Thực hiện chính sách phát triển CBCC cấp huyện từ thực tiễn huyện Hiệp Đức

Thực hiện chính sách phát triển CBCC cấp huyện từ thực tiễn huyện Hiệp Đức

Thực hiện chính sách phát triển CBCC cấp huyện từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững. V.I. Lênin từng chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được hàng ngũ của mình những người lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [34, tr.473]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém” [33, tr.273]. Ngay từ khi ra đời, vấn đề cán bộ và công tác cán bộ đã được Đảng ta xác định là nhân tố quan trọng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của chế độ, là khâu then chốt trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cũng như việc thực hiện chính sách cán bộ.

Xác định được tầm quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và đề ra những chủ trương, chính sách, nghị quyết nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ công chức (CBCC), nhất là những năm gần đây. Quá trình tổ chức thực hiện trên phạm vi cả nước nói chung và đối với huyện Hiệp Đức nói riêng có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay, đội ngũ CBCC cơ bản đủ về số lượng, khá đảm bảo về chất lượng, có cơ cấu ngày càng hợp lý hơn giữa các vùng miền, dân tộc, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp và ngày càng được trẻ hóa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, có năng lực và trình độ, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được chú trọng triển khai thực hiện và đạt được nhiều kết quả. Công tác đánh giá, quy hoạch, bố trí, sử dụng và luân chuyển cán bộ được thực hiện cơ bản bảo đảm nguyên tắc, dân chủ, công khai và minh bạch. Công tác tuyển dụng công chức ngày càng công minh, chính xác và khách quan hơn. Việc quản lý và sử dụng CBCC ngày càng có hiệu lực, hiệu quả hơn.

Tuy nhiên, chất lượng đội ngũ CBCC của huyện Hiệp Đức có mặt còn hạn chế; một bộ phận CBCC còn yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo, điều hành còn hạn chế nhiều mặt; một bộ phận CBCC thiếu tu dưỡng, rèn luyện, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, vi phạm pháp luật và vi phạm công tác chuyên môn. Ngoài ra, cơ cấu đội ngũ CBCC chưa phù hợp với thực tiễn, với chuyên môn, sở trường của từng CBCC; công tác quy hoạch cán bộ chưa có chiều sâu; công tác đề bạc, bổ nhiệm còn nhiều sai sót, chưa đảm bảo tiêu chuẩn, điều kiện quy định, tỷ lệ CBCC nữ làm lãnh đạo còn thấp, cơ chế hoạt động còn thiếu đồng bộ, việc đánh giá, phân loại CBCC có nơi còn hình thức, nễ nang. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được quan tâm, chưa đúng chuyên ngành, công tác bố trí, sử dụng CBCC còn nhiều bất cập. Những kết quả còn yếu trên đây thể hiện việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức trên địa bàn huyện Hiệp Đức còn nhiều bất cập trong quy trình thực hiện chính sách này.

Xuất phát từ thực tiễn trong thời gian qua trong thực tiến thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức của địa phương và kinh nghiệm công tác của bản thân, tôi chọn đề tài:“Thực hiện chính sách phát triển CBCC cấp huyện từ thực tiễn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam” làm Luận văn thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC cấp huyện, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức để đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam trong thời gian sắp tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Xác lập cơ sở lý luận về thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC cấp huyện.

– Đánh giá, phân tích thực trạng thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam trong 5 năm trở lại đây (từ năm 2015-2019).

– Đề xuất đề xuất một số giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam trong những năm sắp tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thực hiện chính sách phát triển CBCC cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Nội dung: Luận văn chỉ nghiên cứu về thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện (cán bộ, công chức làm việc tại các UBND huyện, các cơ quan chuyên môn giúp việc UBND huyện, cơ quan Huyện ủy, cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước ở các tổ chức chính trị xã hội) ở huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

– Về thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn căn cứ trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử, đồng thời dựa trên những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về cán bộ và chính sách cán bộ.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này được xây dựng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Trước hết, luận văn được kế thừa từ các công trình nghiên cứu, các kết luận khoa học đã được công bố có liên quan và vận dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp thu thập thông tin, số liệu sẵn có, điều tra dư luận xã hội để tổng hợp, phân tích, đánh giá và cả tham vấn các chuyên gia. Đặc biệt là, để có được những thông tin và số liệu liên quan đến đề tài tại địa bàn nghiên cứu, tác giả luận văn đã tiến hành nghiên cứu thực tế, tiến hành khảo sát, tổng kết thực tiễn, điều tra xã hội học. Với việc sử dụng đa dạng các phương pháp nghiên cứu vừa nêu, các thông tin trong luận văn khá chính xác, phong phú và tương đối cập nhật.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn về đội ngũ cán bộ, công chức cũng như việc thực hiện chính sách phát triển CBCC, qua đó đề xuất các giải pháp nhằm triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC và công tác cán bộ.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa thiết thực nhằm cung cấp các dữ liệu thực tế cho những người thực thi chính sách ở cấp địa phương nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC. Đây là tiền đề, là cơ sở giúp cho các cơ quan chuyên môn và lãnh đạo huyện Hiệp Đức tiếp tục đổi mới, đề ra những giải pháp, những chính sách hiệu quả trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

Bên cạnh đó, luận văn còn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những tổ chức, cá nhân quan tâm, nghiên cứu đến công tác cán bộ và các chính sách phát triển đội ngũ CBCC; đồng thời, đây còn là tài liệu tham khảo cho học viên các khóa sau khi nghiên cứu về công tác cán bộ và chính sách phát triển đội ngũ cán bộ công chức…

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và Tài liệu tham khảo,
kết cấu luận văn gồm có 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện trên địa bàn huyện Hiệp Đức, tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1.1. Chính sách, chính sách công

Qua nghiên cứu tài liệu, cho thấy đến thời điểm hiện tại có rất nhiều quan niệm, rất nhiều định nghĩa khác nhau về chính sách và chính sách công. Trên thế giới, việc định nghĩa về chính sách công vẫn là một chủ đề đang được tranh luận sôi động và chưa đạt được sự nhất trí cao. Ở Việt Nam, các nghiên cứu khoa học cũng có nhiều quan điểm khác nhau về chính sách công, nhưng theo số đông các nhà nghiên cứu, thì “chính sách” là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo, quản lý đề ra nhằm giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi, thẩm quyền của mình; là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm.

Trong cuốn sách “Chính sách kinh tế – xã hội”, các tác giả đồng nhất chính sách công với chính sách kinh tế – xã hội và đưa ra định nghĩa: “Chính sách kinh tế – xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ Nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của xã hội” [26, tr.11].

Theo từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của Nhà nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chính và bảo vệ an toàn Tổ quốc” [31, tr.99-100].

Tại Viện Chính trị học, Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các nhà khoa học cho rằng: “Chính sách công là chương trình hành động của Nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể” [40, tr.114].

Theo Vũ Cao Đàm, “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội” [21, tr.11].

Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về chính sách công, nhưng tất cả các quan niệm đó đều nghiên cứu chính sách công với tư cách là sản phẩm có mục đích của Nhà nước, của chính quyền nhằm tác động đến đời sống của nhân dân.

Từ những quan niệm và phân tích nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa chính sách công như sau: “Chính sách công là tổng thể chương trình hành động của nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề có tính cộng đồng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo phương thức nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra và đảm bảo cho xã hội phát triển bền vững, ổn định[26, tr.14].

1.1.1.2. Thực hiện chính sách công

Thực hiện chính sách công cũng được hiểu theo nhiều khía cạnh, theo TS Lê Như Thanh và TS Lê Văn Hòa thì: “Thực thi chính sách công là quá trình đưa chính sách công vào thực tiễn đời sống xã hội thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách công” [37]. Tổ chức thực thi chính sách là một khâu hợp thành quy trình chính sách, là trung tâm kết nối các giai đoạn trong quy trình chính sách thành một hệ thống.

Trên thực tế, thực thi chính sách được coi là giai đoạn tổng hợp của cả ba giai đoạn trong quy trình chính sách: hoạch định chính sách, thực thi chính sách, đánh giá chính sách. Bởi vì khâu tổ chức thực hiện chính sách đã căn cứ vào giai đoạn hoạch định chính sách và trong thực hiện chính sách đã loại bỏ những cái không phù hợp, bổ sung cái mới, nghĩa là đã lồng ghép vào việc đánh giá chính sách.

Thực thi chính sách là khâu quan trọng nhằm biến ý đồ của chính sách thành hiện thực; thực hiện các mục tiêu chính sách nhằm khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của chính sách. Tóm lại, thực thi chính sách là quá trình đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống thông qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án… Thực thi chính sách và tổ chức thực hiện chính sách là nhằm mục đích hiện thực hóa các mục tiêu của chính sách. Qua thực thi chính sách, giúp chúng ta thấy được những mặt mạnh, những điểm chưa phù hợp, kể cả trong hoạch định và thực thi chính sách; từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm để xây dựng và hoàn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn và đạt hiệu quả cao hơn.

1.1.1.3. Cán bộ

Theo Đại Từ điển tiếng Việt, “Cán bộ” được hiểu là “Người làm việc trong cơ quan Nhà nước. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ, trong các cơ quan, tổ chức nhà nước” [45].

Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008, tại Khoản 1, Điều 4 quy định: “Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.

1.1.1.4. Công chức

Theo Đại Từ điển Tiếng Việt, “Công chức” được hiểu là “Người làm việc hưởng lương từ ngân sách, trong cơ quan nhà nước” [45].

Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật cán bộ, công chức và Luật viên chức năm 2019, tại Khoản 2, Điều 4 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”.

Tóm lại, cán bộ, công chức cấp huyện là những cán bộ, công chức thuộc biên chế của các cơ quan nhà nước cấp huyện (gồm: UBND huyện, các cơ quan chuyên môn giúp việc UBND huyện, cơ quan Huyện ủy, cán bộ, công chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước ở các tổ chức chính trị xã hội).

1.1.1.5. Phân loại cán bộ, công chức

– Phân loại theo ngạch

Ngạch là tên gọi thể hiện thứ bậc về năng lực và trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của CBCC. Hiện nay, CBCC trong bộ máy hành chính Nhà nước ta được xếp theo thứ tự ngạch từ thấp đến cao, như sau: Nhân viên; cán sự và tương đương, Chuyên viên và tương đương; Chuyên viên chính và tương đương; Chuyên viên cao cấp và tương đương.

Phân loại theo bậc

Mỗi ngạch lại được chia thành nhiều bậc khác nhau, là các thứ hạng trong một ngạch. Nếu chuyển ngạch thì phải được xét tuyển hoặc thi tuyển, còn việc nâng bậc trong phạm vi ngạch thì phụ thuộc vào thời gian công tác, hiệu quả công việc cũng như việc khen thưởng, kỷ luật CBCC. Cán bộ công chức chỉ xét nâng bậc, không qua thi tuyển, cũng không yêu cầu trình độ qua các văn bằng, chứng chỉ. Nếu người CBCC hoàn thành nhiệm vụ được giao, không bị kỷ luật thì cứ đến thời gian ấn định, thì sẽ được nâng lên bậc kế tiếp. Và đặc biệt hơn, đối với những CBCC có thành tích xuất sắc trong chuyên môn thì có thể xét nâng bậc trước thời hạn. CBCC cũng có thể không được chuyển ngạch, nhưng theo thời gian công tác, họ vẫn được nâng bậc.

1.1.1.6. Tiêu chí đánh giá cán bộ, công chức

Tiêu chí về tuổi: Theo quy định hiện nay, CBCC phải những người nằm trong độ tuổi từ 18 đến 55 đối với nữ và từ 18 đến 60 đối với nam. Riêng một số trường hợp cá biệt, khi đến độ tuổi nghỉ hưu vẫn có thể xem xét kéo dài thời gian công tác.

Đa số những CBCC từ 40 tuổi trở lên thường có nhiều kinh nghiệm công tác cũng như phương pháp lãnh đạo, làm việc, tuy nhiên không phải là tất cả. Thực tế cũng có nhiều CBCC tuổi đời còn trẻ nhưng do được đào tạo cơ bản về chuyên môn nên khả năng tiếp cận công việc nhanh, làm việc hiệu quả, năng động, sáng tạo trong công việc. Do đó trong công tác cán bộ cần phải bố trí hài hòa giữa hai loại đối tượng để có được đội ngũ cán bộ, công chức có chất lượng và làm việc hiệu quả hơn.

Tiêu chí về văn bằng, chứng chỉ: Đây là tiêu chí thể hiện trình độ đào tạo, học tập của CBCC trên từng lĩnh vực: chuyên môn, chính trị, quản lý Nhà nước, ngoại ngữ, tin học…. Ở nước ta hiện nay, tùy từng công việc cụ thể mà tuyển dụng, lựa chọn những CBCC có bằng cấp khác nhau.

Tiêu chí về trình độ chính trị, trình độ quản lý Nhà nước: Mỗi vị trí công tác yêu cầu về trình độ chính trị, trình độ quản lý Nhà nước khác nhau. Vì vậy nên khi xem xét đề bạt hay bổ nhiệm CBCC vào vị trí lãnh đạo, quản lý, ngoài tiêu chí về bằng cấp thì tiêu chí về trình độ chính trị, trình độ quản lý Nhà nước cũng có vai trò rất quan trọng.

Tiêu chí về phẩm chất đạo đức, lập trường tư tưởng: Phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống cũng như lập trường tư tưởng chính trị của CBCC ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng của đội ngũ CBCC. Nếu một người CBCC mà đạo đức không tốt, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang man, dao động trước những mặt trái của xã hội thì sẽ thiếu tinh thần trách nhiệm trong công việc, từ đó công việc cũng không đạt được hiệu quả cao.

1.1.1.7. Thực hiện chính sách phát triển đội ngũ cán bộ công chức

Từ những khái niệm về cán bộ, công chức, khái niệm về chính sách, chính sách công, thực thi chính sách công, có thể rút ra định nghĩa: Chính sách phát triển đội ngũ CBCC là tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhằm chuyển hóa ý chí của chủ thể trong chính sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm xây dựng đội ngũ CBCC đủ đức, đủ tài, ngày càng đáp ứng yêu cần, nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.

1.1.1.8. Thể chế quản lý cán bộ, công chức

Theo Từ điển Tiếng Việt, thể chế là “những quy định, luật lệ của chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo” [45]. Thể chế quản lý CBCC là hệ thống các luật lệ, quy tắc trong việc thực hiện chính sách phát triển đội ngũ CBCC nhằm mục đích nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, uy tín của người CBCC trong thực thi công vụ; xây dựng cơ cấu tổ chức và môi trường thúc đẩy sự hợp tác, phối hợp của CBCC trong cả hệ thống chính trị nói chung và bộ máy Nhà nước nói riêng; xác định rõ trách nhiệm pháp lý và xã hội của CBCC cũng như các cơ quan quản lý CBCC. Đồng thời, thể chế quản lý CBCC có vai trò định hướng, giáo dục mọi người trong xã hội và CBCC có ý thức chấp hành cái đúng, sửa chữa cái sai để cùng hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Ở nước ta, thể chế quản lý CBCC là một bộ phận của hệ thống thể chế Nhà nước, là luật pháp hóa các chủ trương, đường lối, chỉ thị, nghị quyết và các chiến lược, đề án về công tác cán bộ như nhận xét, đánh giá, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ và phân cấp quản lý cán bộ, đây là nguyên tắc Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, đồng thời đây cũng là cơ sở, là định hướng để các cơ quan Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và xây dựng đội ngũ CBCC.

Pháp lệnh Cán bộ, công chức ban hành năm 1998 là văn bản có tính pháp lý cao nhất của Nhà nước ta trong lĩnh vực quản lý đội ngũ CBCC. Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định cụ thể hơn về đối tượng điều chỉnh, nguyên tắc thực thi công vụ, nguyên tắc quản lý CBCC và chế độ, chính sách thu hút nhân tài. Tiếp theo đó, Chính phủ cũng đã ban hành hàng loạt các văn bản hướng dẫn thực hiện, như: Nghị định số 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức; Nghị định số 24/2010/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Nghị định số 18/2010/NĐ-CP về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Nghị định số 26/2015/NĐ-CP về chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội…, ngoài ra, các Bộ, Ngành liên quan cũng đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể.

1.1.1.9. Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ công chức

Đội ngũ cán bộ, công chức vừa là lực lượng lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, vừa là lực lượng tham mưu cho Đảng, Nhà nước ta trong việc hoạch định các chiến lược, kế hoạch, các chủ trương, chính sách, các bước đi, giải pháp nhằm thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.

Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và bối cảnh hội nhập quốc tế, đội ngũ CBCC càng có vai trò, vị trí quan trọng để xây dựng thể chế, cơ chế và tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Đây cũng là lực lượng tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, như đổi mới công tác kế hoạch hóa, cải tiến hệ thống thuế, dự báo chiến lược, xây dựng hệ thống ngân hàng tín dụng, thương mại…

Vai trò, tầm quan trọng của đội ngũ CBCC còn được thể hiện ở khả năng đề xuất các chủ trương, giải pháp nhằm thực hiện xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, các dịch vụ công, những vấn đề của xã hội, đồng thời giúp Nhà nước tổ chức kiểm tra, giám sát, tạo điều kiện thuận lợi để các hoạt động xã hội hóa sự nghiệp, dịch vụ công phát triển đúng theo định hướng XHCN.

1.1.2. Vai trò, mục tiêu, nguyên tắc thực hiện chính sách công

1.1.2.1. Vai trò thực hiện chính sách công

Chính sách công đang ngày càng trở thành một công cụ quản lý quan trọng của Nhà nước đối với mỗi quốc gia và trên toàn thế giới. Thông qua quá trình thực hiện chính sách công, Nhà nước điều tiết những vấn đề nảy sinh, vướng mắc trong đời sống kinh tế – xã hội của đất nước nhằm đạt được mục đích, kết quả mong muốn, tạo ra môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước theo hướng bền vững.

Thực hiện chính sách công chính là định hướng cho các chủ thể kinh tế – xã hội nhằm đề ra các nhiệm vụ, các giải pháp mới phù hợp.

Mục tiêu của chính sách công thể hiện ở thái độ ứng xử của Nhà nước đối với các vấn đề công, nó thể hiện rõ sự tác động của Nhà nước lên các thực thể xã hội để những vấn đề đó thay đổi phù hợp với mong muốn mà Nhà nước đang đặt ra.

Mục đích của việc thực hiện chính sách công là nhằm giúp chúng ta biến những mục tiêu của chính sách trở thành hiện thực. Quá trình thực hiện chính sách giúp chúng ta từng bước thực hiện mục tiêu chính sách và mục tiêu chung, làm cho chính sách công tiếp tục được bổ sung, phát triển và phù hợp hơn trong từng giai đoạn, đáp ứng yêu cầu của xã hội

Tổ chức thực hiện chính sách công là khâu rất quan trọng, có ý nghĩa lớn, quyết định sự thành bại của một chính sách, vì đây là quá trình đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Các mục tiêu của chính sách công chỉ đạt được khi triển khai thực thi chính sách công, bởi thực thi chính sách công bao gồm những hoạt động có tổ chức được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước và các đối tác xã hội hướng tới nhằm đạt được các mục tiêu và yêu cầu đặt ra trong chính sách công.

1.1.2.2. Mục tiêu thực hiện chính sách công

Theo lý luận của các nhà triết học, xung quanh chúng ta là các dạng vật chất tồn tại khách quan và có những chức năng nhất định. Chức năng là những hoạt động có mục đích gắn liền với sự tồn tại và phát triển của thực thể theo yêu cầu xã hội. Về mặt bản chất, chính sách là thể hiện ý chí của chủ thể tác động đến các đối tượng nên được xem như những dạng thức vật chất đặc biệt. Vì vậy, chính sách cũng cần có những chức năng nhất định để tồn tại, tổ chức thực hiện chính sách là một khâu rất quan trọng nhằm duy trì chính sách và giúp chính sách đó đạt được mục đích đã đặt ra [25].

Thực thi chính sách công là khâu quan trọng nhằm đưa chính sách vào thực tiễn đời sống. Một chính sách tốt thì phải đạt được mục tiêu phát triển chung của xã hội. Đối với nước ta, mục tiêu đó chính là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh”. Đây là mục tiêu chung của thời đại, phản ánh được mong muốn, nguyện vọng của Nhà nước và Nhân dân về những giá trị kinh tế – xã hội. Mục tiêu cụ thể của từng chính sách luôn gắn liền với mục tiêu chung của thời đại. Vì vậy, khi xây dựng mộc chính sách cần phải hướng đến cả hai mục tiêu thì đó mới là chính sách tốt. 

Từ vị trí, vai trò của thực thi chính sách công, cho thấy việc thực thi chính sách công có ý nghĩa rất lớn, cụ thể:

Một là, trong quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần hoạt động khác nhau, Nhà nước phải có giải pháp đối với nhiều loại đối tượng có quan hệ khác nhau nên việc thực thi chính sách nhằm biến mục tiêu của chính sách thành hiện thực là việc làm rất khó và vô cùng quan trọng.

Hai là, mục tiêu của những chính sách công đặt ra đều liên quan đến các vấn đề về kinh tế- xã hội, nên trong một giai đoạn nhất định không thể giải quyết hết các vấn đề liên quan mà phải trãi qua một quá trình lâu dài. Mục tiêu của chính sách công đặt tra phải trải qua quá trình thực hiện thì mới đạt được. Các mục tiêu của chính sách công có quan hệ mật thiết, gắn kết với nhau và quyết định mục tiêu chung.

Ba là, tính hiệu quả của chính sách sẽ được khẳng định thông qua việc giải quyết các mâu thuẫn của vấn đề chính sách. Một chính sách nếu đáp ứng được yêu cầu của xã hội, nguyện vọng của Nhân dân, giải quyết được những vướng mắc trong thực tiễn cuộc sống thì đó là chính sách đúng đắn và hiệu quả. Một chính sách tốt là khi triển khai thực hiện luôn nhận được sự đồng tình, ủng hộ của mọi tầng lớp Nhân dân, đáp ứng được các yêu cầu, nguyện vọng của đối tượng được thụ hưởng, giải quyết được những vướng mắc, những vấn đề bức thiết trong đời sống xã hội.

Bốn là, chính sách sẽ dần dần hoàn chỉnh thông qua việc triển khai thực hiện chính sách vì chính sách công được xây dựng từ một tổ chức, nên không tránh khỏi sự ảnh hưởng của ý chí chủ quan. Do ảnh hưởng của các yếu tố chủ quan và khách quan nên giữa chính sách công và thực tiễn của đời sống xã hội có những vấn đề cần phải được điều chỉnh, khắc phục và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Quá trình điều chỉnh, khắc phục và sửa đổi, bổ sung sẽ góp phần làm cho chính sách ngày càng hoàn thiện, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn, đồng thời đây cũng là cơ sở, là tiền đề để triển khai thực hiện các chính sách khác.

1.1.2.3. Nguyên tắc thực hiện chính sách công

Thực hiện chính sách công là việc các cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức, cá nhân tham gia triển khai những hoạt động, những công việc cụ thể nhằm đạt được những mục tiêu trực tiếp [25], như:

– Đảm bảo tính pháp lý trong quá trình thực thi chính sách: Tính pháp lý được thể hiện trong quá trình này chính là việc chấp hành các quy định về thực hiện chính sách công nhằm đảm bảo tính dân chủ, tập trung và tính thống nhất trong việc chấp hành và triển khai thực hiện chính sách.

– Đảm bảo tính khoa học: Tính khoa học được thể hiện trong quá trình này chính là sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan quản lý chính sách, việc thu hút các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu chính sách và hình thành nên các dự án để triển khai thực hiện chính sách đạt hiệu quả tại địa phương.

– Đảm bảo tính hệ thống, bao gồm hệ thống các mục tiêu và biện pháp thực hiện chính sách. Hệ thống trong tổ chức bộ máy thực hiện chính sách công; hệ thống điều hành và phối hợp thực hiện chính sách; hệ thống trong sử dụng các công cụ quản lý khác của Nhà nước về thực hiện chính sách. Nếu đạt được các yêu cầu này sẽ là cơ sở cho việc đạt được các mục tiêu chính sách đã đặt ra.

– Bảo đảm lợi ích cho đối tượng thụ hưởng: Có rất nhiều đối tượng thụ hưởng trong xã hội, vì vậy, Nhà nước phải đưa ra những chính sách công cụ thể nhằm đảm bảo lợi ích cho từng loại đối tượng đó.

– Đảm bảo tính thực tiễn: Quá trình triển khai thực hiện chính sách công phải gắn liền với thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của một chính sách, đồng thời, khi xây dựng chính sách phải chú ý đến các nguồn lực, như: con người, kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất, công nghệ – kỹ thuật…. Đồng thời, việc phân công, phối hợp thực hiện phải hài hòa, hợp lý, đảm bảo chu trình và thời gian tổ chức thực hiện.

Đặc biệt phải chú ý đến công tác tuyên truyền, giáo dục về mục đích, ý nghĩa, nội dung và yêu cầu đặt ra của chính sách; quan tâm đến năng lực, trình độ và uy tín của đội ngũ CBCC thực thi chính sách.

Thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc quá trình triển khai thực hiện chính sách, qua đó kịp thời phát hiện những hạn chế, vướng mắc của chính sách để điều chỉnh, bổ sung phù hợp nhằm hoàn thiện chính sách và tổ chức thực hiện chính sách một cách hiệu quả.

1.1.3. Quy trình tổ chức thực hiện chính sách công

Việc tổ chức thực thi chính sách công có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với một chính sách, vì vậy, Nhà nước cũng như các cấp, các ngành luôn quan tâm đặc biệt đến quá trình triển khai thực hiện chính sách. Để đảm bảo hiệu quả khâu thực hiện chính sách công, cần thực hiện nhiều nội dung khác nhau, nhưng trước tiên, cần phải tuân thủ các bước cơ bản sau đây:

1.1.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công

Việc xây dựng kế hoạch phải căn cứ vào các quy định trong chính sách công, đồng thời phải dựa theo hướng dẫn của cấp có thẩm quyền. Trong kế hoạch, phải nêu đầy đủ mục đích, yêu cầu, nội dung, thời gian, phương thức tổ chức thực hiện, các nguồn lực, biện pháp kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách công, đồng thời xây dựng nội quy, quy chế tổ chức điều hành, phân công nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức, cá nhân liên quan và đưa ra cả biện pháp khen thưởng, kỷ luật cụ thể. Thực tế trong thời gian qua, các địa phương đều xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách công một cách đầy đủ, cụ thể từng nội dung, các kế hoạch đều có sự tham gia góp ý, phê duyệt của UBND tỉnh vả các Sở, Ban, Ngành liên quan. Điều này tạo cơ cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện chính sách công. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn một số địa phương chưa chú trọng đến việc xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công, nên nội dung kế hoạch đề ra chưa đảm bảo, thiếu chặt chẽ, không quy định cụ thể trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức, cá nhân liên quan trong việc triển khai thực hiện chính sách, có kế hoạch không quy định cụ thể các nguồn lực để thực hiện chính sách, dẫn đến việc triển khai thực hiện chính sách không hiệu quả và gặp khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.

1.1.3.2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách công

Khi kế hoạch triển khai thực hiện chính sách công được phê duyệt và thông qua, các cơ quan Nhà nước dựa theo kế hoạch để triển khai tổ chức thực hiện đảm bảo. Trước hết là phải tập trung tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia thực hiện chính sách công, đây là khâu có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, giúp người dân hiểu được mục đích, yêu cầu, vai trò cũng như tầm quan trọng của chính sách, đồng thời, tạo điều kiện cho mỗi CBCC phát huy tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

1.1.3.3. Phân công thực hiện chính sách công

Đa số các chính sách công được triển khai thực hiện trên phạm vi rộng lớn và số đông các đối tượng thụ hưởng, vì vậy nên số lượng tham gia thực thi chính sách công cũng rất đông và vô cùng phức tạp. Điều đó đòi hỏi muốn tổ chức thực thi chính sách công có hiệu quả, cần phải tiến hành phân công, phối hợp hài hòa, hợp lý giữa các cơ quan quản lý, các cấp, các ngành liên quan trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, đồng thời phải đảm bảo đúng quy trình nhằm duy trì ổn định chính sách và đem lại hiệu quả cao.

1.1.3.4. Duy trì chính sách công

Đây là hoạt động có ý nghĩa, nhằm giúp duy trì chính sách và giúp chính sách ngày càng phát huy tác dụng trong đời sống xã hội. Quá trình triển khai thực hiện chính sách, trên cơ sở kết quả đạt được, các tổ chức, cá nhân thực thi chính sách có trách nhiệm so sánh, đối chiếu với mục tiêu chính sách đề ra, tìm ra những bất cập, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, từ đó đề xuất với cấp có thẩm quyền điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung chính sách một cách hợp lý hơn. Khi cần thiết, các cơ quan có thẩm quyền có thể sử dụng các biện pháp nhằm duy trì chính sách vì lợi ích chung của xã hội.

1.1.3.5. Điều chỉnh chính sách công

Cơ quan ban hành chính sách chính là cơ quan điều chỉnh, bổ sung chính sách, tuy nhiên, việc điều chỉnh, bổ sung chính sách sẽ được các cơ quan Nhà nước điều chỉnh một cách linh hoạt để thực hiện hiệu quả chính sách nhưng không làm thay đổi mục tiêu chính sách. Mục đích của việc điều chỉnh, bổ sung chính sách là để tiếp tục duy trì chính sách và thích ứng với từng thời kỳ phát triển của xã hội.

1.1.3.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách công

Mỗi chính sách được triển khai thực hiện trong điều kiện hoàn toàn khác nhau, từ môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như năng lực tổ chức, điều hành của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, để chính sách công được triển khai thực hiện hiệu quả, cần phải có sự kiểm tra, theo dõi, đôn đốc nhắc nhỡ trong việc tổ chức thực hiện chính sách. Qua đó, cũng khẳng định được mục tiêu cụ thể của chính sách và có sự tập trung hơn cho những vấn đề quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện. Từ đó, các tổ chức, cá nhân phải có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc quá trình thực hiện chính sách nhằm giúp chính sách đạt hiệu quả tốt nhất.

1.1.3.7. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm

Việc đánh giá, rút kinh nghiệm về quá trình triển khai thực hiện chính sách là công việc cần thiết và có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi chính sách. Qua đó, giúp chúng ta nhìn nhận một cách toàn diện, tổng thể và khách quan nhất những kết quả đã đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu sót và những bấp cập, khó khăn, vướng mắc nhằm rút kinh nghiệm cho việc xây dựng và ban hành chính sách sau này.

Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm là d các cơ quan Nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị – xã hội các cấp triển khai thực hiện. Qua đó, sửa đổi, bổ sung chính sách và đưa ra các cơ chế, biện pháp hợp lý để tiến hành thực hiện tốt các mục tiêu chính sách đặt ra trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

1.1.4. Các giải pháp, công cụ và nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách

1.1.4.1. Các giải pháp, công cụ thực hiện chính sách

– Giải pháp kinh tế: Đây là biện pháp dùng công cụ kinh tế để tác động vào đối tượng chính sách. Công cụ này thường được sử dụng phổ biến nhất trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCH của nước ta.

– Giải pháp giáo dục, thuyết phục: Để chính sách đạt được mục tiêu đề ra, các nhà quản lý thường xuyên sử dụng công cụ giáo dục, thuyết phục để nâng cao ý thức trách nhiệm và tính tự giác của các đối tượng thực thi chính sách. Giải pháp này có hiệu quả tốt nhất khi có sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, bên cạnh đó những người làm công tác tuyên truyền, giáo dục cũng cần phải có kiến thức, uy tín và kỹ năng truyền đạt hiệu quả.

– Giải pháp hành chính: Các nhà quản lý sử dụng quyền lực Nhà nước để tác động vào đối tượng chính sách buộc đối tượng thực thi chính sách phải tuân thủ nhằm lập lại trật tự và tạo điều kiện thuận lợi để triển khai thực hiện hiệu quả hai giải pháp trên.

Tuy nhiên trong thực tế, đa số các chính sách đều sử dụng kết hợp hài hòa giữa các giải pháp, công cụ trên để đạt được mục tiêu chính sách đặt ra.

1.1.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức thực thi chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện

– Nhân tố khách quan

Tính chất của vấn đề chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện: Vấn đề chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện là vấn đề phức tạp. Tính phức tạp của vấn đề chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện ở chỗ không chỉ số lượng cán bộ, công chức quá lớn mà còn do đặc điểm, đặc thù, tính chất chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của công chức rất đa dạng, phong phú và khác nhau. Công chức làm việc trong các ngành, nghề, lĩnh vực sự nghiệp công khác nhau đòi hỏi phải có chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp tương ứng. Không có chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp chung cho tất cả các ngành nghề, lĩnh vực sự nghiệp công. Chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của công chức sự nghiệp y tế càng khác xa với chuyên môn nghiệp vụ của công chức sự nghiệp khoa học công nghệ và công chức sự nghiệp khác. Do đó, nhu cầu và yêu cầu tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho công chức các ngành nghề lĩnh vực sự nghiệp công cũng rất khác nhau. Đặc điểm, đặc thù này là biểu hiện rõ tính phức tạp của vấn đề chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện. Nó gây khó khăn và phức tạp cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách. Do tính phức tạp của vấn đề chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện nên trong tổ chức thực hiện chính sách cần phải chú ý đến tác động ảnh hưởng của nó để chủ động tìm kiếm các giải pháp khắc phục mới cho kết quả và hiệu quả mong muốn.

Môi trường thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện: Là yếu tốt liên quan đến các hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh, quốc phòng. Theo nghĩa rộng, môi trường thực hiện chính sách chứa đựng toàn bộ thành phần vật chất và phi vật chất tham gia thực hiện chính sách đó như các nhóm lợi ích có được từ chính sách, bầu không khí chính trị, các điều kiện vật chất trong nền kinh tế, trật tự xã hội hay quan hệ quốc tế. Điều này nói lên rằng môi trường chính sách cũng đặt ra nhiều thách thức trong quá trình thực hiện chính sách đó là: Hệ thống các cơ quan có chức năng hoạt động khá đa dạng.

Mối quan hệ giữa các đối tượng thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện: Thể hiện trong sự thống nhất về lợi ích hay mức độ phối hợp trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách của các đối tượng. Trong tổ chức thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện có sự khác nhau giữa các chế độ phụ cấp trong thực hiện chính sách. Vì vậy, cần có sự thống nhất, phối hợp giữa các đối tượng trong quá trình thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện.

Tiềm lực của các nhóm đối tượng chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện: Được hiểu là thực lực và tiềm năng của mỗi nhóm đối tượng chính sách có được trong mối quan hệ so sánh với các nhóm đối tượng khác. Tiềm lực của cán bộ, công chức hiện nay nhìn chung có nhiều thuận lợi cho việc thực hiện chính sách này.

Đặc tính của đối tượng chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện: Do tính chất đặc trưng nghề nghiệp nên công chức đa phần là những công chức có năng lực trình độ cao, khá nhạy bén và dễ dàng tiếp cận những chính sách mới và có ý thức kỷ luật cao. Đây là mặt thuận lợi trong việc thực hiện chính sách phát triển cán bộ, công chức cấp huyện ở nước ta hiện nay.

– Nhân tố chủ quan

Một là, các yếu tố thuộc về cơ quan, tổ chức, do công chức chủ động chi phối đến quá trình thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện nên nó ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện. Việc thực hiện chính sách luôn đòi hỏi phải thực hiện đầy đủ các bước, các khâu trong quy trình thực hiện chính sách. Nếu thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện thiếu một trong các bước này thì chính sách đó sẽ không đạt kết quả tốt, sẽ đi không đúng mục tiêu, yêu cầu đặt ra.

Hai là, năng lực thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện của đội ngũ công chức có trách nhiệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức ở nước ta hiện nay. Muốn năng lực thực hiện chính sách tốt trước hết đội ngũ công chức tham gia thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện phải quyết định chất lượng, hiệu quả của việc thực hiện chính sách.

Ba là, điều kiện vật chất cho quá trình thực hiện chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện đối với công chức tham gia thực hiện chính sách. Điều kiện vật chất là một trong những yếu tố quan trọng cho quá trình thực hiện chính sách. Về điều kiện vật chất này Đảng và Nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn lực vật chất và nhân sự, trong đó nguồn lực vật chất cần tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng. Trong thực tế, do thiếu các điều kiện vật chất, kỹ thuật cho công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện thì các cơ quan nhà nước khó có thể chuyển tải những nội dung chính sách đến với chủ thể tham gia và đối tượng thụ hưởng một cách thường xuyên.

Bốn là, sự đồng tình, ủng hộ của đối tượng thụ hưởng chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện là đội ngũ công chức ở nước ta và các đối tượng liên quan. Đây là nhân tố có vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của chính sách hay cũng là vấn đề hết sức lớn lao, bởi việc thực hiện các mục tiêu chính sách không thể chỉ do các cơ quan, tổ chức nhà nước làm, mà phải có sự tham gia của đội ngũ công chức. Vì mỗi công chức không chỉ là người trực tiếp thụ hưởng lợi ích do chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện mang lại. Do vậy, chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện đáp ứng được nhu cầu thực tế được sự ủng hộ, đồng tình của đối tượng thụ hưởng chính sách là đội ngũ cán bộ, công chức thì chính sách phát triển cán bộ công chức cấp huyện mới hiệu quả.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 1/ THAI THI TUONG VAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *