Thời hạn trong điều tra truy tố xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Thời hạn trong điều tra truy tố xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

1. Tính cấp thiết của đề tài

TTHS là quá trình tiến hành giải quyết VAHS theo quy định của pháp luật TTHS bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan THTT; người THTT; người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan và tổ chức khác góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật TTHS. Nói cách khác, TTHS là trình tự và thủ tục khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử VAHS và thi hành bản án, quyết định của toà án do pháp luật TTHS quy định [35, tr.5]. Quá trình giải quyết VAHS bao gồm các giai đoạn nhất định do luật định. Ở mỗi giai đoạn do cơ quan và người THTT khác nhau đảm nhiệm. Những mối quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tố tụng giữa các cơ quan và người THTT với người tham gia tố tụng được pháp luật TTHS điều chỉnh, trong đó quy định các quyền và nghĩa vụ của cơ quan, người THTT cũng như của người tham gia tố tụng. Thủ tục TTHS được pháp luật quy định đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử được khách quan, toàn diện, chính xác và công bằng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có liên quan.

Trong các thủ tục TTHS thì thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là một nội dung quan trọng của pháp luật TTHS, có ý nghĩa bảo đảm quyền con người, quyền công dân, đấu tranh PCTP và vi phạm pháp luật. Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là nội dung quan trọng của pháp luật TTHS, đồng thời là bộ phận cấu thành của thủ tục TTHS hiện diện trong tất cả các mô hình TTHS trên thế giới, xuyên suốt quá trình lịch sử [6, tr.3]. Việc quy định thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS hợp lý, khoa học là cơ sở quan trọng để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ này, đồng thời tăng cường trách nhiệm của các cơ quan THTT, người THTT trong việc phát hiện và xử lý tội phạm nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động TTHS. BLTTHS năm 2015 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hạn tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Bên cạnh phát triển kinh tế – xã hội, tại địa bàn huyện Phù Mỹ thời gian qua tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững, tuy nhiên tình hình tội phạm trên địa bàn vẫn có những diễn biến khá phức tạp, có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức khác nhau, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt. Trong khi đó, công tác xử lý các VAHS, các đối tượng gây án còn nhiều bất cập, gặp nhiều khó khăn trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật TTHS, nhất là vấn đề áp dụng quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS còn nhiều hạn chế, bất cập. Thực tiễn cho thấy hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay vẫn theo nếp cũ, còn chậm chạp, kéo dài, tình trạng vi phạm thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm còn xảy ra, số lượng vụ án áp dụng thủ tục rút gọn chiếm tỷ lệ nhỏ [37, tr.11].

Vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện lý luận, nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trong TTHS tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định là một đòi hỏi hết sức cấp bách đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đấu tranh PCTP đảm bảo sự ổn định về TTATXH, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn trên, xét thấy cần phải nghiên cứu sâu hơn, đầy đủ hơn về nội dung này, đó cũng là lý do tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định” làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS.

– Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS hiện nay trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Trên cơ sở đó tìm ra những hạn chế, những vi phạm của việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.

– Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

– Hệ thống hóa và thống nhất nhận thức một số vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam.

– Khảo sát thu thập thông tin, số liệu thực tế nhằm phân tích tình hình; đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

– Nêu lên những yêu cầu của cải cách tư pháp và yêu cầu hoàn thiện pháp luật, từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trong thời gian tới trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Nghiên cứu về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam.

– Các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam quy định tại BLTTHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng của CQĐT, VKS, Tòa án về các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy định trong BLTTHS năm 2015.

– Phạm vi không gian nghiên cứu: địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

– Phạm vi về thời gian nghiên cứu: nghiên cứu pháp luật hiện hành và các số liệu điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong phạm vi 05 năm gần đây (từ năm 2015 đến hết năm 2019).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin về nhà nước và pháp luật nói chung, nhà nước và pháp luật XHCN nói riêng; tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác đấu tranh PCTP, cải cách tư pháp, nhà nước pháp quyền và vấn đề quyền con người.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

Phương pháp thống kê: được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực tế thu thập tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định nhằm minh họa, làm rõ thực trạng của tình hình áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019 trong chương 2 của luận văn.

– Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: được sử dụng xuyên suốt trong luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận, pháp lý, so sánh, phân tích các tài liệu, số liệu, phát hiện, luận giải về các nội dung có liên quan đến đề tài luận văn; tổng hợp các tài liệu, số liệu phản ánh thực tiễn áp dụng về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS để rút ra kết luận.

Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án điển hình (được sử dụng chủ yếu tại chương 2): Để có cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, đánh giá trong luận văn, tác giả đã nghiên cứu, tìm hiểu hồ sơ một số vụ án trong đó có áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS tại địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận khoa học về thời hạn trong TTHS nói chung, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn chỉ đạo và tiến hành hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật hình sự và TTHS để ngăn chặn, đấu tranh PCTP trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.

Luận văn là công trình khoa học khảo sát một cách toàn diện về thực tiễn áp dụng thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm 2019. Làm rõ những kết quả đạt được, các hạn chế, nguyên nhân những hạn chế, từ đó đề xuất các kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng các quy định về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS trong đấu tranh PCTP ở địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục phần nội dung của luận văn được cấu trúc gồm 3 chương.

Chương 1: Lý luận chung về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật hiện hành về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỜI HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.1.1. Khái niệm thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ học biên soạn năm 2010: “Thời hạn là khoảng thời gian có giới hạn nhất định để làm việc gì đó” [38, tr.1121]. Theo Từ điển Luật học của Viện nghiên cứu pháp lý – Bộ Tư pháp thì “Thời hạn là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác” [39, tr.718]“Thời hạn tố tụng là thời gian được pháp luật quy định để tiến hành các hành vi tố tụng” [39, tr.720]. Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “1. Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác. 2. Thời hạn có thể được xác định bằng phút, giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra.” [27, tr. 54]. Điều 182 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “1. Thời hạn tố tụng là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác để người THTT người tham gia tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện hành vi tố tụng do Bộ luật này quy định. 2. Thời hạn tố tụng có thể được xác định bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể sẽ xảy ra.” [28, tr.171].

Nhìn chung, nếu áp dụng các khái niệm này cho thời hạn TTHS thì chưa đầy đủ, trọn vẹn, thời hạn TTHS phải do pháp luật TTHS quy định. Thời hạn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong TTHS, bởi thời hạn chính là giới hạn, thời gian dành cho các chủ thể của TTHS thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. BLTTHS năm 2015 không đưa ra một định nghĩa riêng về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS, tuy nhiên theo tinh thần Điều 134 BLTTHS năm 2015 có thể hiểu khái niệm thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời điểm khác do BLTTHS quy định cho từng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS và hành vi tố tụng trong mỗi giai đoạn cụ thể [36, tr.34].

Từ những phân tích trên, có thể thấy, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS chỉ do pháp luật TTHS quy định. Thực tiễn cho thấy có nhiều loại thời hạn khác nhau và việc quy định các thời hạn cũng không giống nhau. Thời hạn TTHS không chỉ đơn thuần là giới hạn thời gian mà còn được xác định với tư cách là một sự kiện pháp lý đặc biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong những trường hợp luật định. Trong giới hạn thời gian hoặc tại thời điểm khi thời hạn này kết thúc thì làm phát sinh hậu quả pháp lý. Xét về tính chất, thời hạn TTHS vừa mang tính khách quan của thời gian, vừa mang tính chủ quan của chủ thể trong việc đặt ra thời gian để tiến hành các hoạt động, hành vi tố tụng nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu cụ thể.

Chúng tôi cho rằng nội hàm khái niệm thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS gồm:

– Thứ nhất, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS do pháp luật TTHS quy định;

– Thứ hai, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS là khoảng thời gian được xác định;

– Thứ ba, trong khoảng thời gian đã xác định đó để tiến hành các hoạt động tố tụng, hành vi tố tụng, cụ thể là hoạt động điều tra, truy tố và hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS.

Trên cơ sở những phân tích như trên, chúng tôi đưa ra khái niệm: “Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian do pháp luật tố tụng hình sự quy định, trong đó các chủ thể tố tụng hình sự thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, hành vi tố tụng khác nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ cụ thể của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự”.

1.1.2. Đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Một là, thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy định trong BLTTHS

Thời hạn trong TTHS được nêu rõ trong BLTTHS, yêu cầu các cơ quan và người có thẩm quyền THTT áp dụng một cách nghiêm chỉnh.

Hai là, mỗi thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đều gắn liền với việc giải quyết các nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

Trong mỗi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khác nhau đặt ra cho các chủ thể mục tiêu, trình tự, thủ tục, nội dung nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể cần giải quyết trong thời hạn đó [36, tr.38].

Ba là, các thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS nằm trong một chỉnh thể thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

Mỗi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm được xác định bằng thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và đều là một phần độc lập tương đối trong tiến trình TTHS. Tuy nhiên, các thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm nằm trong một chỉnh thể thống nhất của thời hạn giải quyết VAHS, được bắt đầu từ khi khởi tố vụ án đến khi ra bản án, quyết định hình sự sơ thẩm. Các thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS có liên quan hết sức chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau tạo thành sự đồng bộ, thống nhất trong toàn bộ quá trình giải quyết VAHS cũng như ở từng giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.

Bốn là, mỗi loại thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được áp dụng đối với những chủ thể xác định, buộc những chủ thể này phải thực hiện các hoạt động, hành vi, quyết định tố tụng trong thời hạn luật định

Quá trình giải quyết VAHS nói chung, quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS nói riêng phải do nhiều cơ quan, nhiều người THTT thực hiện với sự tham gia của những người tham gia tố tụng khác nhau. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS phải trải qua các bước với các thời hạn TTHS tương ứng được áp dụng đối với chủ thể đặc trưng, tương ứng trong giai đoạn đó. Ví dụ: chẳng hạn, trong giai đoạn điều tra VAHS được áp dụng đối với chủ thể đặc trưng là CQĐT, theo đó, CQĐT trong phạm vi trách nhiệm của mình phải tiến hành các biện pháp, hoạt động điều tra nhằm chứng minh VAHS [18, tr.45].

Năm là, mỗi thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được kết thúc bằng hành vi, quyết định TTHS khác nhau

Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được tính theo quy định của BLTTHS nên chỉ có thể xác định thời điểm kết thúc của loại thời hạn này bằng các quyết định tố tụng của các cơ quan THTT có thẩm quyền ban hành trong quá trình giải quyết VAHS. Ví dụ: Thời hạn trong giai đoạn điều tra được kết thúc bằng việc CQĐT phải ra bản kết luận điều tra và việc điều tra kết thúc khi CQĐT ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết định đình chỉ điều tra [26, tr.159].

Sáu là, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy định ở dạng tối đa và có thể gia hạn, phục hồi

Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS được quy định ở dạng tối đa bởi vì tính phức tạp của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, tạo điều kiện cho các chủ thể THTT sự chủ động về mặt thời gian để triển khai các hoạt động TTHS. Bên cạnh đó, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS đều có thể được gia hạn, thể hiện sự linh hoạt và mềm dẻo của thời hạn TTHS, bảo đảm cho việc giải quyết các VAHS có căn cứ, hợp lý, hợp pháp.

1.2. Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

1.2.1. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật mới nhằm bảo vệ chính quyền còn non trẻ và xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Chính phủ đã ban hành một số sắc luật, sắc lệnh và các văn bản hướng dẫn quy định về thủ tục TTHS góp phần nâng cao hiệu quả việc xử lý tội phạm được chặt chẽ, nhanh chóng, kịp thời, cụ thể:

Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quy định về bảo vệ tự do cá nhân, trong đó có đề cập đến các quy định về thời hạn tố tụng, bao gồm: thời hạn phải hỏi cung không quá 24 giờ kể từ khi bị bắt (Điều thứ 2); thời hạn giam cứu, thời hạn gia hạn giam cứu dựa vào căn cứ phân loại tội phạm là tội tiểu hình và tội đại hình, theo đó thời hạn giam cứu trước khi xét xử không quá 01 tháng đối với tội tiểu hình, không quá 03 tháng đối với tội đại hình (Điều thứ 3); thời hạn gia hạn giam cứu không quá 01 tháng đối với tội tiểu hình, không quá 03 tháng đối với tội đại hình (Điều thứ 4); thời hạn giam cứu sau khi tòa án tuyên án là không quá 03 tháng kể từ ngày tuyên án (Điều thứ 5) [12, tr.3-4].

Sắc lệnh số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 của Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân tiếp tục quy định một số loại thời hạn TTHS như: thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ lúc nhận can phạm để xét xử và hỏi cung (Điều 5); thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam dựa trên căn cứ mức hình phạt mà luật hình sự quy định, theo đó thời hạn tạm giam không quá 02 tháng đối với các vụ thường phạm mà luật pháp quy định hình phạt từ 05 năm tù trở xuống, không quá 04 tháng đối với các vụ phạm đến an toàn nhà nước và các vụ thường phạm mà luật pháp quy định hình phạt trên 05 năm tù [22, tr.3].

Nghị định số 301/TTg ngày 10/7/1957 của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn thi hành Sắc lệnh số 103-SL/L.005 ngày 20/5/1957 về bảo đảm quyền tự do thân thể và quyền bất khả xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân hướng dẫn thời hạn hỏi cung không quá 24 giờ kể từ khi tạm giữ can phạm (Điều 4); thời hạn đưa vụ án ra xét xử được xác định căn cứ vào mức hình phạt mà luật pháp quy định đối với tội phạm đó, cụ thể là các tòa án phải xét xử trong thời hạn 02 tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt từ 05 năm tù trở xuống và trong thời hạn 04 tháng đối với những vụ án mà luật pháp phạt trên 05 năm tù [30, tr.3].

Nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết các VAHS, trong thời kỳ này có các văn bản pháp luật quy định về thủ tục rút gọn như: Thông tư số 10-TATC ngày 08/7/1974 của TAND tối cao quy định về thủ tục rút ngắn trong việc điều tra, truy tố, xét xử một số VAHS ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng; Chỉ thị số 954-CP ngày 17/8/1976 của Bộ Nội vụ về việc áp dụng thủ tục rút gọn trong việc điều tra; Thông tư số 01-TTLN ngày 31/5/1985 của liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp quy định về công tác điều tra, truy tố và xét xử theo thủ tục rút ngắn.

Có thể thấy, trong thời kỳ này, Nhà nước ta tập trung vào nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước nên chưa có điều kiện hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về tư pháp hình sự nói riêng. Do vậy, các quy định về thời hạn TTHS chưa có hệ thống, còn sơ sài, nằm tản mạn, rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chủ yếu được ghi nhận trong các văn bản dưới luật như sắc lệnh, sắc luật hoặc văn bản hướng dẫn của Chính phủ. Các văn bản này chỉ quy định thời hạn TTHS liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như: thời hạn tạm giữ, tạm giam, hỏi cung bị can, bị cáo dựa trên tiêu chí phân loại tội phạm hoặc theo mức hình phạt đối với tội phạm được thực hiện; không quy định cụ thể về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử VAHS.

BLTTHS đầu tiên của nước ta được Quốc hội ban hành năm 1988, trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. BLTTHS năm 1988 đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp bảo vệ những thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Liên quan đến chế định thời hạn TTHS, tư tưởng chỉ đạo xây dựng Bộ luật là không có hoạt động tố tụng nào lại không bị ràng buộc bởi thời hạn để đề cao trách nhiệm của các chủ thể THTT, buộc những chủ thể này phải thực hiện các hoạt động tố tụng trong thời hạn luật định, bảo đảm việc giải quyết các VAHS nhanh chóng, kịp thời, chống sự tùy tiện, kéo dài. Cụ thể, BLTTHS năm 1988 quy định nhiều loại thời hạn tố tụng như sau:

Căn cứ vào các giai đoạn tố tụng, thời hạn TTHS được phân chia thành thời hạn tố tụng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Cùng với các giai đoạn tố tụng còn có thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và bảo đảm thi hành án hình sự.

Căn cứ vào định lượng về thời gian, thời hạn TTHS được phân chia thành: thời hạn TTHS tính theo giờ, thời hạn TTHS tính theo ngày, thời hạn TTHS tính theo tháng, thời hạn TTHS tính theo năm và thời hạn TTHS vừa tính theo ngày vừa tính theo tháng, cụ thể là: Thời hạn tính theo giờ như thời hạn gửi quyết định khởi tố VAHS là 24 giờ (Điều 87), trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt (Điều 65)… Thời hạn được tính theo ngày như thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày đêm, có thể gia hạn tạm giữ nhưng không quá 03 ngày đêm (Điều 69); thời hạn giải quyết khiếu nại là 15 ngày kể từ khi nhận được khiếu nại (Điều 144)… Thời hạn tính theo tháng như thời hạn điều tra không quá 04 tháng kể từ khi khởi tố VAHS (Điều 97)… Thời hạn tính theo năm như thời hạn hoãn thi hành án phạt tù đến 01 năm đối với người bị kết án (Điều 231), thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án là 01 năm kể từ ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật (Điều 247). Thời hạn tính theo ngày và tháng như thời hạn chuẩn bị xét xử là 45 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án (Điều 151) [24].

Nhìn chung, đa số quy định về thời hạn tố tụng trong BLTTHS năm 1988 được xây dựng dựa trên tiêu chí phân loại tội phạm trong BLHS năm 1985, đồng thời có cân nhắc đến tiêu chí về tính chất phức tạp của vụ án để quy định việc gia hạn thời hạn. Tuy nhiên, có một số loại thời hạn tố tụng được quy định không theo tiêu chí phân loại tội mà quy định chung cho tất cả các loại tội như: thời hạn điều tra (kể cả tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng) là 04 tháng kể từ khi khởi tố VAHS (Điều 97). Ngoài ra, một số thời hạn tố tụng được quy định còn căn cứ vào tính chất của vụ án kết hợp với điều kiện của chủ thể được giao thẩm quyền tố tụng, chẳng hạn thời hạn điều tra của bộ đội biên phòng, hải quan và kiểm lâm đối với hành vi phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, ít nghiêm trọng là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án (khoản 1 Điều 93) [24, tr.151].

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được Quốc hội thông qua năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung quy định một số thời hạn tố tụng theo hướng sau: tăng một số loại thời hạn tố tụng. Năm 1992, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 1988. Để bảo đảm thi hành BLHS năm 1999, năm 2000, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 1988, trong đó sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hạn tố tụng cho phù hợp với việc phân loại tội phạm thành 4 loại trong BLHS năm 1999, cụ thể là: sửa đổi thời hạn tạm giam (Điều 71); thời hạn điều tra (Điều 97); thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều tra lại (Điều 98); thời hạn truy tố và thời hạn tạm giam trong giai đoạn truy tố (Điều 142); thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Điều 151).

Qua nghiên cứu sự phát triển của chế định thời hạn tố tụng trong BLTTHS năm 1988 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật này có thể thấy, so với các giai đoạn trước đây, thời hạn tố tụng trong Bộ luật này được quy định cụ thể, chặt chẽ và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, BLTTHS năm 1988 không giới hạn về mặt thời gian đối với hoạt động điều tra và tạm giam để điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm an ninh quốc gia, đồng thời không quy định thủ tục rút gọn.

1.2.2. Thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003

Công cuộc cải cách kinh tế và cải cách hành chính, cải cách tư pháp đang được Đảng và Nhà nước ta tích cực triển khai và coi đây là nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, góp phần làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi. Để tiếp tục thực hiện, đẩy mạnh hơn công cuộc cải cách tư pháp, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08- NQ/TƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Trong Nghị quyết này đã chỉ rõ nhiều vấn đề cụ thể của TTHS đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện để thể chế hóa thành những quy định của BLTTHS, tạo cơ sở pháp lý nâng cao chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự. Mặt khác, thời gian qua cũng đã có nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành có các nội dung liên quan đến TTHS như Luật tổ chức TAND năm 2002, Luật tổ chức VKSND năm 2002; đồng thời cũng cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định BLTTHS năm 1988 cho phù hợp với các quy định của BLHS năm 1999 nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật. Vì vậy, việc sửa đổi toàn diện BLTTHS nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, đấu tranh PCTP và bảo vệ quyền tự do dân chủ của công dân [32, tr.3].

BLTTHS năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2004, thay thế BLTTHS năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS năm 1990, năm 1992 và năm 2000. Thể chế hóa yêu cầu cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, BLTTHS năm 2003 được ban hành đã có những sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hạn tố tụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm hầu hết các hoạt động, hành vi tố tụng đều bị ràng buộc bởi thời hạn. Những sửa đổi, bổ sung này cùng với những quy định khác về thời hạn tố tụng trong BLTTHS năm 2003 đã góp phần thúc đẩy các chủ thể THTT đẩy nhanh, đẩy mạnh hoạt động tố tụng, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân.

Tiểu kết Chương 1

Thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian do pháp luật tố tụng hình sự quy định, trong đó các chủ thể tố tụng hình sự thực hiện các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, hành vi tố tụng khác nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ cụ thể của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Chương 1 luận văn đã tập trung làm rõ những vấn đề về lý luận chung về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS. Trong đó, tác giả đã phân tích khái niệm, đặc điểm của thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS và các căn cứ xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS. Qua đó, luận văn đã làm rõ 05 căn cứ để xác định thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS đó là: căn cứ vào phân loại tội phạm; căn cứ vào tính chất phức tạp của VAHS; căn cứ vào khả năng giải quyết các VAHS; căn cứ vào thủ tục tố tụng, vào nhiệm vụ đặt ra cho các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm; căn cứ vào yếu tố văn hóa, thói quen pháp lý. Chương 1, luận văn cũng đã trình bày lược sử các quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 2015 về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS. Trên cơ sơ lý luận về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS, tác giả sẽ trình bày, làm rõ về thực trạng của công tác áp dụng các quy định của BLTTHS hiện hành về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm VAHS từ thực tiễn huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định trong những năm gần đây tại phần sau của luận văn.

CHƯƠNG 2

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH

VỀ THỜI HẠN TRONG ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ

SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI

HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

2.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về thời hạn trong điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

2.1.1. Cách tính thời hạn

Theo quy định tại Điều 134 BLTTHS năm 2015:

“1. Thời hạn mà Bộ luật này quy định được tính theo giờ, ngày, tháng, năm. Đêm được tính từ 22 giờ đến 06 giờ sáng ngày hôm sau.

Khi tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn.

Khi tính thời hạn theo tháng thì thời hạn hết vào ngày trùng của tháng sau; nếu tháng đó không có ngày trùng thì thời hạn hết vào ngày cuối cùng của tháng đó; nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của thời hạn.

Khi tính thời hạn tạm giữ, tạm giam thì thời hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn được ghi trong lệnh, quyết định. Nếu thời hạn được tính bằng tháng thì 01 tháng được tính là 30 ngày.

2. Trường hợp có đơn hoặc giấy tờ gửi qua dịch vụ bưu chính thì thời hạn được tính theo dấu bưu chính nơi gửi. Nếu có đơn hoặc giấy tờ gửi qua cơ sở giam giữ thì thời hạn được tính từ ngày Trưởng Nhà tạm giữ, Trưởng Buồng tạm giữ thuộc Đồn biên phòng, Giám thị Trại tạm giam, Giám thị Trại giam nhận đơn hoặc giấy tờ đó.” [26, tr.159].

Trong TTHS, thời hạn là một chế định rất quan trọng, nó liên quan đến rất nhiều chế định khác như điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử… Quy định thời hạn một cách hợp lý sẽ bảo đảm cho hoạt động tố tụng được tiến hành nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tài sản và công sức của Nhà nước và những người tham gia tố tụng khác, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để ngăn ngừa và hạn chế tình trạng vi phạm các quy định về thời hạn, Điều luật đã quy định cách tính thời hạn trong BLTTHS nước ta theo giờ, ngày và tháng.

Điều luật quy định đêm được tính từ 22 giờ ngày hôm trước đến 6 giờ sáng ngày hôm sau. Đây là một quy định rất quan trọng bởi lẽ, trong khoảng thời gian nói trên, một số hành vi và hoạt động tố tụng không được tiến hành trừ trường hợp có lí do không thể trì hoãn (Ví dụ: không được hỏi cung vào ban đêm, không được khám nhà, bắt người vào ban đêm…). Thời hạn quy định trong điều luật này được tính theo dương lịch. Theo lịch, không phải tất cả các tháng đều có 30 ngày mà có những tháng có 31 ngày, 28 hoặc 29 ngày. Luật quy định khi tính thời hạn theo tháng thì thời hạn kết thúc vào ngày trùng của tháng sau, nếu tháng đó không có ngày trùng thì thời hạn kết thúc vào ngày cuối cùng của tháng đó. Nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của thời hạn. Ngày nghỉ là ngày không làm việc trong tuần theo chế độ làm việc 40 giờ/1 tuần, là các ngày thứ bảy, ngày chủ nhật hoặc những ngày lễ, tết trong năm theo quy định của pháp luật.

Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo và từ lợi ích của người bị truy tố về hình sự, điều luật quy định khi cơ quan THTT ra quyết định tạm giữ, tạm giam phải ghi rõ trong lệnh tạm giữ, tạm giam, thời gian bắt đầu và thời hạn kết thúc. Trong trường hợp trong lệnh tạm giam chỉ ghi ngày bắt đầu tạm giam và thời hạn tạm giam được tính bằng tháng thì một tháng được tính là 30 ngày.

Trong TTHS, pháp luật quy định có hai hình thức gửi đơn hoặc giấy tờ, tài liệu. Đó là gửi trực tiếp cho người hoặc cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận và gửi qua đường bưu điện. Trong trường hợp đơn, giấy tờ hoặc tài liệu được gửi qua đường bưu điện thì thời hạn bắt đầu được tính theo thời gian ghi trên dấu của bưu điện nơi gửi. Trong thực tế, các bị can, bị cáo, người bị kết án đang trong các trại tạm giam, trại giam không thể gửi đơn từ, giấy tờ, tài liệu theo một trong hai hình thức nói trên mà bắt buộc phải gửi qua khâu trung gian là ban giám thị trại tạm giam, trại giam. Trong trường hợp này, thời hạn gửi tài liệu hoặc giấy tờ, đơn từ được tính từ ngày Ban giám thị trại tạm giam, trại giam nhận đơn hoặc giấy tờ, tài liệu đó. Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị kết án đang trong các trại tạm giam, trại giam, Bộ Công an ra các quy định cụ thể về thủ tục tiếp nhận đơn từ, giấy tờ, tài liệu của Ban giám thị các trại giam, trại tạm giam khi các trại viên có nhu cầu gửi đơn từ, giấy tờ hoặc tài liệu tới những người THTT hoặc cơ quan THTT có thẩm quyền.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 11\SAU BAO VE\DOT 3/ MAI THANH QUANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *