phát triển ngành nông nghiệp trên địa bàn huyện.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Hệ thống hoá cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp.

Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành nông nghiệp tại huyện Hiệp Đức từ năm 2015 đến năm 2019. Khái quát những kết quả đạt được, hạn chế tồn tại và nguyên nhân của hạn chế trong lĩnh vực này. 

Đề xuất những giải pháp phù hợp với thực tiễn huyện Hiệp Đức nhằm thực hiện tốt hơn chính sách phát triển ngành nông nghiệp tại địa phương trong thời gian đến.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đây là một trong những nguồn tài liệu tham khảo của các cấp, các ngành, các chuyên gia có một cách nhìn toàn diện, xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp trong ngành nông nghiệp tại các địa phương, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay.

7. Kết cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Quan điểm, mục tiêu và giải pháp thực hiện tốt hơn chính sách phát triển nông nghiệp trên địa bàn Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN

MỘT CHÍNH SÁCH CÔNG

1.1. Một số khái niệm, vai trò và đặc điểm của nông nghiệp

1.1.1. Một số khái niệm

* Khái niệm nông nghiệp

Nông nghiệp là một ngành kinh tế quốc dân, một trong những bộ phận chủ yếu của sản xuất vật chất, sản xuất thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp. Trong nông nghiệp, việc sản xuất sản phẩm không những gắn liền với quá trình kinh tế, mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản xuất. Nông nghiệp bao gồm hai tổng hợp ngành: ngành trồng trọt và chăn nuôi.

Trong nông nghiệp ruộng đất là một trong những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đặc điểm của ruộng đất với tư cách tư liệu sản xuất là: nếu sử dụng ruộng đất đúng đắn, thì độ phì của đất không bị cạn kiệt, mà tăng lên. Đặc trưng cho nông nghiệp là tính chất thời vụ của những công việc quan trọng nhất về sản xuất, sản phẩm, là sự tách rời khá lớn giữa thời gian sản xuất và thời kỳ làm việc do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp tạo nên. 

Nông nghiệp truyền thống Việt Nam là một nền nông nghiệp thâm canh lúa nước và trồng màu, nay đã phân chia thành nhiều ngành sản xuất. Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những tiến bộ, sản xuất nông nghiệp trở nên phong phú và đa dạng, phát huy được tiềm năng của các vùng tự nhiên đồng bằng, trung du, miền núi, bộ giống cây (nhất là lúa và giống cây lương thực) và vật nuôi được cải biến; hệ thống thủy lợi phát triển; phân bón và thuốc trừ sâu được cung cấp tương đối đầy đủ. Sản lượng và năng suất trồng trọt và chăn nuôi đều tăng rõ rệt.

Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản trong xã hội, hoạt động bằng cách sử dụng đất để trồng trọt, chăn nuôi nhằm tạo ra những sản phẩm chính là lương thực, thực phẩm mà chúng ta sử dụng hàng ngày [1]

* Khái niệm sản xuất nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp là việc chúng ta có vốn ban đầu là đất, là nước, là giống cây trồng, vật nuôi ta sẽ tự sản xuất nông sản trên chính những gì mình có.

Sản xuất nông nghiệp không chỉ là làm ra lương thực, thực phẩm mà nó còn bao gồm cả khâu sơ chế và chế biến sản phẩm để có thể đưa ra tiêu thụ bên ngoài thị trường.

Sản xuất nông nghiệp là vấn đề phức hợp nhiều công đoạn cộng hưởng lại với nhau chứ không chỉ hoạt động một cách riêng rẽ, độc lập.

* Cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nông nghiệp bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp là lĩnh vực sản xuất vật chất nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm cho con người, làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp và làm nguồn hàng cho xuất khẩu. Sự chuyển đổi cơ cấu KTNN gắn liền với các hoạt động SXNN, phụ thuộc vào sự thay đổi cơ cấu nền kinh tế của một quốc gia. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một tổng thể bao gồm các mối quan hệ tương quan giữa các yếu tố của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp trong khoảng thời gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể (Bùi Tất Thắng, 2006).

Cơ cấu KTNN phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, chúng ta có thể phân chia cơ cấu KTNN thành các nhóm sau:

– Nhóm nhân tố tự nhiên: Quá trình SXNN phụ thuộc rất lớn vào yếu tố tự nhiên. Nếu tự nhiên thuận lợi thì SXNN sẽ thuận lợi và ngược lại. Các nhân tố tự nhiên bao gồm như đất đai, khí hậu, thời tiết…

– Nhóm nhân tố về kinh tế và tổ chức: bao gồm các nhân tố như: Con người, vốn, hệ thống chính sách pháp luật… những nhân tố này tác động mạnh mẽ đến quá trình CDCC kinh tế nói chung và KTNN nói riêng.

– Nhóm nhân tố về kĩ thuật: tác động mạnh mẽ tới cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu KTNN nói riêng, nó tạo ra những cơ hội và thách thức đối với nền SXNN, thông qua việc thay đổi phương thức canh tác, chế biến và bảo quản SPNN, không ngừng tăng năng suất và chất lượng SPNN [54]

* Khái niệm thực hiện chính sách

Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là toàn bộ quá trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống. Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng nhưng thực hiện đúng chính sách còn quan trọng hơn [43, tr.1]

1.1.2. Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân

Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực thực phẩm cho nhu cầu xã hội

Lương thực thực phẩm là yếu tố đầu tiên, có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày càng cao thì nhu cầu của con người về lương thực, thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Điều đó do tác động của các nhân tố: sự gia tăng dân số và nhu cầu nâng cao mức sống của con người.

Cung cấp yếu tố đầu vào cho phát triển công nghiệp và khu vực đô thị

Nông nghiệp của các nước đang phát triển là khu vực dự trữ và cung cấp lao động cho phát triển công nghiệp và đô thị.

Khu vực nông nghiệp còn cung cấp nguồn nguyên liệu to lớn cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thông qua công nghiệp chế biến, giá trị của sản phẩm nông nghiệp nâng lên nhiều lần, nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá, mở rộng thị trường… Nguồn vốn từ nông nghiệp có thể được tạo ra bằng nhiều cách, như tiết kiệm của nông dân đầu tư vào các hoạt động phi nông nghiệp, thuế nông nghiệp, ngoại tệ thu được do xuất khẩu nông sản… trong đó thuế có vị trí rất quan trọng.

Làm thị trường tiêu thụ của công nghiệp và dịch vụ

Nông nghiệp và nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn của công nghiệp. Ở hầu hết các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp, bao gồm tư liệu tiêu dùng và tư liệu sản xuất. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp, nông thôn sẽ có tác động trực tiếp đến sản lượng ở khu vực phi nông nghiệp.

Nông nghiệp tham gia vào xuất khẩu

Nông nghiệp là ngành mang lại nguồn thu nhập ngoại tệ khá lớn, nhiều loại nông, lâm, thủy sản thâm nhập thị trường quốc tế dễ dàng hơn so với các loại hàng hóa công nghiệp. Vì vậy, các nước đang phát triển muốn có lượng lớn ngoại tệ thì phải dựa vào nguồn xuất khẩu các loại mặt hàng nông, lâm, thủy sản. Nhưng việc xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản thường gặp nhiều bất lợi do giá các sản phẩm công nghiệp tăng lên, giá các mặt hàng nông sản trên thị trường lại có xu hướng giảm xuống, tỷ giá khoảng cách giữa sản phẩm công nghiệp và hàng nông nghiệp ngày càng nới rộng làm cho hàng hóa nông nghiệp ở nông thôn thua thiệt so với sản phẩm công nghiệp.

Nông nghiệp có vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường

Nông nghiệp và nông thôn có vai trò to lớn, là cơ sở trong sự phát triển bền vững của môi trường vì sản xuất nông nghiệp gắn liền trực tiếp với môi trường tự nhiên: đất đai, khí hậu, thời tiết, thủy văn. Quá trình canh tác, sản xuất nông nghiệp dễ gây ra xói mòn ở các triền dốc thuộc vùng đồi núi và khai hoang mở rộng diện tích đất rừng. Vì thế cần tìm những giải pháp thích hợp để duy trì và tạo ra sự phát triển bền vững của môi trường [56, tr.5-7]

1.1.3. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp

– Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế

Đây là đặc điểm quan trọng phân biệt nông nghiệp với công nghiệp. Sản xuất nông nghiệp cần phải có đất đai. Quy mô và phương hướng sản xuất mức độ thâm canh và cả việc tổ chức lãnh thổ phụ thuộc nhiều vào đất đai. Đặc điểm này đòi hỏi trong sản xuất nông nghiệp phải duy trì và nâng cao độ ph cho đất, phải sử dụng hợp lí và tiết kiệm đất.

– Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các cây trồng và vật nuôi

Đó là các sinh vật, các cơ thể sống, sinh trưởng và phát triển theo các quy luật sinh học và chịu tác động rất lớn của quy luật tự nhiên. Vì vậy, việc hiểu biết và tôn trọng các quy luật sinh học, quy luật tự nhiên là một đòi hỏi quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp.

– Sản xuất nông nghiệp có tính mùa vụ

Đây là đặc điểm điển hình của sản xuất nông nghiệp, nhất là trong trồng trọt. Thời gian sinh trưởng và phát triển của cây trồng, vật nuôi tương đối dài, không giống nhau và thông qua hàng loạt giai đoạn kế tiếp nhau. Thời gian sản xuất bao giờ cũng dài hơn thời gian lao động cần thiết để tạo ra sản phẩm cây trồng hay vật nuôi. Sự không phù hợp nói trên là nguyên nhân gây ra tính mùa vụ. Để khắc phục tình trạng này, cần thiết phải xây dựng cơ cấu nông nghiệp hợp lí, đa dạng hóa sản xuất (tăng vụ, xen canh, gối vụ), phát triển ngành nghề dịch vụ.

– Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên

Đặc điểm này bắt nguồn từ đối tượng lao động của nông nghiệp là cây trồng và vật nuôi. Cây trồng và vật nuôi chỉ có thể tồn tại và phát triển khi có đủ năm yếu tố cơ bản của tự nhiên là nhiệt độ, nước, ánh sáng, không khí và dinh dưỡng. Các yếu tố này kết hợp chặt chẽ với nhau, cùng tác động trong một thể thống nhất và không thể thay thế nhau.

– Trong nền kinh tế hiện đại, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất hàng hóa

Biểu hiện cụ thể của xu hướng này là việc hình thành và phát triển các vùng chuyên môn hóa nông nghiệp và đẩy mạnh chế biến nông sản để nâng cao giá trị thương phẩm.

1.2. Nội dung và tiêu chí thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp

1.2.1. Phát triển quy mô sản xuất nông nghiệp

Trong những năm qua, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng hằng năm đạt khoảng 5-7%, góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu năm 2018 đạt mức kỷ lục 40,3 tỷ USD, đứng thứ hai Đông Nam Á, thứ 13 trên thế giới với 10 nhóm mặt hàng nông, lâm, thủy sản có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ đô la Mỹ; trong đó có 6 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ đô la Mỹ. Việt Nam đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông sản với trên 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu có công suất thiết kế đảm bảo chế biến trên 120 triệu tấn nguyên liệu nông sản mỗi năm.

Hàng vạn cơ sở chế biến nông sản nhỏ, lẻ, hộ gia đình rải khắp cả nước thực hiện sơ chế và chế biến chủ yếu phục vụ tiêu dùng nội địa, tăng thu nhập cho nông dân, góp phần xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới. Có được những thành tựu quan trọng này là nhờ việc ban hành các chính sách về ngành nông nghiệp của Đảng và Nhà nước.

Việc áp dụng các loại hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp (doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, mô hình kinh tế hộ…) đã tạo ra một khối lượng hàng hóa nông sản phong phú đáp ứng đủ cho tiêu dùng nội địa và dành một phần lớn cho xuất khẩu.

Việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, tích cực xúc tiến thương mại, tháo dỡ rào cản đã mở ra thị trường thế giới rộng lớn tiêu thụ nông sản Việt Nam với trên 185 nước và vùng lãnh thổ. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, tập đoàn lớn đã quan tâm và triển khai dự án đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông sản; trong đó có những doanh nghiệp hiện đại hàng đầu thế giới với công nghệ chế biến tiên tiến về rau quả, tôm, cá tra, giết mổ gia súc gia cầm, cà phê, đồ gỗ…

Riêng trong 2 năm 2018, 2019 đã có 30 dự án với số vốn đầu tư khoảng 2 tỷ USD được khởi công và một số đã hoàn thành đi vào hoạt động [13, tr.1-2]

Bảng 1.1. Tổng hợp lợi ích kinh tế của nông dân và doanh nghiệp trong mô hình CĐL

Lợi ích kinh tế của nông dânLợi ích kinh tế của doanh nghiệp
(1) Nông dân vẫn là “chủ đất” khi tham gia CĐL nên vẫn được hưởng các LIKT từ quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất là tài sản của người sử dụng đất và được tính bằng tiền trong các giao dịch dân sự. (2) Tăng lợi nhuận và thu nhập do tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật. Do đó, nâng cao năng suất, sản lượng, giảm chi phí sản xuất, tăng giá trị lúa gạo… (3) Ổn định đầu ra cho sản phẩm, bảo đảm việc làm thường xuyên, kết quả là: ổn định thu nhập, ổn định và cải thiện chất lượng cuộc sống. (4) Các LIKT khác thu được từ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước: hỗ trợ mua giống xác nhận, tập huấn kỹ thuật, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ phát triển kinh tế hợp tác…(1) LIKT trước tiên, bao trùm là thu được lợi nhuận cao. (2) Các doanh nghiệp có được nguồn cung nguyên liệu ổn định, có chất lượng giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, ổn định sản xuất, ổn định thị trường tiêu thụ… nên có nhiều cơ hội mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng tối đa hóa lợi nhuận. (3) Tham gia vào thị trường các yếu tố sản xuất (cung cấp phân bón, giống, thuốc bảo vệ thực vật), dịch vụ (dự trữ lúa, sấy cho nông dân) làm đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. (4) Các LIKT khác thu được từ các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước khi đầu tư vào nông nghiệp như: hỗ trợ lãi suất, tiền thuê đất, đổi mới công nghệ, thiết bị…

Nguồn: Trần Hoàng Hiểu (2019), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp trong phát triển cánh đồng lớn ở đồng bằng sông Cửu Long

Tuy nhiên, sự phát triển của ngành chế biến nông sản chưa tương xứng với tiềm năng, còn bộc lộ một số nút thắt tồn tại trong chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp. Doanh nghiệp chế biến nông lâm, thủy sản chủ yếu là doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Năng lực chế biến một số ngành hàng còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu của sản xuất nguyên liệu và thị trường tiêu thụ; Chất lượng của nguyên liệu và sản phẩm chế biến không ổn định, còn tiềm ẩn nguy cơ không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tổ chức liên kết sản xuất – chế biến và tiêu thụ còn lỏng lẻo, chưa tạo được sự gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp chế biến với sản xuất nguyên liệu và thị trường tiêu thụ.

Theo đánh giá của Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp quốc tại Việt Nam (UNIDO), công nghiệp chế biến thực phẩm toàn cầu có tổng quy mô thị trường: Năm 2015 đạt 6.300 tỷ USD, dự kiến năm 2020 sẽ đạt 7.700 tỷ USD; tình hình phát triển trong 3 năm (2017, 2018 và 2019) vừa qua có sự phát triển cao và tương đối ổn định ở mức 4,8 -5,1%/năm và khả năng đạt 5,4% vào năm 2020.

Theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới trong giai đoạn tới tiếp tục tăng lên. Trong giai đoạn 2018-2026, tiêu dùng thịt, cá dự báo thịt tăng 1,24%/năm và 1,49%/năm, nhu cầu nông sản làm nguyên liệu chế biến nhiên liệu sinh học tăng bình quân 3-5%/năm, tiêu dùng gỗ chế biến làm nội thất tăng 10,6%/năm. Chỉ tính riêng tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm chế biến từ rau quả của thế giới đã lên tới 2.200 tỷ USD/năm.

Nông nghiệp Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng và cơ hội cần khai thác đặc biệt quỹ đất, nguồn nhân lực và tận dụng cơ hội trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp, vào năm 2030 cần phải đẩy mạnh phát triển nền nông nghiệp phát triển ngang tầm thế giới. Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/07/2019 về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững là: “nông nghiệp Việt Nam đứng trong số 15 nước phát triển nhất thế giới; trong đó ngành chế biến nông sản đứng trong số 10 nước hàng đầu thế giới. Việt Nam là một trung tâm chế biến sâu của nông nghiệp thế giới, trung tâm logistics nông sản toàn cầu”.

Định hướng các giải pháp phát triển nông nghiệp, nông thôn:

Thứ nhất, chuyển dịch, cơ cấu lại công nghiệp chế biến nông sản.

Thứ hai, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư vào chế biến nông, lâm, thủy sản. 

Thứ ba, phát triển chế biến nông, lâm, thủy sản theo định hướng: Phát triển các công ty, tập đoàn lớn hiện đại, mang tầm cỡ quốc tế, có sức cạnh tranh cao về chế biến các ngành hàng nông, lâm, thủy sản và phát triển các doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ và vừa để tiêu thụ sản phẩm nông sản tại chỗ cho người nông dân.

Thứ tư, phát triển khoa học công nghệ và nguồn nhân lực cho công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.

Thứ năm, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang mở ra cơ hội rất lớn cho ngành nông nghiệp, sẽ giúp giúp mở ra cơ hội thay đổi phương thức sản xuất cũ, rút ngắn thời gian và tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, giúp giải quyết nhiều thách thức đặc biệt là tình trạng khan hiếm nguồn lực (đất đai, lao động, năng lượng tự nhiên…)

Thứ sáu, triển khai thực hiện Nghị quyết 23/NQ-TW về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 53/NQ-CP ngày 17/07/2019 về giải pháp khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững và Quyết định 889/QĐ-TTg của Chính phủ ngày 10/6/2013 về tái cơ cấu nông nghiệp…[13, tr.3-4]

1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp hợp lý

Xuất khẩu nông sản Việt Nam hiện nay đứng thứ 2 Đông Nam Á và thứ 15 trên thế giới, mang lại một nguồn thu ngoại tệ quan trọng cho đất nước. Số liệu thống kê cho thấy, tổng kim ngạch xuất khẩu nông – lâm – thủy sản Việt Nam đã tăng nhanh trong 10 năm qua, bình quân đạt trên 9%/năm, và đạt mức kỷ lục 40,02 tỷ USD trong năm 2018. Trong đó, có 10 mặt hàng nông sản kim ngạch xuất khẩu đạt từ 1 tỷ USD trở lên.

Theo Bộ NN&PTNT, sự phát triển của các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp còn rất khiêm tốn so với tiềm năng, lợi thế. Số doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiện chỉ chiếm 8% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, trong đó số doanh nghiệp nông lâm thủy sản chỉ chiếm 1%. Hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn ở quy mô nhỏ, năng suất lao động còn hạn chế, trình độ khoa học và công nghệ còn thấp, thị trường tiêu thụ chưa ổn định.

Để nông nghiệp Việt Nam tiếp tục phát triển hiệu quả hơn trong giai đoạn tới, Chính phủ đã đưa ra tầm nhìn đến năm 2030 là: Phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, áp dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo để tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh. Cải thiện và ngày càng nâng cao đời sống của nông dân. Xây dựng nông thôn văn minh hiện đại. Phấn đấu đến năm 2030, nông nghiệp Việt Nam sẽ đứng trong Top 15 nước phát triển trên thế giới, trong đó ngành chế biến nông sản đứng trong Top 10 nước hàng đầu thế giới.

Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 3,0%/năm; tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 6%-8%/năm. Lĩnh vực nông nghiệp có 80.000 – 100.000 doanh nghiệp đầu tư kinh doanh có hiệu quả, trong đó khoảng 3.000 – 4.000 doanh nghiệp có quy mô lớn và 6.000 – 8.000 doanh nghiệp quy mô vừa.

Cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm mạnh điều kiện kinh doanh trong nông nghiệp nhăm tạo sức hấp dẫn đầu tư. Phát triển sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp bảo đảm phù hợp với nhu cầu thị trường, kế hoạch và chiến lược phát triển ngành nông nghiệp. Nghiên cứu xây dựng đề án phát triển 03 ngành chế biến để phấn đấu đứng trong số 5 nước hàng đầu thế giới về chế biến rau củ quả, thủy hải sản, gỗ và sản phẩm từ gỗ.

Thực hiện xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản, nâng cao năng lực phát triển sản phẩm đáp ứng yêu cầu của thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm nông nghiệp tại các thị trường trọng điểm; Nâng cao hiệu quả công tác hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu nông sản, thu hút đầu tư có chất lượng cao và chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực nông nghiệp.

Xây dựng, hoàn thiện chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ tiên tiến hiện đại phục vụ sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp; khai thác tối đa các cơ hội của cách mạng công nghiệp 4.0 để phát triển nông nghiệp hiệu quả và bền vững. Tăng cường hỗ trợ bảo hộ sở hữu trí tuệ ở trong nước và ngoài nước cho các sản phẩm nông nghiệp chủ lực, đặc thù; thúc đẩy xây dựng và phát triển thương hiệu, chỉ dẫn địa lý, truy xuất nguồn gốc và tài sản trí tuệ cho các sản phẩm được bảo hộ [39, tr.1-2]

Trong những năm qua triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã đạt được nhiều kết quả khá rõ nét, tạo chuyển biến tích cực trong cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế và hiệu quả của ngành. Cơ cấu sản xuất được điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế của mỗi địa phương và cả nước, gắn với nhu cầu thị trường.

Cơ cấu ngành hàng, sản phẩm xuất khẩu đã thể hiện khá rõ kết quả cụ thể. Đó là, tăng tỷ trọng các ngành, sản phẩm có lợi thế và thị trường như thủy sản (nhất là tôm nước lợ), rau, hoa, quả, các loại cây công nghiệp giá trị cao, đồ gỗ và lâm đặc sản. Cùng với đó, giảm các ngành hàng, sản phẩm đang có xu hướng tăng cung như lúa gạo; tăng tỷ trọng hàng chất lượng cao trong tổng sản lượng sản xuất và hàng xuất khẩu, như thủy sản, đồ gỗ…

Trong lĩnh vực trồng trọt, cơ cấu cây trồng được chuyển đổi hiệu quả hơn. Các địa phương, nhất là ở những vùng chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu đã chuyển đổi khoảng 627.700 ha gieo trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, cây ăn quả và các cây màu, cây làm thức ăn chăn nuôi có hiệu quả kinh tế cao hơn. Nhiều địa phương xây dựng được nhiều cánh đồng lớn sản xuất lúa gạo, rau, hoa, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị. Các vùng sản xuất cây công nghiệp tập trung quy mô lớn được duy trì, thâm canh cao; nhiều vùng sản xuất cây ăn quả tập trung phát triển ở địa phương, cũng đem lại giá trị cao.

Trong chăn nuôi, đối tượng vật nuôi đã được cơ cấu lại, xác định rõ thứ tự ưu tiên về loại sản phẩm chính từ chăn nuôi lợn, gà, bò thịt, bò sữa. Vùng chăn nuôi cũng được cơ cấu lại theo hướng chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ, phân tán sang phát triển chăn nuôi quy mô lớn, theo chuỗi. Số lượng trang trại chăn nuôi tăng từ 8.796 trang trại năm 2013 lên 15.096 trang trại năm 2017. Chăn nuôi công nghiệp công nghệ cao đang có xu hướng phát triển mạnh. Lâm nghiệp cũng đã tập trung thực hiện mạnh các giải pháp bảo vệ và chăm sóc rừng.

Sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng tập trung tăng hơn 2 lần, từ 8 triệu m3 năm 2013 lên 18 triệu m3 năm 2017, đáp ứng khoảng 80% nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ. Lợi nhuận của các hộ gia đình chủ rừng tham gia mô hình hợp tác, liên kết theo chuỗi sản phẩm tăng thêm từ 25 – 30%. Trong lĩnh vực thủy sản, các địa phương cũng đã điều chỉnh cơ cấu nuôi hợp lý, phát triển các vùng nuôi tôm, cá tập trung ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thâm thiện với môi trường; phát triển mạnh các sản phẩm chủ lực tôm, cá tra. Nhờ sự tái cơ cấu mạnh mẽ trong các ngành hàng chủ lực trên, cùng với thị trường tiêu thụ nông sản được mở rộng đến 180 quốc gia, kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh. Trong 7 tháng năm 2018 kim ngạch xuất khẩu đạt 22,2 tỷ USD, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm 2017.

Giai đoạn 2017 – 2020, các lĩnh vực, địa phương tiến hành rà soát lại quy hoạch, chiến lược và lợi thế để phân loại thành 3 cấp sản phẩm: chủ lực quốc gia (những sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu từ 1 tỷ USD trở lên và thịt lợn, thịt gia cầm); chủ lực cấp tỉnh và đặc sản địa phương gắn với xây dựng nông thôn mới theo mô hình “Mỗi làng, xã một sản phẩm”.

Theo đó, tiếp tục rà soát chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản phẩm phù hợp với lợi thế và nhu cầu thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu từng vùng, miền; đồng thời, khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch, nông nghiệp hữu cơ. Bên cạnh đó, rà soát chiến lược phát triển ngành chăn nuôi với từng đối tượng nuôi cụ thể để điều chỉnh quy mô phù hợp với nhu cầu thị trường. Đồng thời, xác định các sản phẩm chăn nuôi chủ lực là lợi thế tại địa phương; phát triển các vùng chăn nuôi tập trung, an toàn dịch bệnh và xử lý tốt môi trường [20, tr.1-2]

1.2.3. Huy động và sử dụng hiệu quả các yếu tố nguồn lực

Quá trình sản xuất ra của cải, vật chất và dịch vụ cung cấp cho xã hội, con người phải sử dụng một lượng các yếu tố về sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Đồng thời, được kết hợp chặt chẽ với nhau theo một công nghệ nhất định với một thời gian và không gian cụ thể. Các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất không ngừng được tái sản xuất mở rộng nhằm tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và dịch vụ. Tất cả những tài nguyên hiện đang được sử dụng hoặc có thể được sử dụng vào sản xuất của cải vật chất hoặc dịch vụ được gọi là những yếu tố nguồn lực. Các yếu tố nguồn lực của sản xuất là phạm trù kinh tế dùng để chỉ những nguồn tài nguyên tự nhiên, kinh tế và xã hội đã, đang và sẽ được sử dụng cho hoạt động kinh tế để tạo ra của cải vật chất hay dịch vụ đáp ứng yêu cầu xã hội nhất định.

Hình 1.1. Quy mô thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2006 – 2018

Nguồn: Bộ Tài chính

Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Nguồn vốn FDI trong những năm qua đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ; Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2011-2018 theo xu hướng tăng, từ 15,6 tỷ USD lên 35,5 tỷ USD, bình quân mỗi năm Việt Nam thu hút được khoảng 22 tỷ USD vốn FDI cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, với tốc độ tăng trưởng trung bình 15%/năm. Bên cạnh đó, vốn giải ngân cũng theo xu hướng tăng, từ 11 tỷ USD năm 2011 lên trên 19 tỷ USD năm 2018 – mức cao nhất từ trước tới nay. Qua đó, góp phần tích cực trong việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI): Nguồn lực tài chính từ FPI trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho phát triển kinh tế trong giai đoạn vừa qua. Năm 2018, dòng vốn FPI hút ròng vào Việt Nam đạt khoảng 4,1 tỷ USD (tính đến 30/6/2018).

Kiều hối: Nguồn kiều hối là một trong những nguồn lực tài chính ngày càng có đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước. Bình quân giai đoạn 2011 – 2018 đạt trên 12 tỷ USD/năm, đặc biệt năm 2018 đạt trên 16 tỷ USD, đã và đang góp phần không nhỏ vào việc cung ứng nguồn vốn cho đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế, cũng như gia tăng nguồn dự trữ ngoại hối của Việt Nam góp phần giảm thâm hụt cán cân vãng lai.

Huy động qua hệ thống tài chính

Huy động tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng (TCTD): Tiết kiệm thông qua hệ thống ngân hàng và các TCTD tăng dần đều qua các năm, với tốc độ tăng trung bình 34,31% trong giai đoạn 2011 – 2018, với dư  nợ tổng phương tiện thanh toán đạt hơn 9 triệu tỷ năm 2018. Nhờ đó, nguồn lực tài chính từ hệ thống ngân hàng tiếp tục góp phần quan trọng cho đầu tư phát triển KTXH.

Trong nông nghiệp, các yếu tố nguồn lực có thể tồn tại dưới hình thái vật chất, bao gồm: đất đai, máy móc, thiết bị, kho tàng, nguyên nhiên vật liệu, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón, thức ăn gia súc, sức lao động với kỹ năng và kinh nghiệm sản xuất nhất định… Nguồn lực sản xuất của nông nghiệp cũng có thể tồn tại dưới hình thái giá trị. Người ta sử dụng đồng tiền làm thước đo để định lượng và quy đổi mọi nguồn lực khác nhau về hình thái vật chất được sử dụng vào nông nghiệp thành một đơn vị tính toán thống nhất.

Các yếu tố nguồn lực trong nông nghiệp bao gồm các nhóm:

Nhóm các yếu tố liên quan đến nguồn nhân lực của nông nghiệp, bao gồm số lượng và chất lượng sức lao động, kỹ năng, kinh nghiệm…

Nhóm các yếu tố nguồn lực liên quan đến phương tiện cơ khí, bao gồm nguồn năng lượng của động lực máy móc và động lực gia súc.

Nhóm các yếu tố nguồn lực sinh học, bao gồm vườn cây lâu năm, súc vật làm việc, súc vật sinh sản…

Nhóm các yếu tố nguồn lực liên quan đến các phương tiện hoá học phục vụ nông nghiệp như phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc thú y….

Dưới tác động của yếu tố đất đai và thời tiết – khí hậu đa dạng phức tạp dẫn đến việc sử dụng các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp được sử dụng phù hợp từng vùng, từng vụ mùa… Tiềm năng về nguồn lực sinh học đa dạng, phong phú nhưng chưa được khai thác có hiệu quả, một số cây trồng vật nuôi chưa được coi trọng để chọn lọc; một số giống mới được chọn lọc, lai tạo có năng suất cao nhưng chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng diện tích, sản xuất, phát triển ngành nông nghiệp và nâng cao đời sống nhân dân ở các địa phương.

Vốn trong nông nghiệp của người dân còn hạn chế, nguồn vốn ngân sách còn mỏng, nguồn thu cho ngân sách chưa ổn định, nợ công còn nhiều. Nguồn lao động nông nghiệp chiếm 70% tổng lao động xã hội, nhưng chưa được sử dụng hợp lý, thu nhập thấp, vẫn còn tình trạng thất nghiệp. Việc sử dụng khoa học và công nghệ mới vào sản xuất, phát triển nông nghiệp còn nhiều hạn chế. Thời tiết khí hậu thường xuyên thay đổi, dịch bệnh tràn lan dẫn đến độ phì nhiêu tự nhiên của đất, môi trường với các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học ảnh hưởng chung đến đời sống nhân dân, sử dụng không hiệu quả độ phì nhiêu của đất trồng tại các địa phương.

Hình 1.2. Cơ cấu vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng Cục Thống kê

Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là tài sản quốc gia, sau này con người khai thác ruộng đất vào sử dụng tạo ra lợi ích kinh tế, từ đó ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của lao động. Quá trình đó làm tăng chất lượng của ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi để tăng năng suất cây trồng. Ruộng đất là tư liệu lao động, khi con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đất, thông qua các thuộc tính lý học, hoá học, sinh vật học và các thuộc tính khác của đất để tác động lên cây trồng. Sự kết hợp của đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp.

Nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất quan trọng nhất của xã hội. Việc nghiên cứu nguồn nhân lực trong nông nghiệp có ý nghĩa rất to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp cũng như đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về số lượng bao gồm những người trong độ tuổi (nam từ 15 đến 60 tuổi, nữ từ 15 đến 55 và những người trên và dưới độ tuổi nói trên tham gia hoạt động sản xuất nông nghiệp).

Nguồn nhân lực trong nông nghiệp có những đặc điểm riêng so với các ngành sản xuất vật chất khác, mang tính thời vụ cao, là thứ lao động tất yếu, xu hướng có tính quy luật là không ngừng thu hẹp về số lượng và được chuyển một bộ phận sang các ngành khác, trước hết là công nghiệp với những lao động trẻ khoẻ có trình độ văn hoá và kỹ thuật [14, tr.1-2-5]

1.2.4. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp

Trong chương trình XDNTM, hình thức tổ chức sản xuất là một trong những tiêu chí chi phối đến nhiều lĩnh vực khác như thu nhập, cơ cấu lao động, việc làm… Thực tế cho thấy, những địa phương phát huy được vai trò của các hình thức tổ chức sản xuất sẽ giúp dễ thực hiện được những tiêu chí khác.

Việc thành lập hợp tác xã (HTX), hay tổ hợp tác (THT) hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, các tổ chức kinh tế tập thể (HTX dịch vụ nông nghiệp) có ý nghĩa rất quan trọng đối với công cuộc XDNTM; là cơ hội, điều kiện thuận lợi để khu vực nông thôn phát triển bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Một số địa phương đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn như THT sản xuất, gia trại, trang trại và họp tác xã nông nghiệp, gọi chung là tổ họp kinh tế. Qua đó, góp phần thúc đẩy sớm hoàn thành các tiêu chí trong XDNTM.

HTX nông nghiệp thường có quy mô nhỏ (vài chục hộ xã viên), hiệu quả kinh tế thấp, không ổn định, chưa bảo đảm quyền, lợi ích của hộ nông dân, chưa góp phân nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tê hộ thành viên trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. HTX và THT sản xuất trong thực hiện chương trình XDNTM chưa thể hiện được vai trò nòng cốt của mình. Đòi hỏi cần có những quy chuẩn thật sự chặt chẽ, rõ ràng hơn để làm căn cứ thực hiện.

Hình thức tổ chức sản xuất, trọng tâm là các HTX, THT, qua đó nông dân tiếp cận được các phương thức canh tác mới, nâng cao hiệu quả sản xuất, tạo điều kiện hoàn thành tiêu chí về tỷ lệ hộ nghèo và thu nhập, thúc đẩy xây dựng NTM thành công ở các địa phương. Tuy nhiên, nhiều HTX, THT hiện nay hoạt động khá đơn điệu, việc triển khai thực hiện phát triển sản xuất theo Tiêu chí số 13 thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, một số cấp chính quyền chưa thấy hết vai trò, sự cần thiết của HTX, THT trong việc thúc đẩy kinh tế địa phương, nên hiệu quả chỉ đạo, quản lý, tăng cường phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao [16, tr.1]

Ngành nông nghiệp Việt Nam vẫn còn đang là nền nông nghiệp nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống. Vì vậy, sự hợp tác, liên kết trong ngành càng cần thiết hơn bao giờ hết. Trong những năm qua, chính quyền địa phương các cấp triển khai mô hình chuỗi sản xuất, thương mại, chế biến và phân phối sản phẩm khép kín.

Có thể thấy, liên kết trong sản xuất nông nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt trong phát triển kinh tế và rất cần thiết trong thời điểm hiện nay. Để phát huy những lợi thế trong liên kết sản xuất nông nghiệp, cần đẩy mạnh nghiên cứu, đề xuất phát triển và tăng cường liên kết phải xuất phát từ quan điểm phát triển chuỗi nông sản, nhất là chuỗi giá trị nông sản, đồng bộ tất cả các khâu từ sản xuất đến người tiêu dùng [8, tr.1]

Để phát triển nông nghiệp cần liên kết hộ, phát triển các doanh nghiệp nông nghiệp, trong đó có các hình thức như chuyển quyền sử dụng đất, cho thuê (ngắn hạn, dài hạn), góp vốn cổ phần cùng doanh nghiệp… Nhà nước cần hoàn thiện các cơ chế, chính sách, các quy định của pháp luật, thủ tục hành chính và tạo điều kiện cho thị trường đất đai hoạt động và bảo đảm, bảo vệ quyền lợi của nông dân… [26, tr.3]

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 1/PHAM CHI SANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *