Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, làm gián đoạn hoạt động kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới. Nền kinh tế thế giới suy thoái nghiêm trọng ở tất cả các nước kể cả các nền kinh tế lớn, tốc độ tăng trưởng các nước đều giảm sâu do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19.

Việt Nam cũng không nằm ngoài ngoại lệ, chúng ta đã trải qua 4 đợt dịch covid liên tiếp. Đợt bùng phát dịch lần thứ tư bắt đầu từ cuối tháng 4/2021 đang gây sức ép nặng nề lên mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội. Kinh tế tạm thời khó khăn để ưu tiên cho công tác chống dịch đã kéo theo tình trạng thất nghiệp, người dân hạn chế chi tiêu khiến sức mua giảm dần, các hoạt động kinh doanh bị đình trệ. Các doanh nghiệp đứng trước tình cảnh hết sức khó khăn và phải loay hoay để tìm giải pháp chống chọi trước đại dịch chờ đợi nền kinh tế hồi phục để quay trở lại hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Lĩnh vực phần mềm quản lý bán hàng với đối tượng khách hàng chủ yếu là các chủ cửa hàng kinh doanh, đại dịch Covid ập đến làm hoạt động kinh doanh bán lẻ đóng cửa khiến nhu cầu khách hàng sử dụng phần mềm quản lý bán hàng xuống cực kì thấp và đây là một trong những lĩnh vực đang bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Công ty Cổ phần Phần mềm 365 là công ty chuyên phân phối phần mềm quản lý bán hàng cho các mô hình kinh doanh. Chịu sự tác động chung của lĩnh vực kinh doanh trong ngành, công ty cũng đang gặp phải nhiều áp lực trong đời điểm hiện tại để duy trì hoạt động kinh doanh trước đại dịch Covid.

Đứng trước ảnh hưởng của đại dịch Covid các công ty nhỏ với tiềm lực tài chính hạn chế đang gặp phải rất nhiều khó khăn để duy trì hoạt động kinh doanh, chưa kể phải đối mặt với áp lực cạnh tranh từ các tập đoàn công nghệ lớn. Tìm ra giải pháp mang lại lợi thế cạnh tranh hiện nay đang là yếu tố sống còn đối với các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực công nghệ.

Đề tài “Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365” nhằm mục đích tìm ra giải pháp hay, khả thi ứng dụng vào thực tế kinh doanh của công ty trong thời điểm cạnh tranh khốc liệt hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục tiêu nghiên cứu

  • Mục tiêu tổng quát:

Tìm ra giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Phần mềm 365 giai đoạn 2023-2026 dựa trên cơ sở lý luận và phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty.

    • Mục tiêu cụ thể:

– Xác định các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phần mềm tại Việt Nam

– Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Phần mềm 365.

– Đề xuất giải pháp nâng cao năng lực của Công ty Cổ phần Phần mềm 365 giai đoạn (2023 – 2026)

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

  • Đối tượng nghiên cứu: Công ty Cổ phần Phần mềm 365.
    • Đối tượng khảo sát:

– Nhóm chuyên gia: Ban lãnh đạo, các cổ đông, trưởng/phó phòng, chuyên viên của Công ty Cổ phần Phần mềm 365 và các chuyên gia trong ngành.

– Nhóm khách hàng: Các chủ cửa hàng kinh doanh đang đang sử dụng sản phẩm của công ty.

5. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về không gian: luận văn nghiên cứu về Công ty Cổ phần Phần mềm 365 tại trụ sở ở Hà nội và các tỉnh thành mà công ty có chi nhánh.

Phạm vi nghiên cứu về thời gian:

– Thời gian nghiên cứu: giai đoạn từ năm 2019-2021

– Thời gian ứng dụng: Công ty Cổ phần Phần mềm 365 sẽ ứng dụng từ nay đến năm 20226 tại trụ sở ở Hà Nội và các tỉnh thành mà công ty có hoạt động phân phối sản phẩm.

6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, thống kê mô tả các thông tin thứ cấp được thu thập từ nội bộ Công ty Cổ phần Phần mềm 365, báo cáo thương mại điện tử 2020, sách báo liên quan, tài liệu ngành, internet…để phân tích năng lực cạnh tranh của công ty Công ty Cổ phần Phần mềm 365.

Phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng được tác giả sử dụng trong đề tài nghiên cứu của mình. Trong đó:

– Nghiên cứu định tính: giúp xác định các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và xác định thang đo của các yếu tố. Dựa vào các lý thuyết liên quan đến các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và kinh nghiệm thực tế tại doanh nghiệp, tác giả đã đề xuất các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ. Tiếp theo, tác giả sử dụng phương pháp chuyên gia để cùng thảo luận nhóm với 30 chuyên gia để điều chỉnh các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh và xây dựng thang đo sau cho đầy đủ và hợp lý. Từ đó, xây dựng bảng câu hỏi để phục vụ nghiên cứu định lượng.

– Nghiên cứu định lượng: Từ bảng câu hỏi được xây dựng từ nghiên cứu định tính, nghiên cứu định lượng sử dụng để phân tích thực trạng của Công ty Cổ phần Phần mềm 365. Tiếp đến sử dụng phương pháp thống kê mô tả để tính độ trung bình từ đó xác định các yếu tố nào ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, đồng thời đánh giá mức độ tác động của từng tiêu chí ảnh hưởng đến các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh. Bảng câu hỏi phỏng vấn được gửi trực tiếp đến 2 nhóm đối tượng: nhóm chuyên gia và nhóm khách hàng để đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty so với đối thủ cạnh tranh.

Thông tin có được từ khảo sát sẽ sử dụng để xây dựng các ma trận yếu tố bên trong (IFE), ma trận yếu tố bên ngoài (EFE), ma trận hình ảnh cạnh tranh, ma trận SWOT dùng với mục đích phân tích năng lực cạnh tranh của công ty.

7. Bố cục luận văn

Đề tài được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhằm hệ thống hóa lý thuyết về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh.

Chương 2: Phân tích năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Phần mềm 365 nhằm phân tích, đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Phần mềm 365, từ đó rút ra được điểm mạnh, điểm yếu, những thuận lợi và thách thức.

Chương 3: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh tại Công ty Cổ phần Phần mềm 365 nhằm giúp nâng cao năng lực cạnh tranh, hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, góp phần vào sự tăng trưởng ổn định, bền vững và lâu dài.

8. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

Trong phần tổng quan nghiên cứu, tác giả đã chọn lọc để trình bày lại 10 nghiên cứu tại Việt Nam, các nghiên cứu tại Việt Nam. Xét theo lĩnh vực nghiên cứu thì có 6 nghiên cứu về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thương mai, dịch vụ, 2 nghiên cứu về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty công nghệ mảng sàn thương mại điện tử, đối với phần mềm quản lý bán hàng đây là nghiên cứu đầu tiên về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty phần mềm nói chung và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty công nghệ tại Việt Nam.

Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Có khá nhiều nghiên cứu về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp hiện nay.

Các nghiên cứu trước đây đã khẳng định vai trò to lớn của việc xây dựng năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, xây dựng năng lực cạnh tranh là yếu tố sống còn với các tổ chức kinh doanh hiện nay.

Có hai hướng tiếp cận trong nghiên cứu phát triển giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh đó là tiếp cận từ góc độ vĩ mô và vi mô. Từ đó tìm ra các cơ hội và thách thức chung của môi trường kinh doanh mà các doanh nghiệp công nghệ hiện nay đang phải đối mặt cũng như cho thấy môi trường đang tác động trực tiếp và gián tiếp đến hiệu quả kinh doanh của tổ chức như thế nào, cũng như xác vị thế hiện tại của doanh nghiệp và thấy hình ảnh thực tế mức độ cạnh tranh hiện nay của ngành nhằm đưa ra giải pháp phù hợp phát triển năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Trong những nghiên cứu về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, phần lớn các tác giả đã tiếp cận một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản như: khái niệm, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng. Hầu hết các quan điểm đều đồng thuận đây là yếu tố cốt lõi định hướng tạo nên sự khác biệt và đường lối phát triển của tổ chức, bất cứ tổ chức hay đơn vị nào cũng cần có giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm giành chiến thắng đối thủ và chiếm được nhiều hơn thị phần kinh doanh.

Nghiên cứu về giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, các tác giả đã phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh thông qua số lượng, chất lượng, cơ cấu của tổ chức. Áp dụng cách thức phân tích đó đề nghiên cứu lĩnh vực công nghệ tác giả phân tích và đưa ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365.

Công nghệ luôn luôn phát triển, đề tài tác giả mới phân tích tổng quan giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của côn ty công nghệ 365, để xây dựng lợi thế cạnh tranh bên vững, hướng nghiên cứu tiếp theo cần nghiên cứu việc ứng dụng công nghệ tiên tiến nước ngoài vào phần mềm quản lý bán hàng như một giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho tổ chức.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH, NĂNG LỰC CẠNH TRANH VÀ CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG THỊ TRƯỜNG PHẦN MỀM

1.1. Các khái niệm liên quan

1.1.1. Năng lực

Có nhiều cách tiếp cận cũng như định nghĩa khác nhau về năng lực:

Theo từ điển Tiếng Việt: Năng lực là “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” hoặc là “phẩm chất tâm sinh lý và trình độ chuyên môn tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [18, tr.1037].

“Theo Từ điển năng lực của Đại học Harvard thì năng lực, theo thuật ngữ chung nhất, là những thứ mà một người phải chứng minh có hiệu quả trong việc làm, vai trò, chức năng, công việc, hoặc nhiệm vụ. Định nghĩa này ám chỉ trực tiếp về tác nghiệp/ hành nghề khi diễn giải những thứ này bao gồm hành vi phù hợp với việc làm (những gì mà một người nói hoặc làm tạo ra kết quả bằng sự thực hiện tốt hay tồi), động cơ (một người cảm thấy thế nào về việc làm, về tổ chức hoặc vị trí địa lý), và kiến thức/kỹ năng kỹ thuật (những gì mà một người biết/chứng thực về sự kiện, công nghệ, nghề nghiệp, quy trình thủ tục, việc làm, tổ chức, …). Năng lực được xác định thông qua các nghiên cứu về việc làm và vai trò công việc.” [19, tr.4]

Tác giả Đặng Thành Hưng cho rằng, về mặt thực hiện, kỹ năng phản ánh năng lực làm, tri thức phản ánh năng lực nghĩ và thái độ phản ánh năng lực cảm nhận. Năng lực là “tổ hợp những hành động vật chất và tinh thần tương ứng với dạng hoạt động nhất định dựa vào những thuộc tính cá nhân (sinh học, tâm lý và giá trị xã hội) được thực hiện tự giác và dẫn đến kết quả phù hợp với trình độ thực tế của hoạt động” [20, tr.25]. Trong định nghĩa này, tác giả đã đưa vào yếu tố rất quan trọng làm rõ những thuộc tính cá nhân – đó là sinh học, tâm lý và giá trị xã hội.

Như vậy, theo cách hiểu chung nhất, năng lực chính là những khả năng, những kĩ năng hay những điều kiện sẵn có để thực hiện các hoạt động.

Đối với doanh nghiệp, có thể hiểu khái niệm năng lực như sau: “Năng lực của doanh nghiệp là khả năng sử dụng các nguồn lực đã được kết hợp một cách có mục đích để đạt được một trạng thái mục tiêu mong muốn”

1.1.2. Cạnh tranh

Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một đặc tính cơ bản, là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, nó được hình thành và phát triển song song với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Ngày nay, các quốc gia trên thế giới đều coi cạnh tranh là một trong những yếu tố không thể thiếu trong nền kinh tế của mình. Cạnh tranh là điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế, giúp thúc đẩy sản xuất phát triển và gia tăng năng suất lao động. Thông qua cạnh tranh, thị trường kích thích các doanh nghiệp nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào quản lý, sản xuất và kinh doanh để tạo ra được những sản phẩm chất lượng, giá cả cạnh tranh hơn kèm theo dịch vụ hậu mãi tốt cho khách hàng.

Thông qua cạnh tranh, thị trường sẽ loại bỏ những doanh nghiệp kinh doanh hoạt động kém hiệu quả, để không bị đào thải các doanh nghiệp buộc phải luôn đổi mới, nâng cao sự sáng tạo trong hoạt động kinh doanh của mình để cải thiện chất lượng sản phẩm, dịch vụ qua đó đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

Các doanh nghiệp cần không ngừng nỗ lực để cải tiến nhằm thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng thông qua nhiều biện pháp như nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, định giá sản phẩm phù hợp, tìm cách đổi mới phương thức bán hàng, tăng cường quảng bá sản phẩm.

Cạnh tranh nói chung và cạnh tranh trong kinh tế nói riêng là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau phụ thuộc vào quan điểm và góc độ nhìn nhận vấn đề cạnh tranh.

Theo nhà quản trị chiến lược Michael Porter thì: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, đó là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có”. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi (Porter, 1980).

Theo từ điển bách khoa Việt Nam (2011): “Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất , tiêu thụ thị trường có lợi nhất”.

Cạnh tranh trong thương trường không phải là diệt trừ đối thủ của mình mà chính là phải mang lại cho khách hàng những giá trị gia tăng cao và mới lạ hơn để khách hàng lựa chọn mình chứ không lựa chọn đối thủ cạnh tranh (Tôn Thất Nguyễn Thiêm, 2004).

Theo Russell Pittman (2009): “Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, không một chính phủ nào cần phải quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh nghiệp”.

Từ những khái niệm và cách hiểu khác nhau về cạnh tranh ở trên chúng ta có thể tóm lại cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.

Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế. Theo đó, cạnh tranh là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải năng động, nhạy bén, tích cực nâng cao tay nghề, cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học công nghệ, hoàn thiện tổ chức quản lý để nâng cao năng suất lao động, hiệu quả kinh tế. Ở đâu thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì thường xuất hiện trì trệ và kém phát triển. Thông qua cạnh tranh các nguồn lực có hạn của xã hội sẽ được phân bổ một cách hợp lý, nền kinh tế có cạnh tranh sẽ giúp loại bỏ dần những doanh nghiệp hoạt động yếu kém, mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đồng thời kích thích việc chuyển dịch đầu tư và kinh doanh sang những ngành nghề mang lại nhiều lợi nhuận nhất từ đó giúp nền kinh tế dịch chuyển đúng hướng, tạo lập ra một cơ cấu kinh tế hợp lý và hoạt động có hiệu quả.

Áp lực cạnh tranh bắt buộc các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại phải luôn cung cấp được sản phẩm chất lượng ngày càng được cải thiện với giá thành hạ và mẫu mã đa dạng nhằm đảm bảo duy trì lợi thế cạnh tranh trước các đối thủ của mình. Việc áp dụng công nghệ hiện đại vào việc sản xuất, kinh doanh để sử dụng hiệu quả các yếu tố sản xuất đầu vào nhằm tối ưu chi phí, nâng cao năng suất, cải thiện chất lượng hàng hóa là điều bắt buộc đối với các doanh nghiệp hiện nay từ đó giúp gia tăng năng suất sản xuất cho xã hội.

Đối với con người, cạnh tranh là động lực thúc đẩy người lao động luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề của mình để có được một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp, làm cho người lao động hoàn thiện hơn, thúc đẩy con người nỗ lực hơn, sáng tạo, tăng năng suất lao động, làm cho quá trình của cải của quốc gia tăng lên, cạnh tranh chủ yếu diễn ra thông qua thị trường và giá cả, do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với thị trường và tự do cạnh tranh có thể tự điều tiết các quan hệ cung – cầu, sản lượng, phân công lao động, tạo sự cân bằng cung cầu xã hội mà không cần sự can thiệp của Nhà nước”

Có thể thấy, cạnh tranh là một công cụ mạnh mẽ và là một yêu cầu tất yếu cho sự phát triển kinh tế của mỗi doanh nghiệp và mỗi quốc gia.

Cạnh tranh giúp khai thác một cách hiệu quả nguồn lực thiên nhiên và tạo ra các phương tiện mới để thoả mãn nhu cầu cá nhân ở mức giá thấp hơn và chất lượng cao hơn, từ đó nâng cao được đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhờ cạnh tranh đã thúc đẩy đổi mới công nghệ và gia tăng năng suất, tạo ra những thành tựu mới trên nhiều lĩnh vực.

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho Công ty Cổ phần Phần mềm 365

1.1.3. Lợi thế cạnh tranh.

Lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp là những gì làm cho doanh nghiệp ấy khác biệt và chiếm ưu thế hơn so với đối thủ cạnh tranh là những thế mạnh mà doanh nghiệp có, hay khai thác tốt hơn đối thủ cạnh tranh.

Có hai cách tiếp cận về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp:

Cách tiếp cận thứ nhất: Là cách tiếp cận dựa trên chuỗi giá trị

Chuỗi giá trị là tổng hợp các hoạt động có liên quan của doanh nghiệp làm tăng giá trị cho khách hàng. Việc thực hiện có hiệu quả các hoạt động trong dây chuyền giá trị sẽ quyết định hiệu quả hoạt động chung và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Dựa trên quan điểm của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp thì chuỗi giá trị của doanh nghiệp được mô phỏng như sơ đồ 1.1:

Sơ đồ 1.1: Chuỗi giá trị của Michael Porter

(Nguồn: Lợi thế cạnh tranh của tác giả M.Porter, 1980)

Theo Michael Porter, chuỗi giá trị của doanh nghiệp là một chuỗi hoạt động chuyển hóa các yếu tố đầu vào thành đầu ra. Khách hàng sẽ nhìn nhận và đánh giá giá trị các sản phẩm đầu ra) của doanh nghiệp theo quan điểm của họ. Khách hàng sẽ sẵn sàng trả mức cao hơn cho sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp nếu như họ đánh giá cao và ngược lại, nếu họ đánh giá thấp họ sẽ trả mức giá thấp, hoạt động của doanh nghiệp là các hoạt động chuyển hoá làm gia tăng giá trị sản phẩm. Các hoạt động chuyển hóa làm gia tăng giá trị gồm các các hoạt động chính, các hoạt động hỗ trợ.

Các hoạt động chính là hoạt động liên quan trực tiếp đến việc tạo ra sản phẩm, bao gồm: Hoạt động đầu vào, sản xuất, hoạt động marketing và bán hàng, dịch vụ. Các hoạt động hỗ trợ là những hoạt động tạo cơ sở và điều kiện cần thiết để tiến hành các hoạt động chính. Các hoạt động này bao gồm các yếu tố, quá trình thuộc nền tảng chung của doanh nghiệp, phát triển công nghệ, quản trị nhân lực, mua sắm thiết bị phương tiện phục vụ sản xuất. Doanh nghiệp muốn có lợi thế cạnh tranh thì phải hoạt động tạo ra giá trị với chi phí thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh hoặc tạo sự khác biệt trong sản phẩm để tăng giá trị cho khách hàng. Chênh lệch giữa giá trị mà doanh nghiệp tạo ra cho khách hàng với chi phí để tạo ra giá trị đó gọi là biên lợi nhuận.

Doanh nghiệp có biên lợi nhuận càng lớn thì có khả năng cạnh tranh cao vì nếu doanh nghiệp đặt giá sản phẩm ngang với giá của đối thủ cạnh tranh thì họ vẫn thu được lợi nhuận cao hơn. Ngay cả khi doanh nghiệp đặt giá thấp hơn thì vận thu được tỷ suất lợi nhuận ngang bằng và khi đó doanh nghiệp vẫn thu hút được khách hàng và gia tăng thị phần. Nếu doanh nghiệp chỉ tập trung cải thiện hiệu quả hoạt động nội bộ, tức là thực hiện các hoạt động tạo chi phí thấp hơn thì chưa đủ tạo ra lợi thế cạnh tranh trong dài hạn. Các đối thủ có thể bắt chước cách thức hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp và khi đó doanh nghiệp sẽ mất đi lợi thế về chi phí thấp. Các hoạt động trong chuỗi giá trị đều có liên quan mật thiết, hỗ trợ nhau, tùy theo chức năng kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, từng hoạt động trên có mức độ quan trọng khác nhau. Lợi thế cạnh tranh không xuất phát từ một vài hoạt động riêng lẻ mà phụ thuộc và là kết quả của sự tương tác, phối hợp của các hoạt động trong chuỗi giá trị.

Cách tiếp cận thứ hai: Là cách tiếp cận dựa trên các nguồn lực của doanh nghiệp

“Đây là cách tiếp cận xem xét nguồn gốc lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp dựa trên các nguồn lực và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Với cách tiếp cận này thì lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá qua những nguồn lực mang tính độc đáo, khó bị sao chép và có giá trị của doanh nghiệp và doanh nghiệp phải khai thác sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đó.

Doanh nghiệp có thể chỉ có nguồn lực thông thường nhưng lại có khả năng đặc biệt mà các đối thủ khác không có để kết hợp thì những nguồn lực này cũng được đánh giá là nguồn lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong khi đó có những nguồn lực độc đáo nhưng chỉ có khả năng thông thường thì lợi thế cạnh tranh của nguồn lực đó cũng không được đánh giá cao và kém bền vững. Lợi thế cạnh tranh mạnh nhất nếu doanh nghiệp vừa có các nguồn lực độc đáo, khó sao chép, có giá trị, vừa có khả năng đặc biệt để khai thác nhằm tạo ra các dịch vụ có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể bị mai một và mất đi nhanh nhưng có một số lợi thế thì lại tồn tại tương đối lâu dài. Doanh nghiệp có nguồn lực hữu hình dễ sao chép thì lợi thế đó sẽ nhất thời vì các doanh nghiệp khác có thể sao chép được. Nếu doanh nghiệp xây dựng lợi thế cạnh tranh dựa vào những nguồn lực vô hình và dựa vào yếu tố độc đáo, lợi thế có xu hướng lâu bền hơn vì đối thủ khó sao chép.”

Để đánh giá khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì nên kết hợp cả hai cách tiếp cận dựa vào chuỗi giá trị và dựa vào nguồn lực của doanh nghiệp.

1.1.4. Năng lực cạnh tranh

Khái niệm năng lực cạnh tranh được đề cập đầu tiên ở Mỹ vào đầu những năm 1985. Theo Aldington Report (1985): “Doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là doanh nghiệp có thể sản xuất sản phẩm và dịch vụ với chất lượng vượt trội và giá cả thấp hơn các đối thủ khác. Khả năng cạnh tranh đồng nghĩa với việc đạt được lợi ích lâu dài của doanh nghiệp và khả năng bảo đảm thu nhập cho người lao động và chủ doanh nghiệp”.

Theo quan điểm tổng hợp của Wan Buren, Martin và Westqren (1991): “ Khả năng cạnh tranh của một ngành, một doanh nghiệp là khả năng sáng tạo và duy trì lợi nhuận và thị phần trên các thị trường trong và ngoài nước”.

Theo Porter và Ketels (2003) định nghĩa năng lực cạnh tranh là khả năng doanh nghiệp sản xuất, duy trì và phát triển những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp để tạo ra năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, dịch vụ cao hơn đối thủ.

Ở Việt Nam, theo Từ điển Bách khoa toàn thư thì năng lực cạnh tranh là khả năng của một sản phẩm, một đơn vị kinh doanh giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ.

Năng lực cạnh tranh là khả năng của doanh nghiệp, ngành hay quốc gia có thể hiện thực hóa các tiềm năng thành các lợi thế cạnh tranh. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh là khả năng của doanh nghiệp, ngành hay quốc gia có thể phát huy các điểm mạnh để tận dụng các cơ hội, giảm thiểu các điểm yếu và đối phó có hiệu quả với những thách thức, để tạo ra và duy trì lợi thế cạnh tranh bền vững (Bùi Thị Thanh và Nguyễn Xuân Hiệp, 2012, trang 34).

Năng lực cạnh tranh được phân thành 4 cấp độ, bao gồm:

– Năng lực cạnh tranh quốc gia: Có thể hiểu, năng lực cạnh tranh quốc gia là toàn bộ các chính sách, thể chế và các nhân tố quyết định đến năng suất, sự phát triển và tính bền vững của một nền kinh tế.

– Năng lực cạnh tranh ngành: cạnh tranh giữa các ngành là cuộc cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích đầu tư có lợi hơn.

– “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: là tổng hợp năng lực nắm giữ và nâng cao thị phần trong sản xuất hàng hóa, dịch vụ và đáp ứng được các yêu cầu của thị trường. Nói cách khác, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp chính là khai thác thực lực và lợi thế bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp để tối đa hóa lợi ích của mình vừa thỏa mãn tốt nhu cầu của khách hàng. Đồng thời cải tiến vị thế của doanh nghiệp so với đối thủ.

– Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ: thể hiện năng lực của sản phẩm, dịch vụ đó thay thế một sản phẩm, dịch vụ khác dựa trên các yếu tố như: giá cả, đặc tính, chất lượng… Có thể nói, năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là một yếu tố xây dựng nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.”

Ở cấp độ doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh có thể được hiểu là việc doanh nghiệp sử dụng các thế mạnh của các nguồn lực (vốn, nguồn nhân lực, sản phẩm…) để tạo ra các lợi thế cạnh tranh, từ đó vượt qua các đối thủ cạnh tranh, giành lấy thị phần và khách hàng về phía mình.

Một doanh nghiệp được coi là có năng lực cạnh tranh khi doanh nghiệp đó có thể đứng vững trên thị trường và ngày càng phát triển, theo tác giả Lê Đăng Doanh trong tác phẩm Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thời hội nhập: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, thu lợi nhuận cho doanh nghiệp trong môi trường cạnh tranh trong nước và ngoài nước”. Tác giả Trần Sửu cũng có ý kiến tương tự: năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững.

Để đánh giá đúng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thì không chỉ đơn thuần đánh giá các yếu tố thuộc bản thân của doanh nghiệp mà điều quan trọng là phải đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh tranh hoạt động trong cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Trên cơ sở các so sánh đó, doanh nghiệp muốn tạo nên năng lực cạnh tranh phải có được những lợi thế so sánh với các đối thủ khác. Nhờ lợi thế này, doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi kéo được các khách hàng tiềm năng của đối thủ. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng chịu ảnh hưởng bởi môi trường kinh doanh và sự biến động khôn lường của nó, cùng một sự thay đổi của môi trường kinh doanh có thể là cơ hội phát triển cho doanh nghiệp này nhưng cũng có thể là nguy cơ phá sản của doanh nghiệp khác.

Sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp chứng minh năng lực cạnh tranh của nó thông qua việc thể hiện ưu thế tương đối của sản phẩm cả về định tính và định lượng so với các sản phẩm hay dịch vụ cùng loại trên thị trường. Để có thể cạnh tranh, mỗi sản phẩm hay dịch vụ cần có lợi thế cạnh tranh so với các sản phẩm hay dịch vụ cùng loại khác. Các lợi thế này có thể là lợi thế tối ưu giá cả hoặc các ưu thế mang lại giá trị cho khách hàng như tạo sự khác biệt hóa so với các sản phẩm hay dịch vụ cùng loại đang có trên thị trường.

Tóm lại, Năng lực cạnh tranh là một khái niệm đa hướng, được xem như nội lực và lợi thế trong việc tạo ra những khác biệt, giảm thiểu chi phí sản xuất và phân phối sản phẩm, dịch vụ để thỏa mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng được thể hiện bằng mức thị phần và lợi nhuận so với đối thủ cạnh tranh.

1.1.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh

Từ các khái niệm trên, có thể hiểu nâng cao năng lực cạnh tranh là tổng hợp các biện pháp, giải pháp để có thể tăng cường các thế mạnh của các nguồn lực, từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh, vượt qua các đối thủ khác, giành lấy thị phần và khách hàng về phía mình.

Nâng cao năng lực cạnh tranh là hoạt động vô cùng cần thiết và mang tính cấp thiết đối với tất cả các doanh nghiệp hiện nay. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp Việt Nam, trước thực tiễn hội nhập kinh tế và sự yếu kém vốn có, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh quyết định sự tồn vong của doanh nghiệp trước sức ép cạnh tranh gay gắt đến từ các doanh nghiệp khác trên thế giới.

1.2. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

“Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là phạm trù tổng hợp thể hiện sức mạnh và ưu thế tương đối của doanh nghiệp so với đối thủ trong cạnh tranh. Doanh nghiệp có thể có lợi thế về mặt này nhưng lại bất lợi về mặt khác. Do đó, phân tích năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện, có cái nhìn tổng thể và đánh giá dựa trên nhiều chỉ tiêu khác nhau.

1.2.1. Các chỉ tiêu định tính

Các chỉ tiêu định tính đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là kết quả phức hợp của nhiều nhân tố: Năng suất lao động, năng lực và trình độ công nghệ, các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, giá cả, chất lượng và sự đa dạng của các chủng loại sản phẩm…

Bản thân năng lực cạnh tranh lại chịu tác động của các nhân tố mà các doanh nghiệp hay Chính phủ có thể kiểm soát được hoặc kiểm soát được phần nào. Các doanh nghiệp có thể kiểm soát được các nhân tố như chiến lược phát triển, chủng loại sản phẩm, sử dụng công nghệ gì, đào tạo nhân lực, nghiên cứu và phát triển… Chính phủ kiểm soát các nhân tố như môi trường kinh doanh (thuế, lãi suất, tỷ giá), nghiên cứu và phát triển, đào tạo & giáo dục… Các nhân tố như giá đầu vào, các điều kiện về cầu, môi trường thương mại quốc tế thì cả Chính phủ, các doanh nghiệp đều chỉ có thể kiểm soát được một phần.”

Năng suất lao động (NSLĐ) là chỉ tiêu hiệu quả sử dụng lao động sống, đặc trưng bởi quan hệ so sánh giữa một chỉ tiêu đầu ra (kết quả sản xuất) và một chỉ tiêu đầu vào (lao động làm việc). Đây là một nhân tố khá tổng hợp nói lên năng lực sản xuất của một đơn vị hay cả nền kinh tế – xã hội. Năng suất lao động, trình độ công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực và hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp trong các doanh nghiệp. Năng suất lao động, trình độ công nghệ yếu kém thì khó có thể cạnh tranh nổi trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

Các yếu tố đầu vào, đây là việc các doanh nghiệp tìm kiếm cho mình một nguồn cung ứng tốt nhất, đầy đủ, thường xuyên nhất và chi phí cho các yếu tố đầu vào nhỏ nhất. Trong cơ chế thị trường, nhiều nhà cung ứng và nhiều doanh nghiệp cùng có nhu cầu về một số yếu tố đầu vào nhất định sẽ song song tồn tại cùng một lúc. Mỗi nhà cung ứng có một mức giá cho các yếu tố đầu vào khác nhau, do đó, các doanh nghiệp sẽ chọn cho mình một nhà cung ứng có mức giá thấp cũng như có dịch vụ cung ứng tốt. Tuy nhiên, để tránh tình trạnh có nhà cung ứng độc quyền các doanh nghiệp nên chọn cho mình một số nhà cung ứng trong đó có một nhà cung ứng chính. Điều này vô hình chung sẽ dẫn tới một số nhà cung ứng có giá cao sẽ bị loại bỏ. Vì vậy tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp, vì chi phí nguyên vật liệu cũng nằm trong giá thành sản phẩm, chủ động được đầu vào đã tạo thuận lợi cho ta trước đối thủ cạnh tranh.

Giá cả hàng hoá, dịch vụ: Giá cả của một sản phẩm trên thị trường được hình thành và thông qua quan hệ cung cầu. Người bán hay người mua thoả thuận hay mặc cả với nhau để tiến hành mức giá cuối cùng để đảm bảo về lợi ích của cả hai bên. Giá cả đóng vai trò quan trọng trong quyết định mua hay không mua của khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh của công cuộc cách mạng doanh nghiệp, khách hàng có quyền lựa chọn sản phẩm có giá thấp hơn, khi đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên. “Giá cả được thể hiện như một vũ khí để giành chiến thắng trong cạnh tranh thông qua việc định giá: Định giá thấp, định giá ngang bằng hoặc định giá cao. Với mức giá ngang bằng với mức giá thị trường giúp cho doanh nghiệp giữ được khách hàng, nếu doanh nghiệp tìm ra được những biện pháp nhằm làm giảm giá thành thì lợi nhuận thu được sẽ lớn hơn và hiệu quả kinh tế sẽ cao. Ngược lại, với mức giá thấp hơn mức giá thị trường thì sẽ thu hút nhiều khách hàng, làm tăng sản lượng tiêu thụ, doanh nghiệp có cơ hội thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường. Tuy nhiên, với bài toán này, doanh nghiệp khó giải nguy cơ thâm hụt lợi nhuận. Mức giá mà doanh nghiệp áp dụng cao hơn mức giá thị trường nói chung là không có lợi, nó chỉ sử dụng với các doanh nghiệp có tính độc quyền hoặc với các loại hàng hoá đặc biệt. Khi đó, doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch. Tuỳ thuộc vào đặc điểm thị trường, mỗi doanh nghiệp có các chính sách giá thích hợp cho từng loại sản phẩm, từng giai đoạn cho từng thời kỳ kinh doanh sẽ tạo cho mình một năng lực cạnh tranh tốt và chiếm lĩnh ưu thế.”

Chất lượng sản phẩm: “Là hệ thống nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được thoả mãn những tiêu chuẩn kỹ thuật hay những yêu cầu quyết định của người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm được hình thành từ khâu thiết kế tới tổ chức sản xuất và ngay cả khi tiêu thụ hàng hoá và chịu tác động của nhiều yếu tố: công nghệ, dây truyền sản xuất, nguyên vật liệu, trình độ tay nghề lao động, trình độ quản lý…

Chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, đặc biệt trong nền sản xuất của Việt Nam còn trong tình trạng đang phát triển, phải đương đầu với quá nhiều đối thủ cạnh tranh nước ngoài có ưu thế hơn hẳn trong việc tạo ra hay cung cấp sản phẩm có chất lượng cao. Một khi chất lượng sản phẩm không được đảm bảo đồng nghĩa với doanh nghiệp dần mất đi khách hàng, mất đi thị trường và nhanh chóng đứng bên bờ phá sản.

1.2.2. Các chỉ tiêu định lượng

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được tập trung vào 3 yếu tố đó là: Sản lượng, tỷ suất lợi nhuận và thị phần. Sử dụng 3 chỉ tiêu này sẽ cho biết các doanh nghiệp có khả năng đứng vững trên thị trường cạnh tranh hay bị đẩy ra khỏi thị trường.

Lợi nhuận là phần tài sản mà nhà đầu tư nhận thêm nhờ đầu tư sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan đến đầu tư đó, bao gồm cả chi phí cơ hội; là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.

Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí

Tỷ suất lợi nhuận: Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp cùng thu về một khoản lợi nhuận như nhau nhưng vẫn tồn tại các doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh khác nhau. Điều này được giải thích qua hệ số tỷ suất lợi nhuận khác nhau

Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận / Tổng chi phí

Thị phần của 1 các doanh nghiệp có thể hiểu là phần mà các doanh nghiệp đó chiếm được trên một thị trường nào đó (trong hay ngoài nước). Thị phần được xác định theo công thức sau:

Thị phần =x 100%

1.3. Nội dung nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp

1.3.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh tài chính của doanh nghiệp

Tài chính là một phạm trù kinh tế, phản ánh các quan hệ phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong nền kinh tế nhằm đạt mục tiêu của các chủ thể ở mỗi điều kiện nhất định.

“Vậy, năng lực tài chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân doanh nghiệp, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời… đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh được tiến hành bình thường.”

Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh tài chính của doanh nghiệp dựa vào các yếu tố định lượng và định tính để đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp sau:

⮚ Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: Quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời…

⮚ Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…

Nâng cao năng lực tài chính ta xem xét thông qua các khía cạnh sau đây:

1.3.1.1. Nâng cao khả năng huy động vốn đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh

“Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay, khi mà những cơ hội kinh doanh chỉ đến trong chớp nhoáng, DN muốn thành công thì đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh nhạy nắm bắt thời cơ. Khi đã nắm bắt được thời cơ đó thì vấn đề còn lại là liệu DN có huy động được đủ vốn để biến thời cơ thành hiện thực hay không.

Do đó, việc xây dựng được một cơ cấu vốn hợp lý là hết sức quan trọng, nhưng việc huy động được một lượng vốn đầy đủ, kịp thời nhằm đảm bảo cho hoạt động SXKD được diễn ra bình thường, liên tục mới là yếu tố quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Nhưng như thế nào là kịp thời thì không thể định lượng được, vì vậy, đây là một chỉ tiêu mang tính định tính.

Ngoài việc đảm bảo nhu cầu vốn thường xuyên, DN phải luôn chủ động, linh hoạt để tìm được nguồn vốn sẵn sàng đáp ứng những nhu cầu vốn bất thường phát sinh trong quá trình SXKD. Để làm được điều này, thì uy tín của doanh nghiệp là rất quan trọng. Với những DN được khách hàng, đối tác tin tưởng, việc này trở nên dễ dàng hơn, được ưu tiên hơn những doanh nghiệp khác trong điều kiện nguồn vốn ngày càng trở nên khó khăn, khan hiếm.”

Cơ cấu nguồn vốn là thể hiện tỷ trọng của các nguồn vốn trong tổng giá trị nguồn vốn mà DN huy động, sử dụng vào hoạt động SXKD. Trong điều kiện hiện nay, có nhiều kênh để DN có thể huy động được lượng vốn cần thiết, đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của mình. Tuy nhiên, điều quan trọng là doanh nghiệp cần phối hợp huy động và sử dụng các nguồn vốn để tạo ra một cơ cấu vốn hợp lý nhằm đưa lại lợi ích tối đa cho DN. Quyết định về cơ cấu nguồn vốn là vấn đề tài chính hết sức quan trọng vì: Cơ cấu nguồn vốn là một trong các yếu tố quyết định đến chi phí sử dụng vốn bình quân của DN. Cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu hay thu nhập trên một cổ phần và rủi ro tài chính của một DN hay công ty cổ phần.

Nội dung này bao gồm 2 nội dung nhỏ là quy mô và cơ cấu nguồn vốn, cụ thể như sau:

a. Quy mô vốn

Để nâng cao năng lực cạnh tranh tài chính cho doanh nghiệp thì ta cần đánh giá đúng năng lực tài chính của DN thông qua chỉ tiêu nguồn vốn thì

vốn chủ sở hữu phải được xem xét nhiều nhất, cụ thể như sau:

Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp (DN) có thể huy động, sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau để đáp ứng nhu cầu về vốn của mình. Nhìn tổng thể dựa trên tiêu chí về nguồn gốc của nguồn vốn, thì nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: Vốn chủ sở hữu (VCSH) và nợ phải trả. Doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn thì tạo được lòng tin đối với đối tác do khả năng chi trả, thanh toán được đảm bảo. VCSH càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng đối phó tốt với những nguy cơ luôn tiềm tàng trong điều kiện kinh doanh ngày càng khó khăn như hiện nay. Một trong những chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá khả năng tài chính vững vàng, mức độ tài trợ của

VCSH cho hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của DN là tỷ suất tự tài trợ tài sản dài hạn:

Tỷ suất này lớn hơn 1 thể hiện khả năng tài chính vững vàng. Vốn chủ sở hữu của DN đáp ứng được nhu cầu cho mua sắm TSDH phục vụ SXKD của doanh nghiệp, góp phần đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Ngược lai, nếu nhỏ hơn 1 có nghĩa là một phần tài sản dài hạn được tài trợ bằng nguồn vốn vay. Nếu vốn vay đó là vốn ngắn hạn thì DN đang kinh doanh trong cơ cấu vốn mạo hiểm.

b. Cơ cấu nguồn vốn

Cơ cấu nguồn vốn là một trong những tiêu chí phản ánh năng lực tài chính của doanh nghiệp. Khi nguồn vốn của doanh nghiệp được huy động, phân phối và sử dụng hiệu quả thì tình hình tài chính của DN có căn cứ để đánh giá là tốt.

Khi xem xét cơ cấu NV, người ta thường chú trọng đến mối quan hệ giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu nguồn vốn của DN được thể hiện qua các chỉ tiêu chủ yếu sau:

Tỷ số nợ hoặc tỷ số vốn chủ sở hữu (tỷ suất tự tài trợ)

Tỷ số nợ được đo bằng tỷ số giữa tổng nợ phải trả và tổng NV hay tổng tài sản của DN :

Tỷ số nợ =

“Tổng số nợ ở đây bao gồm nợ ngắn hạn và nợ dài hạn phải trả. Chủ nợ thường thích công ty có tỷ số nợ thấp vì như vậy công ty có khả năng trả nợ cao hơn. Ngược lại, cổ đông muốn có tỷ số nợ cao vì như vậy làm gia tăng khả năng sinh lợi cho cổ đông. Tuy nhiên muốn biết tỷ số này cao hay thấp cần phải so sánh với tỷ số nợ của bình quân ngành. Tỷ số nợ càng thấp thì mức độ bảo vệ dành cho các chủ nợ càng cao trong trường hợp doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản và phải thanh lý tài sản.”

Rất khó để có thể đánh giá được mức độ vay nợ phù hợp với doanh nghiệp hay tỷ số nợ như thế nào là tốt đối với một DN nói chung, vì tỷ số nợ phụ thuộc rất nhiều yếu tố: Loại hình doanh nghiệp, quy mô của doanh nghiệp, tính chất – lĩnh vực hoạt động, mục đích vay…Và cũng tùy vào từng thời kỳ phát triển của doanh nghiệp mà có tỷ số nợ phù hợp khác nhau. Tuy nhiên thông thường tỷ số nợ trên 50% là chấp nhận được.

Nhìn tổng thể, nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Do đó, có thể xem xét cơ cấu NV của doanh nghiệp qua tỷ số vốn chủ sở hữu hay tỷ suất tự tài trợ :

Tỷ suất tự tài trợ =

Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu

Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp còn được thể hiện qua tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu :

Tỷ số nợ trên VCSH =

Thông thường, nếu tỷ số này lớn hơn 1, có nghĩa là tài sản của DN được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ, còn ngược lại thì tài sản của DN được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn chủ sở hữu. Về nguyên tắc, tỷ số này càng nhỏ, có nghĩa là nợ phải trả chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng tài sản hay tổng nguồn vốn thì DN ít gặp khó khăn hơn trong tài chính. Tỷ số này càng lớn thì khả năng gặp khó khăn trong việc trả nợ hoặc phá sản của DN càng lớn.

Trên thực tế, nếu nợ phải trả chiếm quá nhiều so với nguồn vốn chủ sở hữu có nghĩa là DN đi vay mượn nhiều hơn số vốn hiện có, nên DN có thể gặp rủi ro trong việc trả nợ, đặc biệt là càng gặp nhiều khó khăn hơn khi lãi suất ngân hàng ngày một tăng cao.

1.3.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn

a. Chất lượng của tài sản

Chất lượng tài sản phản ánh ở việc tài sản của doanh nghiệp được sử dụng như thế nào, có phát huy được hết khả năng hoạt động của nó hay không. Đây là một chỉ tiêu nói lên tính bền vững về tài chính, năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Cùng với việc đảm bảo đủ vốn cho SXKD thì việc nâng cao chất lượng của tài sản trong doanh nghiệp là một yếu tố vô cùng quan trọng và cần thiết đối với hoạt động SXKD của doanh nghiệp.

Tài sản của doanh nghiệp gồm rất nhiều loại, tồn tại ở các dạng khác nhau như: tiền và tương đương tiền, hàng tồn kho, các khoản phải thu, tài sản cố định, các khoản đầu tư tài chính…Mỗi loại tài sản trong doanh nghiệp có chất lượng là khi tài sản đó được trang bị ở một mức độ hợp lý đảm bảo hiệu quả cho các hoạt động của doanh nghiệp. Ví dụ như đối với tiền mặt, các lý thuyết tài chính doanh nghiệp nói rằng mỗi doanh nghiệp nên có một mức tiền mặt thích hợp cho doanh nghiệp mình, một lượng đủ để thanh toán lãi vay, các chi phí và chi tiêu vốn, ngoài ra còn phải dự trữ thêm một lượng để doanh nghiệp kịp xử lý trong những tình huống khẩn cấp. Việc dự trữ quá nhiều sẽ dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn thấp, chi phí cao. Còn việc dự trữ quá ít dễ dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán khi có các tình huống bất ngờ xảy ra trong kinh doanh. Đối với hàng tồn kho, thật khó để nói tồn kho bao nhiêu là vừa vì tùy đặc điểm ngành nghề, tùy chiến lược kinh doanh mà mỗi doanh nghiệp sẽ có những mức tồn kho riêng. Để biết mức tồn kho thế nào là hợp lý, các doanh nghiệp cần: nắm bắt nhu cầu thị trường, hoạch định cung ứng, tính toán lượng đặt hàng và xác định được thời điểm đặt hàng. Tóm lại, mức độ hợp lý của từng loại tài sản phụ thuộc vào đặc trưng của từng DN và đặc điểm của từng tài sản và muốn hoạt động sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thì DN phải làm sao khai thác được hết công suất, tính năng của từng loại tài sản đó.

b. Tính thanh khoản và hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Tính thanh khoản hay khả năng thanh toán của doanh nghiệp là năng lực về tài chính mà doanh nghiệp có được để đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ cho các cá nhân, tổ chức có quan hệ cho doanh nghiệp vay hoặc nợ. Năng lực tài chính đó tồn tại dưới dạng tiền tệ (tiền mặt, tiền gửi …), các khoản phải thu từ các cá nhân mắc nợ doanh nghiệp, các tài sản có thể chuyển đổi nhanh thành tiền như: hàng hóa, thành phẩm, hàng gửi bán. Các khoản nợ của doanh nghiệp có thể là các khoản vay ngân hàng, khoản nợ tiền hàng do xuất phát từ quan hệ mua bán các yếu tố đầu vào hoặc sản phẩm hàng hóa doanh nghiệp phải trả cho người bán hoặc người mua đặt trước, các khoản thuế chưa nộp ngân hàng nhà nước, các khoản chưa trả lương.

Khả năng thanh toán được đo lường thông qua các tỷ số tài chính sau:

Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.

Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn dùng để đo lường khả năng trả các khoản nợ ngắn hạn bằng các tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp, như tiền mặt, các khoản phải thu, hàng tồn kho…HS này được tính theo công thức sau:

HS khả năng TT nợ NH =

Tỷ số khả năng trả lãi tiền vay

Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến gây sức ép lên công ty, thậm chí dẫn tới phá sản công ty. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả trên lãi vay phải trả:

Tỷ số khả năng trả lãi tiền vay =

c. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động

Ngày nay một doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường đòi hỏi doanh nghiệp đó phải biết sử dụng vốn triệt để và không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh mà đặc biệt là vốn lưu động. Vốn lưu động là bộ phận rất quan trọng trong vốn sản xuất kinh doanh và nó thường chiếm tỷ trọng rất lớn ở những doanh nghiệp thương mại. Có thể nói trong doanh nghiệp thương mại vốn lưu động là bộ phận sinh lời nhiều nhất. Chỉ khi nào doanh nghiệp hoạt động có hiệuquả thì doanh nghiệp đó mới có vốn để tái đầu tư giản đơn và tái đầu tư mở rộng nhằm đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp trong hành lang pháp lý về tài chính và tín dụng mà nhà nước đã quy định.

Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của DN, ta xem xét các chỉ tiêu sau:

Vòng quay khoản phải thu và kì thu tiền trung bình

Vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản phải thu thành tiền mặt. Chỉ số này là thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

VQ các KPT =

Để có thể đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, việc xem xét chỉ tiêu hàng tồn kho cần được đánh giá bên cạnh các chỉ tiêu khác như lợi nhuận, doanh thu, vòng quay của dòng tiền…, cũng như nên được đặt trong điều kiện kinh tế vĩ mô, điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp.

1.3.1.3. Khả năng sinh lời

Mọi hoạt động trong doanh nghiệp đều hướng đến một mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận. Vì vậy, để đánh giá năng lực tài chính của DN thì không thể bỏ qua các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời gồm có:

Tỷ suất lợi nhuận doanh thu

Tỷ suất lợi nhuận DT = x 100%

Tỷ số này cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số này mang giá trị dương nghĩa là công ty kinh doanh có lãi; tỷ số càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm nghĩa là công ty kinh doanh thua lỗ. Tuy nhiên, tỷ số này phụ thuộc vào đặc điểm kinh doanh của từng ngành. Vì thế, khi theo dõi tình hình sinh lợi của công ty, người ta so sánh tỷ số này của công ty với tỷ số bình quân của toàn ngành mà công ty đó tham gia.

Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản (ROA)

Tài sản của một công ty được hình thành từ vốn vay và vốn chủ sở hữu. Cả hai nguồn vốn này được sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của công ty. Hiệu quả của việc chuyển vốn đầu tư thành lợi nhuận được thể hiện qua ROA. ROA càng cao thì càng tốt vì công ty đang kiếm được nhiều tiền hơn trên lượng đầu tư ít hơn.

ROA = x 100%

ROA sẽ cung cấp c thông tin về các khoản lãi được tạo ra từ lượng vốn đầu tư (hay lượng tài sản). ROA đối với các công ty khác nhau có sự khác biệt rất lớn và phụ thuộc nhiều vào ngành kinh doanh. Đó là lý do tại sao khi sử dụng ROA để so sánh các công ty, tốt hơn hết là nên so sánh ROA của mỗi công ty qua các năm và so giữa các công ty tương đồng nhau.

Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE)

ROE =

Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo ra bao nhiêu đồng lời. Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả VCSH, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa VCSH với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô.

1.3.2. Nâng cao năng lực quản trị và chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp

Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứ những nội dung sau để nâng cao năng lực quản trị và chất lượng nguồn nhân lực như sau:

Chất lượng nguồn nhân lực theo trình độ văn hóa, tư cách đạo đức và phẩm chất chính trị của người lao động

– Thứ nhất, trình độ văn hóa

Trình độ văn hóa của người lao động là sự hiểu biết của người lao động đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ văn hóa thể hiện thông qua các tiêu thức:

+ Số lượng người biết chữ, không biết chữ

+ Số người tốt nghiệp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông

+ Số người tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng, đại học

Trình độ văn hóa là một chỉ tiêu hết sức quan trọng, phản ánh chất lượng nguồn nhân lực và nó tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế xã hội chung cũng như sự phát triển của doanh nghiệp. Trình độ văn hóa cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong quá trình sản xuất kinh doanh.

– Thứ hai, tư cách đạo đức và phẩm chất chính trị

Đây là tiêu chí phản ánh nhận thức của người lao động về tư tưởng chính trị, việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nội quy, quy định của cơ quan đơn vị mình đang công tác; mệnh lệnh của cấp trên. Nó phản ánh ý thức, nhận thức của người lao động đối với công việc của chính mình, ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần học tập nâng cao trình độ. Giữ gìn đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện tiêu cực khác, tính trung thực, khách quan trong công tác, tư thế tác phong, quan hệ công tác, tinh thần thái độ phục vụ công việc, phục vụ tổ chức….

⮚ Tiêu chí về chất lượng nguồn nhân lực theo năng lực, trình độ chuyên môn và khả năng hoàn thành nhiệm vụ

“Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, phản ánh tính chuyên nghiệp của đội ngũ lao động trong việc thực hiện công việc. Người lao động cần có những kỹ năng quản lý tương ứng với nhiệm vụ được giao để thể hiện vai trò, nhiệm vụ của mình, có thể chia thành ba nhóm kỹ năng chính, đó là:

Nhóm 1: Kỹ năng kỹ thuật, liên quan đến khả năng nắm vững các phương pháp, sử dụng các phương tiện, công cụ cũng như kiến thức về một lĩnh vực cụ thể nào đó.

Nhóm 2: Kỹ năng quan hệ, liên quan đến khả năng giao tiếp, phối hợp, chia sẻ, động viên, thu hút người khác với tư cách cá nhân hoặc nhóm công tác.

Nhóm 3: Kỹ năng tổng hợp phân tích. Người lao động cần có kỹ năng tổng hợp, phân tích và tư duy trong công việc một cách linh hoạt để vận dụng vào thực tiễn. Điều này liên quan đến khả năng nhìn nhận tổ chức như một thể thống nhất và sự phát triển của các lĩnh vực, hiểu được mối liên hệ phụ thuộc giữa các bộ phận bên trong của tổ chức, lĩnh vực, dự đoán những thay đổi trong bộ phận này tác động tới bộ phận, lĩnh vực khác như thế nào.

Với các nhóm kỹ năng trên đều cần đến khả năng cá nhân tương ứng với từng vị trí công tác như: Khả năng tự nhìn nhận, đánh giá, khả năng quản lý, khả năng bao quát công việc (chủ yếu là khả năng tổ chức công việc một cách khoa học, có kế hoạch), khả năng giải quyết vấn đề một cách tự tin, sáng tạo…

Khả năng hoàn thành công việc của người lao động là tiêu chí phản ánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ, công việc được giao và mức độ đảm nhận chức trách, nhiệm vụ của người lao động. Để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực theo tiêu chí này, cần dựa vào kết quả thực hiện công việc của người lao động.

Đánh giá mức độ, khả năng hoàn thành công việc là phương pháp, nội dung của quản trị nhân lực. Đánh giá khả năng hoàn thành công việc thực chất là xem xét, so sánh giữa việc thực hiện nhiệm vụ cụ thể với những tiêu chuẩn đã được xác định trong bản mô tả công việc và bản tiêu chuẩn đánh giá hoàn thành công việc.

Kết quả đánh giá công việc cho phép phân tích và đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực trên thực tế. Nếu người lao động liên tục không hoàn thành nhiệm vụ mà không phải lỗi của tổ chức thì có nghĩa là người lao động không đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong trường hợp này, có thể kết luận chất lượng công việc thấp, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao ngay cả khi người lao động có trình độ chuyên môn đào tạo cao hơn yêu cầu của công việc.”

⮚ Tiêu chí về chất lượng nguồn nhân lực theo thời gian làm việc và sức khỏe của người lao động

“Tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng, đánh giá chất lượng, phát huy nguồn lực con người. Nội dung của tiêu chí này xét cho cùng chính là yếu tố kinh nghiệm và yếu tố sức khỏe của nguồn nhân lực. Bởi lẽ:

Thứ nhất, kinh nghiệm là những vốn kiến thức tích lũy được trong quá trình công tác, là kết quả được hình thành trong hoạt động thực tiễn. Kinh nghiệm góp phần vào việc hình thành năng lực thực tiễn của nguồn nhân lực và làm tăng hiệu quả công việc mà người lao động đảm nhận. Kinh nghiệm phụ thuộc vào thời gian công tác nói chung và thời gian công tác ở một công việc cụ thể nói riêng. Tuy nhiên, giữa kinh nghiệm công tác và thâm niên công tác không phải hoàn toàn tuân theo quan hệ tỷ lệ thuận. Thời gian (thâm niên) công tác chỉ là điều kiện cần để tích lũy kinh nghiệm nhưng chưa phải là điều kiện đủ. Điều kiện đủ để hình thành kinh nghiệm công tác phụ thuộc vào chính khả năng nhận thức, phân tích, tích lũy và tổng hợp của từng người lao động.

Thứ hai, sức khỏe được hiểu là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không đơn thuần chỉ là không có bệnh tật. Sức khỏe là tổng hòa nhiều yếu tố được tạo nên bởi bên trong và bên ngoài, thể chất và tinh thần. Bộ Y tế Việt Nam quy định ba trạng thái về sức khỏe là: Loại A: Thể lực tốt không có bệnh tật; Loại B: Trung bình; Loại C: Yếu, không có khả năng lao động.

Yêu cầu về kinh nghiệm và sức khỏe không chỉ là một quy định bắt buộc khi tuyển chọn nguồn nhân lực, mà còn là yêu cầu phải được duy trì trong suốt quá trình công tác, cống hiến. Do vậy, việc xây dựng và nghiên cứu tiêu chí này cũng giúp nhà quản trị và doanh nghiệp đề ra được những chính sách hợp lý về tiền lương, chế độ đãi ngộ xã hội, các chính sách về tuyển dụng, sử dụng và trọng dụng nhân tài…”

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN DUY TAN\LUAN VAN DUY TAN\TRAN LONG NHAT

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *