Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định tại Trung tâm Viễn thông Buôn Ma Thuột

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã mở ra một cơ hội rất lớn cho các công nghệ của thế giới nói chung và doanh nghiệp Viễn thông nói riêng, tạo ra một cơ hội phát triển rất lớn cho các quốc gia đang phát triển nhưng cũng là một thách thức rất to lớn đối với mọi nền kinh tế. Internet có tầm quan trọng cực kỳ lớn và đem lại rất rất nhiều lợi ích cho toàn bộ nhân loại toàn cầu.

+ Internet giúp truyền tải thông tin nhanh hơn,

+ Sử dụng kho dữ liệu khổng lồ trên mạng.

+ Giúp kết nối và điều khiển từ xa, tự động hóa.

+ Phát triển kinh doanh Online trên nền tảng internet.

+ Quản lý công việc và phát triển kiinh doanh.

+ Thực hiện các hình thức giải trí qua mạng xã hội…

Để sử dụng hiệu quả các tài nguyên từ Internet và khai thác một cách có hiệu quả thì cần có một nền tảng mạng Internet tốt, đó cũng chính là yếu tố cạnh tranh gay gắt và nhắm tới của mọi doanh nghiệp đồng cung cấp dich vụ Internet tại mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam. Nhu cầu sự dụng internet của người Việt Nam ngày càng cao về cả số lượng và chất lượng.

Ngày 16/12/2020, Việt Nam kỷ niệm Ngày Internet Việt Nam 2020. Đã khái quát lên bức tranh toàn cảnh về internet tại Việt Nam.

Cách đây hơn 20 năm, Việt Nam lần đầu tiên kết nối Internet. Tuy là nước mở cửa Internet chậm hơn so với thế giới, tuy nhiên đến nay, Việt Nam lại đang là quốc gia có sự phát triển Internet mạnh mẽ nhất khu vực và được xem là động lực cho phát triển kinh tế văn hóa xã hội và hội nhập quốc tế. Cụ thể, hiện, Việt Nam là 1 trong 20 nước có tỉ lệ sử dụng Internet nhiều nhất thế giới với 68,17 triệu người dùng (chiếm 70% dân số). Khoảng 94% người dùng Việt Nam sử dụng Internet thường xuyên với thời gian sử dụng trung bình lên tới 6 tiếng mỗi ngày. 

Có thể nói đây là một miếng bánh thị trường lớn đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ băng rộng tại Việt Nam, tuy nhiên đây cũng là một thời cơ và cũng là thách thức cho các doanh nghiệp này. Thực tế thì chất lượng cung cấp dịch vụ, tốc độg dịch vụ băng rộng cố định ở Việt Nam còn thấp hơn rất nhiều so với các nước trên thế giới, lý do tốc độ mạng tại Việt Nam chậm hơn trung bình thế giới, khả năng nâng cấp cũng không theo kịp đến từ năng lực hạn chế của cơ sở hạ tầng, nguồn lực đầu tư của các nhà mạng chưa đủ. Bên cạnh đó chúng ta cũng có một lợi thế lớn đó là nguồn nhân lực trẻ, khả năng nắm bắt công nghệ tốt và đặc biệt được tiếp thu những công nghệ tiên tiến của thế giới với vai trò là nước đi sau. Do vậy để nâng cao khả năng đáp ứng chất lượng dich vụ cho khác hàng và đáp ứng nhu cầu phát triển của công nghệ hiện đại, góp phần phát triển kinh tế đất nước thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng dịch vụ băng rộng cố định cũng như nâng cao các năng lực cạnh tranh trong việc cung cấp dịch vụ trên địa bàn.

Tại thành phố Buôn Ma Thuột – Tỉnh Đắk Lắk, tình hình cạnh tranh trên thị trường dịch vụ viễn thông nói chung và dịch vụ Băng rộng cố định nói riêng ngày càng gay gắt, khi các doanh nghiệp đồng cung cấp dịch vụ ngày càng thay đổi nhiều phương pháp bán hàng, nhiều chương trình khuyến mãi, nhiều sự kiện để quảng bá sản phẩm nhằm gây ấn tượng đối với khách hàng và gia tăng phát triển sản phẩm, điều này tạo một áp lực rất lớn cho VNPT Buôn Ma Thuột khi phải liên tục thay đổi và đưa ra những định hướng cụ thể, nâng cao năng lực cạnh tranh cả về chất lượng, chăm sóc khách hàng, giá thành sản phẩm, năng lực mạng lưới… nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tình hình cạnh tranh của đối thủ, vấn đề cấp bách hiện tại của VNPT Buôn Ma Thuột đó là phải xây dựng cho mình một năng lực tổng thể, một chiến lược kinh doanh ngắn hạn, trung hạn, dài hạn nhằm có thể đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của thị trường hiện nay để có thể giữ vững thị trường và tiếp tục gia tăng thị phần.

Xuất phát từ tính cấp thiết của thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định tại Trung tâm Viễn thông Buôn Ma Thuột” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ.

2. Mục tiêu nghiên cứu

2.1. Mục tiêu chung

Phân tích, nhìn nhận thực trạng cạnh tranh dịch vụ Băng rộng cố định của VNPT Buôn Ma Thuột, nhằm phát hiện những điểm mạnh – điểm yếu của VNPT Buôn Ma Thuột so với các nhà đồng cung cấp dịch vụ Băng rộng cố định nói riêng và ngành Viễn thông nói chung trên địa bàn; từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định của VNPT Buôn Ma Thuột.

2.2. Mục tiêu cụ thể

      • Thống kê, đánh giá toàn hệ thống năng lực cạnh tranh dịch vụ băng rộng của VNPT Buôn Ma Thuột.
      • Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ Băng rộng cố định của VNPT Buôn Ma Thuột.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Lý luận và thực tiễn liên quan đến dịch vụ Băng rộng cố định.

3.2. Không gian nghiên cứu

Tại VNPT Buôn Ma Thuột – Tỉnh Đắk Lắk.

3.3. Thời gian nghiên cứu

Nghiên cứu trong khoảng thời gian 2018-2020 và một số giải pháp được đề xuất trong luận văn có ý nghĩa trong thời gian các năm tới.

4. Phương pháp nghiên cứu

4.1. Thu thập số liệu.

Số liệu từ nguồn thông tin của VNPT; các số liệu phản ánh kết quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh của VNPT cũng như của một số đối thủ cạnh tranh liên quan đến dịch vụ Băng rộng cố định… sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích ma trận SWOT để xác định điểm mạnh, điểm yếu của dịch vụ Băng rộng cố định do VNPT Buôn Ma Thuột cung cấp. Xác định cơ hội, thách thức của VNPT Buôn Ma Thuột đối với việc kinh doanh dịch vụ Băng rộng cố định để từ đó đưa ra các chiến lược phù hợp để tạo ra lợi thế cạnh tranh trước dịch vụ Băng rộng cố định của các đối thủ.

4.2. Tổng hợp, phân tích.

Dựa trên những dữ liệu thu thập được, phân tích định tính, định lượng các số liệu từ các báo cáo tổng kết và các dữ liệu thu thập được từ các nguồn thông tin và so sánh giữa các năm với các đối thủ thông qua bảng biểu, đồ thị…

4.3. Công cụ hỗ trợ xử lý dữ liệu.

Sử dụng công cụ EXCEL để xử lý và phân tích các yếu tố, mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, năng lực cạnh tranh dịch vụ Băng rộng cố định tại VNPT Buôn Ma Thuột.

5. Bố cục của đề tài

Kết cấu nội dung chính của đề tài được thiết kế thành 4 chương, cụ thể gồm:

6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP ĐỒNG CUNG CẤP DỊCH VỤ

VIỄN THÔNG

1.1. Những vấn cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp

1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh

Doanh nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế nên chịu sự chi phối hoạt động của các quy luật kinh tế: Quy luật giá trị, quy luật cung cầu và quy luật cạnh tranh. Trong nền kinh tế này, mọi người đều được tự do kinh doanh, đây chính là nguồn gốc dẫn tới cạnh tranh. Vậy cạnh tranh là gì?

Cạnh tranh là hiện tượng tự nhiên, là mâu thuẫn quan hệ giữa các cá thể có chung một môi trường sống khi cùng quan tâm tới một đối tượng nào đó. Trong hoạt động kinh tế, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản xuất, người tiêu dùng) nhằm giành lấy những vị thế lợi hơn trong sản xuất, tiêu thụ hay tiêu dùng hàng hóa để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối bởi các quan hệ cung cầu nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất” (Từ điển Bách khoa,1995. Hà Nội: NXB Từ điển Bách khoa).

Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt cho người tiêu dùng.

Trên thực tế, với những cách tiếp cận khác nhau, theo mục đích nghiên cứu khác nhau nên có nhiều khái niệm về cạnh tranh không đồng nhất. Vì thế phạm trù cạnh tranh có thể được hiểu một cách chung nhất là: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”.

Như vậy chúng ta thấy được cạnh tranh là quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hoá, là nội dung cơ chế vận động của thị trường. Sản xuất hàng hoá càng phát triển, hàng hoá bán ra càng nhiều, số lượng nhà cung ứng càng đông thì cạnh tranh càng gay gắt, kết quả cạnh tranh sẽ tự loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.

1.1.2. Phân loại cạnh tranh

Cạnh tranh vào phạm vị các ngành kinh tế được phân thành nhiều loại bao gồm cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành, cạnh tranh giữa bên mua và cạnh tranh giữa bên bán, cạnh tranh giá cả và cạnh tranh phi giá cả….

1.1.2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia thị trường

a. Cạnh tranh giữa người mua và người bán

Người mua muốn mua hàng hóa với giá thấp nhất. Còn người bán lại muốn bán hàng hóa của mình với giá cao nhất. Sau khi thương lượng giữa hai bên, cuối cùng sẽ thống nhất giá chung.

b. Cạnh tranh giữa người mua và người mua

Người mua sẽ cùng cạnh tranh nhau để có được sản phẩm họ mong muốn, tùy vào mức độ nhu cầu thị trường để thay đổi mức độ cạnh tranh.

c. Cạnh tranh giữa người bán và người bán

Đây là cạnh tranh giữa các nhà cung cấp sản phẩm để dành lấy khách hàng về mình nhằm gia tăng lợi nhuận, cuối cùng khách hàng sẽ được lợi.

1.1.2.2. Căn cứ vào phạm vị các ngành kinh tế

a. Cạnh tranh trong nội bộ ngành.

Là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất hoặc tiêu thụ một loại hàng hóa. Nhằm giành giật điều kiện sản xuất và tiêu thụ có lợi nhất để thu được lợi nhuận siêu ngạch.

b. Cạnh tranh giữa các ngành.

Là các ngành kinh tế cạnh tranh với nhau với mục đích thu lợi nhuận cao nhất về mình. Sự phân bổ vốn đầu tư giữa các ngành kinh tế một cách tự nhiên sẽ hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.

c. Cạnh tranh quốc gia.

Hình thức cạnh tranh này thể hiện qua việc các quốc gia nỗ lực để xây dựng môi trường kinh tế chung ổn định, đảm bảo phân bố hiệu quả nguồn lực và duy trì mức độ tăng trưởng cao, bền vững mang lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp và công dân của mình. Vấn đề cạnh tranh quốc gia rất được các chính phủ quan tâm và có ảnh hưởng sâu sắc tới các doanh nghiệp trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế tạo dựng lợi thế quốc gia, hình ảnh và thương hiệu quốc gia.

Cạnh tranh hoàn hảo là thị trường mà ở đó có rất nhiều người bán sản phẩm tương tự nhau về chất lượng, mẫu mã, chủng loại…. Giá cả sản phẩm là do cung cầu trên thị trường quyết định. Các doanh nghiệp được tự do ra nhập hoặc rút lui khỏi thị trường. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, các doanh nghiệp tham gia kinh doanh muốn thu được lợi nhuận tối đa phải tìm mọi biện pháp giảm chi phí đầu vào, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.

Trong cạnh tranh không hoàn hảo, sức mạnh thị trường thuộc về một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lớn. Các doanh nghiệp trên thị trường này kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau. Sự khác biệt giữa những loại hàng hóa, dịch vụ này thể hiện ở nhãn hiệu hàng hoá. Có những loại hàng hóa, dịch vụ chất lượng như nhau song sự lựa chọn của người tiêu dùng lại căn cứ vào uy tín, nhãn hiệu sản phẩm. Hình thức của cạnh tranh không hoàn hảo đó là hình thức cạnh tranh mang tính độc quyền.

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài ở đây là cạnh tranh sản phẩm – doanh nghiệp trong nội bộ ngành cung cấp dịch vụ Băng rộng cố định trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột.

Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định tại Trung tâm Viễn thông Buôn Ma Thuột
Nâng cao năng lực cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ băng rộng cố định tại Trung tâm Viễn thông Buôn Ma Thuột

1.1.3. Lợi thế cạnh tranh

Lợi thế cạnh tranh là những thứ mà doanh nghiệp đang có lợi thế hơn so với đối thủ. Lợi thế này có thể có được bằng việc tạo ra 1 giá trị lớn hơn, tốt hơn cho khách hàng; hoặc sản xuất và quảng cáo sản phẩm với một mức giá thấp hơn, trong khi vẫn giữ được lợi ích tương đương cho khách hàng. Đây là 1 phần trong khái niệm được đưa ra bởi Giáo sư Michael Porter của ĐH Harvard và được dạy trong chương trình CFA (Chartered Financial Analysts). ông giải thích hiện tượng khi doanh nghiệp tham gia cạnh tranh thương mại quốc tế cần phải có “lợi thế cạnh tranh” và “lợi thế so sánh”. Ông phân tích lợi thế cạnh tranh tức là sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp, của quốc gia, còn lợi thế so sánh là điều kiện tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, môi trường tạo cho doanh nghiệp, quốc gia thuận lợi trong sản xuất cũng như trong thương mại. Ông cho rằng lợi thế cạnh tranh và lợi thế so sánh có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau, lợi thế cạnh tranh phát triển dựa trên lợi thế so sánh, lợi thế so sánh phát huy nhờ lợi thế cạnh tranh.

Bên cạnh đó “Lợi thế cạnh tranh” còn được xem là những năng lực phân biệt của công ty mà những năng lực phân biệt này được khách hàng xem trọng, đánh giá cao vì nó tạo giá trị cao cho khách hàng” (Nguyễn Hữu Lam; Đinh Thái Hoàng; Phạm Xuân Lan, 1998, Quản trị chiến lược phát triển vị thế cạnh tranh. TP.HCM: NXB Giáo dục)

Như vậy, lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Doanh nghiệp thành công luôn làm sản sinh ra những đối thủ cạnh tranh muốn giành lấy lợi nhuận và “miếng bánh béo bở” trong thị phần của mình.

1.1.4. Năng lực cạnh tranh và tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh

1.1.4.1. Quan niệm về năng lực cạnh tranh

Có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với năng lực cạnh tranh, song có thể đưa ra khái niệm chung về năng lực cạnh tranh như sau: “Năng lực cạnh tranh là khả năng giành được thị phần trước các đối thủ cạnh tranh của các doanh nghiệp, ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”.

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán, v.v….. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao.

Cho đến nay quan niệm về năng lực cạnh tranh vẫn chưa được hiểu thống nhất. Để có thể đưa ra quan niệm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần lưu ý một số vấn đề sau:

Một là, quan niệm năng lực cạnh tranh cần phù hợp với điều kiện, bối cảnh và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường tự do trước đây, cạnh tranh chủ yếu trong lĩnh vực bán hàng và năng lực cạnh tranh đồng nghĩa với việc bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ cạnh tranh; trong điều kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh trên cơ sở tối đa hoá số lượng hàng hoá nên năng lực cạnh tranh thể hiện ở thị phần….

Hai là, năng lực cạnh tranh cần thể hiện khả năng đua tranh, tranh giành giữa các doanh nghiệp không chỉ về năng lực thu hút và vận dụng các yếu tố sản xuất, khả năng tiêu thụ hàng hóa, khả năng mở rộng không gian sinh tồn của sản phẩm, khả năng sáng tạo sản phẩm mới.

Ba là, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cần thể hiện được phương thức cạnh tranh phù hợp, bao gồm cả những phương thứ truyền thống và phương thức hiện đại, không chỉ dựa vào lợi thế so sánh mà dựa vào lợi thế cạnh tranh và uy tín.

Như vậy, năng lực cạnh tranh không phải là chỉ tiêu đơn nhất mà là chỉ tiêu mang tính tổng hợp, bao gồm nhiều chỉ tiêu cấu thành và có thể xác định được cho nhóm doanh nghiệp (ngành) và từng doanh nghiệp.

1.1.4.2. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh

Các tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là điều mà các doanh nghiệp luôn phấn đấu để có khả năng cạnh tranh tốt nhất trên thị trường, trong đó chủ yếu tập trung vào các tiêu chí định lượng, để phản ánh năng lực cạnh tranh người ta thường sử dụng những tiêu chí cụ thể như tiêu chí thị phần (T%), tiêu chí thị phần so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất (Ttc), tiêu chí tỷ trọng thị phần tăng hàng năm (Tthn). Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh (H). Tỷ suất lợi nhuận trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận trên tổng doanh thu.

  1. Chỉ tiêu thị phần (T%).
T (%)=Doanh thu (lượng bán) của doanh nghiệpx 100
Tổng doanh thu (lượng bán) của toàn ngành

Tiêu chí này phản ánh tình hình chiếm lĩnh và khả năng chi phối thị trường của hàng hoá của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này khó xác định vì khó biết chính xác được hết tình hình kinh doanh của tất cả các đối thủ cạnh tranh.

  1. Chỉ tiêu so sánh thị phần với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất (Tct).
Tct (%)=Doanh thu (lượng bán) của doanh nghiệpx 100
Doanh thu (lượng bán) của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất

Tiêu chí này cho thấy thực tế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường. Đây là tiêu chí đơn giản, dễ tính so với tiêu chí trên do các đối thủ cạnh tranh mạnh thường có nhiều thông tin hơn. Tuy nhiên khi tính toán chỉ tiêu này cần thận trọng và khách quan, nếu không xác định tương đối chính xác doanh thu của các đối thủ thì đó là điều rất nguy hiểm khi chúng ta thực hiện các hoạt động đầu tư, phát triển sản phẩm của mình, cũng như rất khó xác định được điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ để đi đến những quyết định có lợi nhất cho doanh nghiệp. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp và tức thời đến khả năng cạnh tranh của chính doanh nghiệp.

  1. Chỉ tiêu tỷ trọng thị phần tăng hàng năm (Tthn ).

Tthn = Thị phần năm sau – Thị phần năm trước

Tthn >0 thị phần và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tăng.

Tthn <0 thị phần và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp giảm.

Tiêu chí này cho chúng ta biết mức độ tăng của thị phần năm nay so với năm trước là bao nhiêu và như thế nào. Điều quan trọng là chúng ta phải sử dụng và tính toán một cách khoa học, đảm bảo khách quan để có số liệu chính xác. Từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn có lợi cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp cũng như tập trung phát triển sản xuất một hoặc một số nhóm mặt hàng là thế mạnh của doanh nghiệp trên thị trường.

1.1.4.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Bên cạnh một số nhân tố bên ngoài (Môi trường vĩ mô, kinh tế, chính trị, pháp luật, môi trường Ngành, đối thủ,…) thì những nguyên nhân được cho là có yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là trong bản thân mỗi doanh nghiệp, bao gồm:

Một là chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đối với hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới hiện nay, nhất là các nước đang phát triển, chi phí nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu chi phí nhằm đầu tư nghiên cứu các công nghệ kỹ thuật mới nâng cao chất lượng và năng suất lao động hay tạo ra các sản phẩm mới, độc đáo, hiện đại nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng, qua đó làm tăng hiệu quả kinh doanh và tạo vị trí vững chắc trên thị trường.

Hai là năng lực tài chính của doanh nghiệp, có thể coi năng lực tài chính của doanh nghiệp là một tiêu chí hết sức quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hiện nay. Một tình hình tài chính lành mạnh, số lượng vốn đủ lớn, sức huy động vốn cao sẽ cho phép doanh nghiệp tạo ra nhiều cơ hội đầu tư, làm ăn dễ dàng và thuận lợi hơn, doanh nghiệp có thể đầu tư, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chiến lược kinh doanh.

Ba là nguồn nhân lực, trong mọi tổ chức vai trò con người luôn là yếu tố giữ vai trò quyết định đến sự phát triển của tổ chức đó. Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp đủ mạnh với đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, hoạch định tốt chiến lược kinh doanh trong từng thời kỳ, có đủ năng lực đối phó với những biến động của thị trường, đội ngũ cán bộ kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cho phép doanh nghiệp mở rộng thị trường thúc đẩy công tác tiêu thụ, bán hàng…

Bốn là năng lực công nghệ của doanh nghiệp, đóng vai trò hết sức quan trọng, nếu năng lực công nghệ phù hợp với khả năng sản xuất và thị trường. Một năng lực công nghệ đủ mạnh cho phép doanh nghiệp tạo ra những sản phẩm đảm bảo nhu cầu sử dụng của khách hàng, chất lượng sản phẩm được nâng cao, sản phẩm có mẫu mã đẹp, kiểu dáng phong phú, tính năng đa dạng, đáp ứng được những đòi hỏi ngày càng khắt khe của khách hàng.

Bên cạnh đó, lực lượng lao động có tay nghề cao, có khả năng tiếp thu và sử dụng dây truyền công nghệ hiện đại đã và đang được doanh nghiệp hết sức quan tâm. Điều này cho phép doanh nghiệp tăng năng suất lao động, sản phẩm làm ra đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.

Năm là công tác tổ chức quản lý hoạt động của doanh nghiệp có vai trò hết sức quan trọng, thúc đẩy mọi hoạt động trong nội tại doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp muốn đạt hiệu quả cao trong mọi hoạt động với nguồn lực sẵn có của mình thì phải tính toán, phân tích kỹ lưỡng các quy trình quản lý cùng với việc tăng cường tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm.

Sáu là năng lực tiếp cận thị trường, công tác đo lường, dự báo, khai thác nhu cầu của thị trường, tiềm năng của thị trường. Nắm bắt được xu hướng phát triển của ngành chăn nuôi, tình hình dịch bệnh, dự báo nhu cầu dự kiến của thị trường…có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp

1.1.5. Yếu tố cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp.

1.1.5.1. Đối với nền kinh tế nói chung.

  • Cạnh tranh là môi trường, động lực thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường.
  • Cạnh tranh giúp cho doanh nghiệp sử dụng tối ưu các nguồn lực khan hiếm của xã hội.
  • Cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.

cạnh tranh có vai trò thúc đẩy nền kinh tế, kích thích các doanh nghiệp sử dụng tối đa các nguồn lực góp phần phân bổ nguồn lực có hiệu quả nhất và hạn chế những méo mó của thị trường, góp phần phân phối lại thu nhập một cách có hiệu quả, nâng cao các phúc lợi xã hội.

1.1.5.2. Đối với mỗi doanh nghiệp.

Đối với mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có những vai trò sau:

  • Cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Cạnh tranh tạo ra động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp tìm mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
  • Cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải phát triển công tác marketing bắt đầu từ việc nghiên cứu thị trường để xác định được nhu cầu thị trường từ đó ra các quyết định sản xuất kinh doanh để đáp ứng các nhu cầu đó. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải nâng cao các hoạt động dịch vụ cũng như tăng cường công tác quảng cáo, khuyến mãi, bảo hành…
  • Cạnh tranh buộc doanh nghiệp không ngừng cải tiến, đổi mới công nghệ, phương thức sản xuất, đổi mới cách quản lý nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả sản xuất, tăng lợi nhuận…
  • Cạnh tranh đem lại cho các doanh nghiệp vị thế, danh tiếng thông qua những gì họ thể hiện được trong quá trình cạnh tranh.

1.1.5.3. Đối với người tiêu dùng.

  • Cạnh tranh tạo sự lựa chọn phong phú, rộng rãi hơn, đảm bảo tính ổn định về mặt giá cả giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng. Như vậy, cạnh tranh là yếu tố điều tiết thị trường, quan hệ cung cầu, góp phần làm lành mạnh hóa các mối quan hệ trong xã hội.

Vì vậy, có thể nói:

  • Cạnh tranh sẽ đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu.
  • Cạnh tranh sẽ điều khiển sao cho những nhân tố sản xuất sẽ được sử dụng vào những nơi có hiệu quả nhất.
  • Cạnh tranh thúc đẩy sự đổi mới, nó tác động tích cực tới việc phân phối thu nhập trên cơ sở quyền lực thị trường.

1.1.6. Các công cụ dùng trong cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp.

1.1.6.1. Cạnh tranh bằng chất lượng và sự khác biệt sản phẩm, dịch vụ.

Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm thể hiện mức độ thoả mãn như cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng lợi ích của sản phẩm. Nếu như trước kia giá cả được coi là quan trọng nhất trong cạnh tranh thì ngày nay nó phải nhường chỗ cho tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. Khi có cùng một loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm nào tốt hơn, đáp ứng và thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng thì họ sẵn sàng mua với mức giá cao hơn. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất, thu nhập người lao động ngày càng được nâng cao, họ có đủ điều kiện để thoả mãn như cầu của mình, cái mà họ cần là chất lượng và lợi ích của sản phẩm mang lại.

Chất lượng sản phẩm được coi là một vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp nhất là đối với doanh nghiệp Việt Nam khi họ phải đương đầu với các đối thủ cạnh tranh từ nước ngoài vào Việt Nam. Một khi chất lượng hàng hoá dich vụ không được đảm bảo thì có nghĩa là khách hàng đến với doanh nghiệp ngày càng giảm, doanh nghiệp sẽ mất khách hàng và thị trường dẫn tới sự suy yêu trong hoạt động kinh doanh.

Như vậy, để cạnh tranh tốt trên thị trường thì việc nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản phẩm/ nâng cao tính độc đáo của sản phẩm là luôn cần thiết. Ngoài ra, để nâng cao chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu khách hàng, thỏa mãn được sự mong đợi của khách hàng thì doanh nghiệp cũng phải chú trọng vào khâu dịch vụ chăm sóc khách hàng trước và sau bán, cùng với đó, doanh nghiệp sẽ nhận được chuỗi lợi ích trong hoạt động kinh doanh của mình.

1.1.6.2. Cạnh tranh về giá.

Giá cả được hiểu là toàn bộ số tiền mà người mua trả cho người bán về việc cung ứng một số hàng hoá dịch vụ nào đó. Thực chất giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hao phí lao động sống và hao phí lao động vật hoá để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm chịu ảnh hưởng của quy luật cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, khách hàng được tôn vinh là “Thượng đế” họ có quyền lựa chọn những gì học cho là tốt nhất, khi có cùng hàng hoá dịch vụ với chất lượng tương đương nhau thì chắc chắn họ sẽ lựa chọn mức giá thấp hơn, để lợi ích học thu được từ sản phẩm là tối ưu nhất.

Các doanh nghiệp cần xác định đúng giá trị đích thực mà sản phẩm/dịch vụ mang lại cho khách hàng. Giá cả cần xác định sao cho đủ để mang lại lợi nhuận cho nhà cung cấp, làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, nhưng phải ở mức mà nhóm khách hàng mục tiêu sẵn sàng chi trả.

Mức giá có vai trò cực kỳ quan trọng trong cạnh tranh. Nếu như chênh lệch giá giữa doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh thì lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Vì lẽ đó sản phẩm của doanh nghiệp sẽ ngày càng chiếm được lòng tin của người tiêu dùng, điều đó sẽ đưa doanh nghiệp lên vị trí cạnh tranh ngày càng cao.

Để đạt được mức giá thấp doanh nghiệp cần xem xét khả năng hạ giá sản phẩm của doanh nghiệp mình, khả năng đó phụ thuộc vào:

+ Chí phí về kinh tế thấp.

+ Khả năng bán hàng tốt, do có khối lượng bán lớn.

+ Khả năng về tài chính tốt

Cạnh tranh về giá sẽ có ưu thế hơn đối với các doanh nghiệp có vốn và sản lượng lớn hơn nhiều so với các đối thủ khác.

Như đã trình bày ở trên, hạ giá thành là phương pháp cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ thực hiện trong cạnh tranh bởi hạ giá thành ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần phải lựa chọn thời điểm để tiến hành sử dụng giá cả làm vũ khí cạnh tranh. Như thế doanh nghiệp phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa giá cả và các bộ phận về chiết khấu với những phương pháp bán mà doanh nghiêp đang sử dụng, với những phương pháp thanh toán, với xu thế, trào lưu của người tiêu dùng.

Đồng thời, do đặc điểm ở từng vùng thị trường khác nhau là khác nhau nên doanh nghiệp cũng cần phải có những chính sách giá hợp lý ở từng vùng thị trường

Một điểm nữa doanh nghiệp cần phải quan tâm là phải kết hợp giữa giá cả của sản phẩm với chu kỳ sản phẩm đó, việc kết hợp này cho phép doanh nghiệp khai thác được tối đa khả năng tiêu thụ của sản phẩm, cũng như không bị mắc vào những lỗi lầm trong việc khai thác chu kì sống, đặc biệt là các sản phẩm đang đứng trước sự suy thoái.

1.1.6.3. Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối.

Sản phẩm/ dịch vụ đến được tay khách hàng nhiều hay ít phụ thuộc các kênh phân phối. Chính vì vậy doanh nghiệp thường xuyên phải đẩy mạnh mở rộng các kênh phân phối sản phẩm/ dịch vụ của mình. Sự cạnh tranh bằng phân phối sẽ xóa bỏ hình thức nhà phân phối độc quyền đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng.

Việc tổ chức mạng lưới cửa hàng để đưa hàng hoá đến người tiêu dùng trong các kênh phân phối cũng ảnh hưởng lớn tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Mạng lưới cửa hàng rộng rãi trên nhiều khu vực, có vị trí ở những nơi giao thông thuận tiện sẽ tạo ra sự tiện lợi khi mua sắm của khách hàng. Các cửa hàng có không gian rộng, nội thất trang trí đẹp, hàng hoá bày biện nhiều, đa dạng, đẹp mắt sẽ thu hút được khách hàng vào mua. Nhờ đó, nó góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp lên.

Cạnh tranh về phân phối và bán hàng được thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:

  • Khả năng đa dạng hoá các kênh và chọn được các kênh chủ lực. Ngày nay các doanh nghiệp thường có cơ cấu sản phẩm rất đa dạng, với mỗi sản phẩm có một kênh phân phối khác nhau.Việc phân định đâu là kênh phân phối chủ lực có ý nghĩa quyết định trong việc tối thiểu hóa chi phí dành cho tiêu thụ sản phẩm.
  • Tìm được những người điều khiển đủ mạnh. Đối với các doanh nghiệp sử dụng các đại lý độc quyền thì phải xem xét đến sức mạnh của các doanh nghiệp thương mại làm đại lý cho doanh nghiệp. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, có vốn lớn và đủ sức chi phối được lực lượng bán hàng trong kênh trên thị trường.
  • Có hệ thống bán hàng phong phú. Đặc biệt là hệ thống các kho, các trung tâm bán hàng. Các trung tâm này phải có được cơ sở vật chất hiện đại.
  • Có nhiều biện pháp để kết dính các kênh lại với nhau. Đặc biệt là những biện pháp quản lý và điều khiển người bán.
  • Có khả năng hợp tác giữa người bán trên thị trường nhất là trên các thị trường lớn.
  • Có các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng hợp lý. Kết hợp hợp lý giữa phương thức bán hàng và phương thức thanh toán.

Các dịch vụ bán và sau khi bán chủ yếu là:

  • Tạo ra các điều kiện thuận lợi nhất trong khi thanh toán.
  • Có chính sách tài chính và tiền tệ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mua bán với khách hàng.
  • Có hệ thống thanh toán nhanh, hợp lý vừa tạo điều kiện thanh toán nhanh vừa đảm bảo công tác quản lý của doanh nghiệp.
  • Có phương tiện bán văn minh, các phương tiện tạo ưu thế cho khách hàng, tạo điều kiện để có công nghệ bán hàng đơn giản hợp lý. Nắm được phản hồi của khách hàng nhanh nhất và hợp lý nhất.
  • Bảo đảm lợi ích của người bán và người mua, người tiêu dùng tốt nhất và công bằng nhất. Thường xuyên cung cấp những dịch vụ sau khi bán cho người sử dụng, đặc biệt là những sản phẩm có bảo hành hoặc hết thời gian bảo hành. Hình thành mạng lưới dịch vụ rộng khắp ở những địa bàn dân cư.

1.1.6.4. Cạnh tranh bằng các hình thức xúc tiến bán hỗn hợp

Để đẩy mạnh mức độ tiêu thụ sản phẩm/ dịch vụ của mình, các doanh nghiệp cần có các hình thức xúc tiến bán hàng. Sự cạnh tranh trong các hình thức như : quà tặng, khuyến mại, truyền thông, hội nghị khách hàng…của các doanh nghiệp sẽ đem lại cho khách hàng nhiều sự lựa chọn cũng như sự phục vụ chu đáo, nhiệt tình.

Xúc tiến bán hàng là công cụ hữu hiệu trong việc chiếm lĩnh thị trường và tăng tính cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ của các doanh nghiệp trên thị trường. Thông qua xúc tiến, các doanh nghiệp tiếp cận được với thị trường tiềm năng của mình, cung cấp cho khách hàng tiềm năng những thông tin cần thiết, những dịch vụ ưu đãi để tiếp tục chinh phục khách hàng của doanh nghiệp và lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Hoạt động xúc tiến sẽ tạo ra hình ảnh đẹp về doanh nghiệp trước con mắt của khách hàng, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp nhờ thế mà không ngừng tăng lên.

1.2. Phân tích năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp

1.2.1. Thực tế, ý nghĩa của việc phân tích năng lực cạnh tranh

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một tất yếu khách quan. Nó diễn ra hết sức gay gắt và khốc liệt nhưng không phải là sự hủy diệt mà là sự thay thế những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, sử dụng lãng phí nguồn lực của xã hội bằng những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn, đáp ứng nhu cầu xã hội, thúc đẩy nền kinh tế quốc gia phát triển.

Chính vì vậy, doanh nghiệp nào muốn tồn tại, phát triển và đứng vũng trên thị trường thì doanh nghiệp đó bắt buộc phải nghiên cứu thị trường, sử dụng hết tiềm năng, thế mạnh vốn có của mình phải tìm hiểu, nghiên cứu cải tiến sản phẩm dịch vụ và chiến lược kinh doanh cho phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Nói cách khác, doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và đứng vững theo sự biến động của thị trường.

1.2.2. Phân tích năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp

1.2.2.1. Phân tích môi trường ngành.

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nếu hiểu tổng quát nó sẽ là khả năng của doanh nghiệp chống lại các lực lượng cạnh tranh trên thị trường.

Để làm rõ điều này chung ta hãy cùng tìm hiểu các lực lượng đó.

Mô hình 5 yếu tố cạnh tranh của Michael.5E.Porter

Theo mô hình 5 áp lực của Michael.E.Porter (1982) thì có 5 lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành, đó là: các đối thủ cạnh tranh trong ngành, các đối thủ tiềm năng, nhà cung ứng, khách hàng, sản phẩm thay thế. Theo đó, ông đã đưa ra khái niệm cạnh tranh mở rộng, theo đó cạnh tranh trong một ngành phụ thuộc vào năm thế lực. Năm thế lực cạnh tranh này kết hợp với nhau xác định cường độ cạnh tranh và mức lợi nhuận của ngành. Thế lực nào mạnh nhất sẽ thống trị và trở thành trọng yếu theo quan điểm xây dựng chiến lược. Mỗi lực lượng trong số 5 lực lượng trên càng mạnh thì càng hạn chế khả năng cho các doanh nghiệp tăng giá cả và kiếm lợi nhuận; Ngược lại, khi một lực lượng nào đó mà yếu thì cơ hội để doanh nghiệp có được lợi nhuận sẽ càng khả thi.

          1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại.

Sự hiểu biết về các đối thủ cạnh tranh có một ý nghĩa quan trọng vì các đối thủ cạnh tranh sẽ quyết định tính chất và mức độ tranh đua. Nếu các đối thủ này yếu doanh nghiệp có cơ hội để tăng giá bán và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Ngược lại, khi các đối thủ cạnh tranh hiện tại mạnh thì sự cạnh tranh về giá là không đáng kể, mọi cuộc cạnh tranh về giá cả đều dẫn tới tổn thương.

Bàn về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong một ngành sản xuất ta thường nói tới những nội dung chủ yếu như: cơ cấu cạnh tranh ngành, thực trạng cầu của ngành và các hàng rào lối ra.

Cơ cấu cạnh tranh của ngành dựa vào số liệu và khả năng phân phối sản phẩm của doanh nghiệp trong ngành sản xuất. Cơ cấu cạnh tranh thay đổi từ ngành sản xuất phân tán tới ngành sản xuất tập trung. Bản chất và mức độ cạnh tranh đối với các ngành tập trung là rất khó phân tích và dự đoán.

Tình trạng cầu của một ngành là một yếu tố quyết định khác về tính mãnh liệt trong cạnh tranh nội bộ ngành. Thông thường, cầu tăng tạo cho doanh nghiệp một cơ hội lớn để mở rộng hoạt động. Ngược lại, cầu giảm dẫn đến cạnh tranh khốc liệt để các doanh nghiệp giữ được phần thị trường đã chiếm lĩnh.

Hàng rào lối ra là mối đe doạ cạnh tranh nghiêm trọng khi cầu của ngành giảm mạnh. Đó là kinh tế, chiến lược và là quan hệ tình cảm giữ doanh nghiệp trụ lại. Nếu hàng rào lối ra cao, các doanh nghiệp có thể bị khoá chặt trong một ngành sản xuất không ưa thích. Hàng rào lối ra thường bao gồm: Đầu tư nhà xưởng và thiết bị, chi phí trực tiếp cho việc rời bỏ ngành là cao, quan hệ chiến lược giữa các đơn vị chiến lược kinh doanh, hay đó là chi phí xã hội khi thay đổi như khó khăn về sự sa thải nhân công, chi phí đào tạo lại…

Do vậy nhiệm vụ của mỗi doanh nghiệp là tìm kiếm thông tin, phân tích đánh giá chính xác khả năng của những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là những đối thủ chính để xây dựng cho mình chiến lược cạnh tranh thích hợp với môi trường chung.

          1. Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn (tiềm năng).

Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là các doanh nghiệp hiện tại chưa cạnh tranh trong cùng một ngành sản xuất, nhưng có khả năng cạnh tranh nếu họ lựa chọn và quyết định gia nhập ngành. Đây là đe dọa cho các doanh nghiệp hiện tại. Các doanh nghiệp hiện tại cố gắng ngăn cản các đối thủ tiềm ẩn muốn ra nhập ngành vì càng nhiều doanh nghiệp có trong một ngành sản xuất thì cạnh tranh càng khốc liệt hơn. Với sự mong muốn chiếm lĩnh một thị phần nào đó các đối thủ mới có thể làm giá bán bị kéo xuống hoặc chi phí của các công ty đi trước có thể bị tăng lên và kết quả làm giảm mức lợi nhuận. Sự xâm nhập vào một ngành, với dự định xây dựng một vị trí trên thị trường kiểu đó có lẽ cần được coi như một sự nhập cuộc của đối thủ mới. Việc tạo ra hàng rào hợp pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bên ngoài hoặc sự phản ứng khôn khéo của các doanh nghiệp đang cạnh tranh sẽ làm giảm bớt mối hiểm hoạ hoặc do doanh nghiệp mới xâm nhập gây ra. Những rào cản chủ yếu được xác định là:

Những ưu thế tuyệt đối về chi phí: Có thể đó là ưu thế về các sáng chế, việc làm chủ một công nghệ riêng đặc thù hoặc có một nguồn nhân lực chuyên tinh, làm chủ được nguồn nguyên vật liệu cũng như kinh nghiệm cho phép có được các chi phí thấp hơn. Hoặc đó có thể là lợi thế về chi phí cố định vì các đối thủ cạnh tranh hiện tại thường có những lợi thế chi phí mà các đối thủ mới không thể nào có được, lợi thế này không phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp như: Bản quyền về công nghệ và sản phẩm, lợi thế về nguồn cung cấp nguyên vật liệu, lợi thế về vị trí địa lý, hay kinh nghiệm và kĩ năng trong sản xuất.

Ngoài ra có thể kể đến những loại chi phí khác như chi phí đặt cọc, tiền cược. Đây là một khoản tiền lúc đầu buộc khách hàng mua sản phẩm của một doanh nghiệp lúc đầu phải trả nếu họ không mua sản phẩm của ngành đó nữa và chuyển sang mua sản phẩm của một doanh nghiệp khác hay là chi phí phạt do thay đổi hãng hợp đồng tiêu thụ hoặc cung cấp vật tư. Hầu hết các khách hàng đều phải thực hiện việc bồi thường trừ phi các nhà cung cấp mới những cải tiến có lợi về chi phí và thực hiện.

Sự khác biệt hoá của sản phẩm khiến cho khách hàng trung thành với nhãn hiệu sản phẩm của các doanh nghiệp có vị thế uy tín vững vàng hoặc đã đứng vững. Thường các doanh nghiệp này có ưu thế cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về dịch vụ hậu mãi hoặc về khả năng chuyên biệt hoá sản phẩm… Sự trung thành với nhãn hiệu là nguồn rào cản khiến cho các doanh nghiệp mới tham gia khó lòng giành giật thị phần trên thương trường. Các doanh nghiệp có tiềm năng hẳn phải tốn kém rất nhiều để bẻ gãy lòng ưu ái đã được củng cố của khách hàng với các nhãn hiệu đã có uy tín trước đó.

Kinh tế quy mô hay còn gọi là kinh tế bậc thang: Các chi phí về sản xuất, phân phối, bán, quảng cáo, dịch vụ nghiên cưú sẽ giảm bớt với sự gia tăng của số lượng bán. Hay nói cách khác số lượng sản xuất và bán tăng lên thì chi phí cho một đơn vị sản phẩm càng giảm đi.

Kênh phân phối chủ yếu đã được thiết lập của các doanh nghiệp hiện tại cũng là một vật cản đối với các doanh nghiệp muốn nhảy vào chia sẻ thị trường. Để tham gia vào mạng lưới phân phối đã được thiết lập các doanh nghiệp mới thông thường phải chia sẻ các chi phí quảng cáo hoặc hỗ trợ bán hàng. Mọi chi phí này sẽ làm giảm lợi nhuận của các đối thủ mới; Trong khi đó các đối thủ cạnh tranh hiện tại có thể giữ chặt các các kênh phân phối dựa trên cơ sở các mối quan hệ lâu dài, chất lượng phục vụ cao … Như vậy buộc doanh nghiệp mới phải tạo ra một mạng lưới phân phối mới và đó là một cản trở đáng kể.

          1. Khách hàng (Người mua).

Khách hàng hay người mua hàng là một bộ phận không thể tách rời trong môi trường cạnh tranh. Khách hàng tác động đến doanh nghiệp thể hiện mối tương quan về thế lực nếu nghiêng về phía nào thì phía đó có lợi. Các doanh nghiệp cần phải làm chủ mối tương quan này, thiết lập được mối quan hệ với khách hàng để giữ khách hàng (thông qua số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện giao nhận và dịch vụ sau bán hàng). Khách hàng có ưu thế là có thể làm cho lợi nhuận của ngành hàng giảm bằng cách ép giá xuống hoặc đòi hỏi chất lượng cao hơn và phải làm nhiều công việc dịch vụ hơn.

Khách hàng có thể được xem như một sự đe dọa cạnh tranh khi họ buộc doanh nghiệp phải giảm giá hoặc có nhu cầu chất lượng cao và dịch vụ tốt hơn. Ngược lại, khi người mua (khách hàng) yếu sẽ mang đến cho doanh nghiệp cơ hội để tăng giá kiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Người mua gồm: Người tiêu dùng cuối cùng, các nhà phân phối (bán buôn, bán lẻ) và các nhà mua công nghiệp. Áp lực của họ thường được thể hiện trong những trường hợp sau:

  • Nhiều nhà cung ứng có quy mô vừa và nhỏ trong ngành cung cấp. Trong khi đó người mua là số ít và có quy mô lớn, nó cho phép người mua chi phối các công ty cung cấp.
  • Khách hàng mua một khối lượng lớn sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp và sử dụng đó làm lợi thế để mặc cả cho sự giảm giá không hợp lý.
  • Khách hàng có thể vận dụng chiến lược liên kết dọc, tức là họ có xu hướng khép kín sản xuất, tự sản xuất, gia công các bộ phận chi tiết, bán sản phẩm cho mình.
  • Khách hàng có đầy đủ các thông tin về thị trường như nhu cầu, giá cả của các nhà cung cấp thì áp lực mặc cả của họ càng lớn.

Để nâng cao khả năng cao khả năng cạnh tranh thì doanh nghiệp phải giảm tối đa sức ép trên và tạo môi trường với các khách hàng qua các chính sách giá, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, biến họ trở thành người cộng tác tốt.

          1. Nhà cung ứng (người cung cấp).

Đó là những nhà cung cấp nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, tiền vốn,lao động đôi khi gây đe doạ khi họ có khả năng tăng giá bán đầu vào hoặc giảm chất lượng các sản phẩm dịch vụ mà họ cung cấp. Qua đó làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Họ thường gây sức ép trong những tình huống như:

  • Họ độc quyền cung cấp vật tư.
  • Khi các vật tư được cung cấp không có khả năng thay thế.
  • Không có điều khoản ràng buộc hoặc bảo đảm trong các hợp đồng kinh tế đã kí kết.
  • Khi vật tư đó quan trọng, quyết định trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
  • Khi họ có khả năng khép kín sản xuất.

Vì vậy doanh nghiệp cần thiết lập quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và đưa ra các biện pháp ràng buộc với nhà vật tư để giảm bớt các ràng buộc họ có thể gây nên với mình.

          1. Sản phẩm thay thế.

Sự ra đời của các sản phẩm thay thế là một tất yếu nhằm đáp ứng sự biến động của nhu cầu thị trường theo hướng ngày càng đa dạng hơn, phong phú và cao cấp hơn, và chính nó lại làm giảm khả năng cạnh tranh của các sản phẩm bị thay thế.

Một doanh nghiệp có thể hoạt động thu được nhiều lợi nhuận khi trong ngành kinh doanh đó có các các cản trở xâm nhập cao, mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hiện có là thấp, không có sản phẩm thay thế, thế lực khách hàng yếu và thế lực nhà cung cấp cũng yếu. Ngược lại, một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh trong một ngành hàng có các cản trở xâm nhập thấp, cạnh tranh mạnh mẽ, có một số sản phẩm thay thế, thế lực và của khách hàng và nhà cung cấp mạnh thì kinh doanh của doanh nghiệp sẽ chật vật và lợi nhuận thấp.

1.2.2.2. Phân tích các chỉ tiêu kết quả cạnh tranh.

Tính các chỉ tiêu nhằm phản ánh kết quả cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp. Các chỉ tiêu đó là:

a. Chỉ tiêu sản lượng, doanh thu của sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp: Là một trong những chỉ tiêu quan trọng hàng đầu. Khi sản lượng tiêu thụ của một sản phẩm dịch vụ hàng năm tăng cao, tức sản phẩm dịch vụ đó duy trì và phát triển thị phần. Doanh thu hàng năm cao và tốc độ tăng trưởng hợp lý chứng tỏ giá cả sản phẩm dịch vụ được duy trì ổn định và được thị trường chấp nhận, có khả năng cạnh tranh cao. Ngược lại nếu khối lượng tiêu thu lớn nhưng doanh thu thấp chứng tỏ giá cả sản phẩm dịch vụ có sự giảm sút và kết quả cạnh tranh phần nào bị giảm xuống.

b. Chỉ tiêu thị phần của sản phẩm, dịch vụ: Đây là một trong những chỉ tiêu hay dùng để đánh giá kết quả cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ trên thị trường. Chỉ tiêu thị phần bao gồm: thị phần sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp; thị phần so với đối thủ trực tiếp hoặc mạnh nhất; mức tăng trưởng của thị phần.

Sau khi tính được các chỉ tiêu, ta sẽ so sánh các chỉ tiêu trên qua các thời kỳ từ đó xác định được vị thế của sản phẩm doanh nghiệp trong ngành.

c. Phân tích các công cụ cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp

Công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp có thể hiểu tập hợp các yếu tố, các kế hoạch, các chiến lược, các chính sách, các hành động mà doanh nghiệp sử dụng nhằm vượt lên các đối thủ cạnh tranh và tác động vào khách hàng để thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng.

Các công cụ cạnh tranh sản phẩm/dịch vụ của các doanh nghiệp trong cùng một ngành bao gồm:

* Chính sách sản phẩm/ dịch vụ:

+ Danh mục chủng loại sản phẩm: Sự khác biệt, tính đa dạng của sản phẩm/dịch vụ.

+ Chất lượng sản phẩm/ dịch vụ.

+ Bao bì, nhãn hiệu của hàng hóa.

+ Dịch vụ chăm sóc khách hàng trước và sau bán.

+ Chính sách sản phẩm mới…

* Chính sách giá:

+ Mục tiêu và phương pháp định giá.

+ Mức giá cơ sở.

+ Chính sách điều chỉnh giá…

* Chính sách phân phối:

+ Lựa chọn kênh phân phối.

+ Quản lý kênh phân phối.

+ Các phương thức phân phối…

* Chính sách xúc tiến bán:

+ Quảng cáo.

+ Bán hàng cá nhân.

+ Quan hệ công chúng.

+ Quà tặng, khuyến mại, truyền thông, hội nghị khách hàng…

Phân tích các công cụ cạnh tranh là tiến hành so sánh 4 công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp với yêu cầu của khách hàng và đối thủ cạnh tranh ta sẽ rút ra được công cụ nào mạnh – yếu, lý do mạnh – yếu, từ đó sẽ giúp doanh nghiệp chủ động trong công tác hoạch định chiến lược marketing nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường.

d. Phân tích các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp.

Các công cụ canh tranh của doanh nghiệp tốt hay xấu phụ thuộc vào năng lực của bản thân thân doanh nghiệp đó. Phân tích các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm xác định điểm mạnh, yếu dựa trên những so sánh với doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Nội dung phân tích bao gồm:

* Phân tích trình độ tổ chức quản lý:

Thông qua các chức năng hoạt động sau đây:

+ Hoạch định: Là hoạt động quản trị liên quan đến chuẩn bị cho tương lai, bao gồm các bước dự báo, thành lập mục tiêu, quản lý chất lượng, phát triển chính sách, hoàn thành mục đích.

+ Tổ chức: Bao gồm các khâu thiết kế tổ chức, chuyên môn hóa công việc, chi tiết hóa công việc, mở rộng sản xuất, thống nhất mệnh lệnh, phối hợp sắp xếp, thiết kế và phát triển công việc.

+ Thúc đẩy, động viên: Thông qua các hoạt động của lãnh đạo, hoạt động của các phòng ban, các nhóm, qua trao đổi thông tin, thay đổi tổ chức.

+ Nhân sự: Quản lý tiền lương, thưởng, phúc lợi, tuyển dụng, đào tạo, tái cơ cấu tổ chức, sa thải, quản lý các quan hệ lao động.

+ Kiểm soát: Đánh giá, kiểm soát thành quả lao động của cá nhân, tập thể trong doanh nghiệp, so sánh thành quả thực tế với các tiêu chuẩn thực hiện đã định, đưa ra các biện pháp huy động, đẩy mạnh, khắc phục điểm yếu.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DONG A\LUAN VAN DONG A\BINH + DANG/ DANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *