ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH (QUA TRƯỜNG HỢP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ)

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH (QUA TRƯỜNG HỢP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ)

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH (QUA TRƯỜNG HỢP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ)

Lí do chọn đề tài

Truyện thơ nôm đã có nhiều thế hệ học giả tìm tòi, khám phá ở những góc độ khác nhau. Tuy vậy, muôn ngả đường đến với loại hình này vẫn còn nhiều chuyện để bàn và nhiều vấn đề để khai thác.

Dựa trên tiêu chí về nội dung, ý nghĩa cốt truyện truyện thơ nôm, chúng ta có những nhóm truyện khác nhau, trong đó có truyện thơ nôm diễm tình. Nhóm truyện này thường được viết nên từ những vần thơ mô tả tình yêu – một thứ duyên nợ của kiếp người với những sắc thái, cung bậc cảm xúc khác nhau.

Truyện thơ nôm diễm tình gắn với sự phát triển cao nhất của lịch sử phát triển truyện thơ nôm cũng như lịch sử phát triển văn học Việt Nam. Tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu đạt thành tựu và giá trị nhất định, nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào khảo sát cụ thể về nhóm truyện này. Và nếu có thì cũng gộp chung vào tìm hiểu loại hình truyện thơ nôm hoặc đi sâu phân tích từng tác phẩm cụ thể. Chính vì vậy, ở luận văn này thông qua việc khảo sát trường hợp cụ thể, chúng tôi sẽ tìm hiểu Đặc điểm truyện thơ nôm diễm tình, minh chứng cho sự phong phú về loại hình truyện thơ nôm, giúp cho việc hình dung diện mạo truyện thơ nôm rõ ràng – một nét đẹp dân tộc. Đây là công việc “nhặt, gom các kiến thức về đời. Như nhặt tìm bông lúa gặt còn rơi…Dẫu không toàn ngọc, mà lẫn nhiều sỏi trắng…” (Saađi) thì chúng tôi cũng hy vọng được ít nhiều chiếu cố.

Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu Đặc điểm truyện thơ nôm diễm tình sẽ cung cấp cho chúng ta những kiến thức về truyện thơ nôm diễm tình; về hình ảnh xã hội thế kỷ XVIII – XIX, chỉ ra những nét vay mượn và sáng tạo trong nghệ thuật. Từ đó cho phép chúng ta hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về nhóm truyện cũng như những tác phẩm có giá trị. Tìm hiểu hai tác phẩm tiêu biểu sẽ giúp chúng ta thấy được quá trình vận động và phát triển của loại hình truyện thơ nôm. Nghiên cứu đề tài này, bản thân người viết sẽ có điều kiện sưu tầm, tìm hiểu sâu sắc hơn nhóm truyện thơ nôm diễm tình. Người viết cũng hy vọng sẽ góp thêm một phần nghiên cứu cho loại hình truyện thơ nôm.

  1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
  2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là đặc điểm truyện thơ nôm diễm tình được thể hiện qua cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ, nhân vật, bút pháp nghệ thuật,…. Về văn bản, chúng tôi sử dụng: Truyện Kiều của Nguyễn Du (bản của Đào Duy Anh, NXB Văn học, 1999) và Truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện (bản của Đào Duy Anh, NXB Văn học, 1976).

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này đi vào nghiên cứu đặc điểm truyện thơ nôm diễm tình qua hai trường hợp tiêu biểu. Để nghiên cứu đạt hiệu quả, chúng tôi vận dụng, kết hợp các phương pháp: phương pháp chọn mẫu, phương pháp loại hình, phương pháp thống kê phân loại, phương pháp so sánh đối chiếu.

Bố cục của luận văn: Luận văn này ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm có ba chương:

Chương 1.Truyện thơ nôm diễm tình trong loại hình truyện thơ nôm Việt Nam.

Chương 2.Con đường hình thành truyện thơ nôm diễm tình.

Chương 3.Một số đặc điểm nghệ thuật truyện thơ nôm diễm tình.

CHƯƠNG 1

TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH TRONG LOẠI HÌNH TRUYỆN THƠ NÔM VIỆT NAM

1.1. TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH – MỘT HIỆN TƯỢNG VĂN HỌC ĐỘC ĐÁO

1.1.1. Khái niệm truyện thơ nôm diễm tình

Theo chúng tôi,“truyện thơ nôm diễm tình” bao gồm những tác phẩm thuộc loại hình truyện thơ nôm nói về chuyện tình yêu hôn nhân của nam nữ thanh niên. Nhóm truyện này trước hết phải mang đầy đủ tính chất của loại hình truyện thơ nôm tức là phải mang “tính chất của truyện kể được đảm bảo bởi cốt truyện, tích truyện, hệ thống sự kiện, nhân vật, chất tự sự của tác phẩm, phải có chất thơ và lối văn nôm – vừa có yếu tố văn tự, vừa có yếu tố phong cách… một lối tư duy đặc trưng của một thời đoạn văn hóa Việt (thời trung đại)” [39, tr.12].

Nhân vật chính của nhóm truyện thơ nôm diễm tình là những tài tử – giai nhân, có vai trò quyết định quan trọng để tạo thành nhóm truyện mang tính chất như vậy. Họ hiện lên với “vẻ đẹp từ hình thức bên ngoài đến phẩm chất tâm hồn và tài năng” [11, tr.128], trong đó nổi bật là tài thơ phú, đàn ca và “đều đề cao hết mức giá trị của tình yêu đôi lứa” nhưng những câu chuyện tình yêu khi đến hồi kết thúc không hẳn tương đồng.

Cặp nhân vật ấy cũng có những nét khác so với cặp nhân vật trong nguyên tác bởi tính cách tài tử phong lưu nhưng lại hết sức phong nhã, đoan trang. Ở đó họ đề cao tài, tình nhưng “không rơi vào cực đoan, mà thường châm chước, sao cho ôn, nhu, đôn hậu, say mà biết dừng lại đúng chỗ, trang nhã” [11, tr.641] nghĩa là họ vẫn luôn trọng chữ “đức”. Vì thế trong suy nghĩ của những chàng trai cô gái ấy dường như không có chỗ cho sự phóng túng bản năng. Điều này khác với các nhân vật trong cốt truyện của Trung Hoa. Đây là những biểu hiện về một tình yêu đẹp của những người yêu đẹp.

1.1.2. Vấn đề phân loại truyện thơ nôm diễm tình

Căn cứ vào sự thể hiện nội dung và nghệ thuật, chúng tôi thấy rằng cần thiết có thể chia loại hình truyện thơ nôm thành 2 loại là loại truyện được chuyển thể (hoặc cải biên, diễn Nôm,…) từ các tác phẩm văn học Trung Quốc và loại truyện có nguồn gốc bản địa, gần gũi với tích truyện dân gian, hoặc có ảnh hưởng về mặt thể tài với các tác phẩm ở nhóm thứ nhất. Trong loại thứ hai có thể chia thành 2 tiểu loại là tiểu loại truyện thơ nôm dựa vào truyện cổ tích, thần thoại, hay sự tích thần, Phật và tiểu loại truyện thơ nôm sáng tác hoàn toàn dựa vào thực tế Việt Nam. Trong đó nhóm truyện thơ nôm diễm tình nằm ở loại truyện được chuyển thể (hoặc cải biên, diễn Nôm,…) từ các tác phẩm văn học Trung Quốc và tiểu loại truyện có cốt truyện hoàn toàn dựa vào thực tế Việt Nam. Trên cơ sở sơ đồ gợi ý phân loại truyện thơ nôm của nhà nghiên cứu Nguyễn Phong Nam coi truyện thơ nôm với tư cách một loại hình văn học, chúng tôi thử phân loại truyện thơ nôm diễm tình thành sơ đồ như sau:  

LOẠI HÌNH TRUYỆN THƠ NÔM

LOẠI

truyện có nguồn gốc bản địa, gần gũi với tích truyện dân gian, hoặc sáng tạo, hư cấu

LOẠI

truyện được chuyển thể (hoặc cải biên, diễn Nôm,…) từ các tác phẩm văn học Trung Quốc

dựa vào truyện cổ tích, thần thoại, hay sự tích thần, Phật

hoàn toàn dựa vào thực tế Việt Nam

Truyện thơ nôm diễm tình (có tác giả)

Truyện Song Tinh (Nguyễn Hữu Hào)

Truyện Hoa Tiên (Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện)

Mai đình mộng ký (Nguyễn Huy Hổ)

Ngọc Kiều Lê (Lý Văn Phức)

Nhị độ mai,Hảo cầu tân truyện, Sơ kính tân trang

Nữ tú tài, Tỳ bà quốc âm tân truyện 

Hình 1.1: Sơ đồ phân loại truyện thơ nôm diễm tình

1.1.3. Truyện Kiều, Truyện Hoa tiên – những trường hợp tiêu biểu cho truyện thơ nôm diễm tình

Cùng với truyện Song tinh của Nguyễn Hữu Hào, Hoa Tiên truyện của Nguyễn Huy Tự được coi là tác phẩm mở đường cho sự xuất hiện của nhóm truyện thơ nôm diễm tình. Hoa Tiên truyện vừa mang ý nghĩa kế thừa, sáng tạo vừa có ý nghĩa phát triển cho các tác phẩm về sau của nhóm truyện mà đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du – tác phẩm được cho là “tập đại thành nghìn năm văn học thời phong kiến” [38, tr.38].

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH (QUA TRƯỜNG HỢP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ)
ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH
(QUA TRƯỜNG HỢP TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN HOA TIÊN CỦA NGUYỄN HUY TỰ)

1.2. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH

1.2.1. Những tiền đề cho sự ra đời của truyện thơ nôm diễm tình

Nhóm truyện này xuất hiện gắn liền với tiền đề về kinh tế xã hội (không gian thời gian lịch sử, kĩ thuật in ấn…) và những yếu tố nội sinh của hiện tượng văn chương (như ý thức nghệ thuật, đội ngũ sáng tác, tâm lý tiếp nhận….); nói cách khác là được đảm bảo bởi những điều kiện vật chất, tinh thần nhất định. Chúng chịu sự tác động toàn diện của hoàn cảnh, không khí thời đại, mặt khác bản thân hàm chứa rất nhiều thông tin, nhiều yếu tố lịch sử xã hội. Đó là cơ sở để đưa ra nhận định thời điểm xuất hiện của nhóm truyện. Truyện thơ nôm diễm tình ra đời, vừa đáp ứng về nhu cầu giao tiếp vừa giữ vai trò dân chủ trong việc giữ gìn văn hóa nội sinh. Thể thơ lục bát dân tộc trở thành nhân vật chính, đảm nhận vai trò của loại hình văn học chủ yếu lúc bấy giờ.

  1.2.2. Sự phát triển của truyện thơ nôm diễm tình

Truyện thơ nôm diễm tình nằm trong giai đoạn phát triển đỉnh cao của loại hình truyện thơ nôm (thế kỷ XVIII, nửa đầu XIX được coi là thời hoàng kim của loại hình này). Truyện Kiều là đỉnh cao của một quá trình từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX. Đây là giai đoạn được ví như “dàn hợp xướng nhiều bè tạo nên âm hưởng đặc sắc, khẳng định sức mạnh của nhóm truyện với những đóng góp lớn trên bước đường phát triển văn học dân tộc”. Có thể lược đồ hóa sự phát triển truyện thơ nôm diễm tình như sau:

Truyện thơ nôm diễm tình

Dân tộc hóa

Vay mượn cốt truyện từ nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc)

+ 🡪

Hình 1.2: Lược đồ sự phát triển của truyện thơ nôm diễm tình

Lược đồ cho thấy: truyện thơ nôm diễm tình hình thành và phát triển bắt đầu từ việc vay mượn cốt truyện có sẵn (chủ yếu từ Trung Quốc), sau đó dân tộc hóa mà đặc biệt là việc sử dụng thể thơ lục bát để từ đó hình thành những tác phẩm mang tính chất nội sinh – truyện thơ nôm diễm tình.

Tiểu kết

Truyện thơ nôm diễm tình ra đời với những đặc điểm, tính chất riêng, tạo sự phong phú, độc đáo cho loại hình truyện thơ nôm cũng như văn học dân tộc Việt. Nằm trong quá trình vận động của văn học trung đại nói chung và loại hình truyện thơ nôm nói riêng, truyện thơ nôm diễm tình tuân theo quy luật tiếp thu, vay mượn cốt truyện từ nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc), dân tộc hóa những tác phẩm tiếp thu được và trở thành những tác phẩm nội sinh. Tuy nhiên vẫn có những trường hợp cá biệt, ngoại lệ như Sơ kính tân trang (Phạm Thái) có cốt truyện hoàn toàn dựa vào thực tế Việt Nam, không hề có sự vay mượn hay mô phỏng. Cá biệt, ngoại lệ là chuyện thông thường, chúng tôi không dám cầu toàn. Trong đó, Truyện KiềuTruyện Hoa tiên là hai trường hợp tiêu biểu của nhóm truyện này, là “một bài thơ dài ca ngợi tình yêu” với đặc trưng ngôn ngữ hết sức uyển chuyển, thành thục về phương diện tự sự, trau chuốt, điêu luyện về nghệ thuật.

CHƯƠNG 2

CON ĐƯỜNG HÌNH THÀNH TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH (QUA KHẢO SÁT TRUYỆN KIỀU, TRUYỆN HOA TIÊN)

2.1. HIỆN TƯỢNG TIẾP BIẾN CỐT TRUYỆN ĐỐI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH

      1. Sáng tạo dựa trên cốt truyện có sẵn

Hầu hết truyện thơ nôm diễm tình đều vay mượn cốt truyện có sẵn từ Trung Hoa, ngoại trừ vài trường hợp cá biệt. Tuy nhiên, các tác phẩm có sự vay mượn vẫn được coi là tác phẩm của riêng nhà văn. Truyện thơ nôm diễm tình vay mượn cốt truyện và khi trở thành sản phẩm dân tộc Việt đều là những sáng tạo của người nghệ sĩ.

2.1.2. Khai thác tối đa các phiến đoạn tâm lý

Trước truyện thơ nôm diễm tình, chuyện tâm lý tình cảm trong nhân vật hầu như không có. Càng về sau, các tác giả chú trọng nhiều hơn đến yếu tố này. Nội tâm nhân vật được bộc lộ sâu sắc, vừa đủ tạo cho nhân vật như người thật. Các phiến đoạn tâm lý từ đó “phục tùng yêu cầu đặt ra là giúp phân tích tâm lý các nhân vật…theo cái biện chứng pháp của tâm hồn” [42, tr. 139-140]. Chúng tôi thử so sánh sự phát triển tâm lý tình cảm giữa giai nhân Dao Tiên và giai nhân Thúy Kiều để thấy được từ khi hình thành truyện thơ nôm diễm tình đến khi phát triển lên đến đỉnh cao của truyện thơ nôm diễm tình, tâm lý nhân vật tiến triển như thế nào:

B C D E

A Gặp lại Lương Sinh

Kết duyên cùng Lương Sinh

Hình 2.1: Sơ lược hóa tiến triển tâm lý của Dao Tiên

AB: Đoạn thể hiện cuộc sống Dao Tiên khi chưa có gia biến xảy ra, lúc này nàng gặp Lương Sinh thông qua Bích Nguyệt, Vân Hương.

BD: Đoạn đời luân lạc – Đường ngang bằng BC chỉ rõ một sự hòa hợp vững vàng giữa tình cảm và lý trí.

DE: Đoạn tái ngộ – Cuộc sống phẳng lặng

GặpThúc Sinh F G

Gặp Từ Hải

B C D E

A

Hình 2.2: Sơ lược hóa tiến triển tâm lý của Thúy Kiều [7, tr.441]

AB: Đoạn thể hiện cuộc sống Thúy Kiều khi chưa có gia biến xảy ra, lúc này nàng gặp Kim Trọng, gặp Đạm Tiên (được biểu hiện bằng con đường khúc khủy)

BF: Đoạn đời luân lạc – Những đường ngang bằng BC, DE chỉ rõ một sự hòa hợp vững vàng giữa tình cảm và lý trí

FG: Đoạn tái ngộ – Cuộc sống phẳng lặng

Từ hai hình ảnh sơ lược, có thể thấy được sự phát triển nhóm truyện thơ nôm diễm tình từ lúc mới được hình thành cho đến lúc lên đến đỉnh cao của loại hình. Nếu tác phẩm Hoa Tiên truyện tâm lý nhân vật vẫn còn mơ hồ, không rõ nét, nhân vật vẫn còn thụ động trong tình cảm thì nàng Kiều lúc nào cũng “đa sầu đa cảm”.

2.1.3. Tiết giản chất tự sự, gia tăng chất trữ tình

Hầu hết truyện thơ nôm diễm tình đều mượn cốt truyện Trung Quốc để thực hiện tư tưởng của mình. Tuy nhiên vay mượn là một chuyện, còn tác giả thể hiện yếu tố dân tộc như thế nào là một chuyện khác. Từ việc thay đổi dung lượng các phần cho phù hợp, lược giản đi những tình tiết không đáng có, khai thác thêm tâm trạng nhân vật, thêm thắt các yếu tố trữ tình, đã tạo cho tác phẩm “mới mẻ và khác lạ hoàn toàn”. Bằng thể thơ lục bát mang đậm bản sắc dân tộc, các tác phẩm truyện thơ nôm diễm tình đã “bỏ đi nhiều chi tiết rườm rà, chú ý làm cho tác phẩm có màu sắc trữ tình đậm nét hơn. Tất nhiên không tránh khỏi đôi chỗ thiếu sót, nhưng nói chung tác phẩm…có phần nhẹ nhàng, uyển chuyển và tinh tế hơn.”[31, tr.214].

2.2. SỰ THAY ĐỔI HÌNH THÁI CỦA TÁC PHẨM

2.2.1. Từ tác phẩm văn xuôi đến truyện thơ nôm

Đi từ tác phẩm văn xuôi chương hồi đến truyện thơ nôm diễm tình, trong nó luôn mang trong mình song hành hai tính chất là tính tự sự (“truyện”), vừa có tính trữ tình (“thơ”). Truyện thơ nôm diễm tình là sự kết hợp hai yếu tố truyện và thơ một cách hài hoà, sinh động và nâng đến độ tuyệt diệu.

Các tác phẩm gần như là một “bài thơ” mà cốt truyện là một “tứ thơ”, đây là hiện tượng tự sự mang tính chất thể loại. Chúng tôi cho rằng truyện thơ nôm diễm tình phát triển theo mô hình tứ giác mà ở đó “tất cả các điểm đều có sự ảnh hưởng qua lại lẫn nhau”:

Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc

Tiểu thuyết văn xuôi chữ Hán

Nội lực văn học dân tộc

Truyện thơ nôm diễm tình

Hình 2.3: Lược đồ sự ảnh hưởng giữa các yếu tố

2.2.2. Từ truyện kể đạo lý đến tiểu thuyết tâm lý

Ở phương diện nhất định, trước khi đề cập đến chuyện tình cảm, truyện thơ nôm diễm tình đã dành một phần tư tưởng để nói riêng về cái đẹp ở bình diện đạo đức. Tuy nhiên, vấn đề đạo lý, đạo đức không hoàn toàn chi phối toàn bộ tác phẩm, yếu tố đó chỉ là một phần để tạo ra biện pháp xử lý nghệ thuật tác giả. Khác với truyện thơ nôm đạo lý, truyện thơ nôm diễm tình chủ yếu nói về chữ tình và xoay quanh trục “tình”. Các tác giả cũng xử trí bằng quy luật nhân quả của cuộc sống, chú ý nhiều hơn đến việc “miêu tả các trạng thái tâm lý, xây dựng thế giới nội tâm của con người, đặc biệt nhấn mạnh tới động cơ, hoàn cảnh và cốt truyện nội tại” [15, tr.339]. Chính vì vậy, truyện thơ nôm diễm tình chú trọng xây dựng tính cách nhân vật, nhất là sự độc thoại nội tâm. Yếu tố này tạo cho truyện thơ nôm diễm tình trở thành một cuốn tiểu thuyết tâm lý bằng thơ.

Tiểu kết

Tổng quan con đường hình thành truyện thơ nôm diễm tình có thể nhận thấy truyện thơ nôm diễm tình không ngừng phát triển, từ tiếp biến cốt truyện có sẵn đến việc khai thác tối đa các phiến đoạn tâm lý, từ truyện kể đạo lý đến tiểu thuyết tâm lý. Truyện thơ nôm diễm tình ngày càng đi sâu vào tâm lý, nội tâm nhân vật. Do đó, yếu tố tâm lý nhân vật trong truyện thơ nôm diễm tình ngày càng thể hiện rõ ràng hơn. Có thể thấy được phát triển cả một thời kỳ từ những tác phẩm văn xuôi như Kim Vân Kiều truyện, Đệ bát tài tửHoa Tiên ký đến truyện thơ nôm diễm tình Truyện Hoa Tiên, Truyện Kiều. Yếu tố tự sự được tiết giản, thay vào đó là sự khẳng định chất trữ tình cũng như những yếu tố tâm lý phong phú của con người.

Truyện thơ nôm diễm tình chủ yếu nói về chữ tình và xoay quanh trục “tình”. Các tác giả cũng xử trí bằng quy luật nhân quả của cuộc sống. Tuy nhiên, nhân vật truyện thơ nôm diễm tình suy nghĩ nhiều, chú trọng đến thế giới nội tâm. Các tác giả chú ý nhiều hơn đến việc “miêu tả các trạng thái tâm lý, xây dựng thế giới nội tâm của con người, đặc biệt nhấn mạnh tới động cơ, hoàn cảnh và cốt truyện nội tại” [15, tr.339]. Chính vì vậy, truyện thơ nôm diễm tình chú trọng xây dựng tính cách nhân vật, nhất là sự độc thoại nội tâm. Yếu tố này tạo cho truyện thơ nôm diễm tình trở thành một cuốn tiểu thuyết tâm lý bằng thơ.

CHƯƠNG 3

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH QUA TRUYỆN KIỀUTRUYỆN HOA TIÊN

3.1 NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT

3.1.1 Tái tạo nhân vật mang sắc thái tâm lý

Nếu ở tiểu thuyết chương hồi, ca bản Trung Hoa, các nhân vật luôn hành động và chủ yếu xâu chuỗi các sự kiện bằng mưu mô, thì truyện thơ nôm diễm tình đã bắt đầu chuyển sang một dạng mới. Đó là nhân vật “không chỉ là chủ thể hóa mà còn là cá thể hóa, tâm lý hóa”. Nhân vật được khắc họa gắn liền với tâm lý, biểu hiện cảm xúc.

Để hiểu hơn nghệ thuật mô tả tâm lý mà các tác giả truyện thơ nôm diễm tình sử dụng, chúng tôi thử so sánh nghệ thuật truyện thơ nôm diễm tình với nghệ thuật được sử dụng trong văn học Trung đại. Và đồng thời để rõ ràng hơn, chúng tôi cũng đối chiếu nghệ thuật ấy với nghệ thuật văn học cùng thời ở phương Tây, mà chủ yếu ở đây là văn học Pháp bởi vì trong văn học Pháp có nhiều lối mô tả tâm lý nhân vật. Chúng ta có thể so sánh với ba lối chính là chủ nghĩa cổ điển (thế kỷ XVII), chủ nghĩa lãng mạn (đầu thế kỷ thứ XIX) và chủ nghĩa hiện thực (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX):

VĂN HỌC VIỆT NAM

VĂN HỌC PHÁP

Nghệ thuật cổ điển

  • Lý tưởng(nghệ thuật);
  • Điển hình (Tôn trọng sự thật bên trong)

Chủ nghĩa hiện thực (cuối XVIII trở đi)

  • Sự thật khách quan bên trong và bên ngoài

Chủ nghĩa lãng mạn (cuối XVII-nửa đầu XIX)

  • Chủ quan
  • Tình cảm
  • Tưởng tượng

Chủ nghĩa cổ điển (TK XVII-đầu TK XIX)

– Lý tưởng(nghệ thuật)

  • Điển hình (Tôn trọng sự thật bên trong)

Hình 3.1: So sánh văn học Pháp và văn học Việt Nam, truyện thơ nôm diễm tình

3.1.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật “chức năng”

Truyện thơ nôm diễm tình là nhóm truyện mang tính chất tự sự, cốt truyện là chuỗi dài những biến cố theo “quy luật nhân quả”, sự kiện, tình tiết, phản ánh cuộc sống thông qua các hình tượng nhân vật – tính cách. Do vậy, truyện thơ nôm diễm tình đòi hỏi tạo nên hoàn cảnh số phận, nhân vật bộc lộ tính cách, biểu hiện toàn diện từ nội tâm nhân vật cho đến diện mạo, trang phục, ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ, hành vi ứng xử,… Với vai trò và chức năng thể hiện phản ánh hiện thực, các “nhân vật chức năng” dễ trở thành những nhân vật mang ý nghĩa tượng trưng trong đời sống tinh thần, được hình thức hóa trong sáng tác.

3.2. BÚT PHÁP TẢ CẢNH NGỤ TÌNH

3.2.1. “Tâm trạng hóa” thiên nhiên

Mượn cảnh vật để gửi gắm tâm trạng của nhân vật, đưa tâm hồn con người hòa vào thiên nhiên. Cảnh không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên mà còn là nơi con người có thể giãi bày tâm trạng, trong tình có cảnh, trong cảnh có tình. Ở đó có thể lấy thiên nhiên soi dọi vào tâm hồn con người tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa hai chiều. Vì vậy, mà hầu hết các tác phẩm truyện thơ nôm diễm tình, tâm trạng nhân vật đều được gắn với hình ảnh của thiên nhiên, thiên nhiên thân thuộc và mang đậm tình người; nhất là trong tác phẩm Truyện KiềuTruyện Hoa Tiên.

3.2.2. Lối tả cảnh dùng màu sắc và âm thanh

Màu sắc trong hình tượng mang đậm tính chất biểu trưng, là sự thể hiện nội dung văn hóa. Quan sát cách sử dụng màu sắc có thể thấy các tác giả không chỉ thích nói thật mà còn thích nói đẹp, nói sang trọng, quý phái, thích sự choáng lộn, sặc sỡ, muôn hồng nghìn tía, thích tôn xưng nhân vật yêu dấu của mình. Ðây chỉ mới nói đến màu ngũ sắc ít biến đổi và có tính chất trang trí. Những truyện thơ nôm diễm tình khi mới xuất hiện, thường những chi tiết về màu sắc hay âm thanh chưa thể hiện đầy đủ và hoàn chỉnh thành bút pháp nghệ thuật điêu luyện. Nhưng càng về sau, những tác phẩm đã đạt đến đỉnh cao như Truyện Kiều thì bút pháp nghệ thuật này càng được thể hiện rõ ràng hơn. Cùng với màu sắc, âm thanh cũng là những tín hiệu của thế giới nghệ thuật. Mặc dù âm thanh không phổ quát bằng màu sắc (mọi vật đều phản chiếu ánh sáng, nhưng chỉ một ít phát ra được âm thanh), nhưng âm thanh có sức vang động mạnh. “Người ta dễ dàng nhắm mắt để trốn ánh sáng nhưng không dễ dàng trốn được âm thanh. Báo hiệu bằng âm thanh hữu hiệu hơn báo hiệu bằng màu sắc” [49, tr. 93].

3.3. NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG NGÔN TỪ TRONG TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH

3.3.1. Sáng tạo trong cách dùng từ

Trước hết, các nhà thơ truyện thơ nôm nói chung và truyện thơ nôm diễm tình nói riêng đã “khẳng định một cách đầy thuyết phục sự phong phú và khả năng to lớn của ngôn ngữ dân tộc trong sáng tác văn học…Nền văn học dân tộc của ta vẫn là nền văn học sáng tác bằng tiếng Việt. Đó là điều mà hầu hết các nước cũng cảnh ngộ như ta không có được”.

Từ những thành tựu rực rỡ của truyện thơ nôm diễm tình trên lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ đã chứng minh giá trị đẹp đẽ, vị trí vẻ vang của thể thơ lục bát và của ngôn ngữ dân tộc. Đóng góp vào sự hoàn chỉnh và phát triển của thể thơ nôm trong kho tàng văn học nước nhà. Truyện thơ nôm diễm tình đóng vai trò rất lớn trong việc trau dồi tiếng Việt văn học được giàu có, tinh tế uyển chuyển và đẹp.

3.3.2. Phong cách “khẩu ngữ”

“Truyện thơ nôm vừa có tính chất của một tác phẩm văn chương- sản phẩm nghệ thuật ngôn từ” lại vừa mang đặc điểm của một tác phẩm trình diễn, nó vừa có những dấu hiệu hình thức của một tác phẩm thơ nhưng lại không phải là thơ, là truyện nhưng lại không thuộc hẳn về lĩnh vực của những tác phẩm tự sự. Để viết nên tác phẩm, các nhà thơ thường sử dụng thể thơ lục bát với những ngôn từmộc mạc, giản dị nhằm tạo nên sự thanh thoát, êm tai. Bên cạnh đó, tổ hợp hai câu sáu – tám liên tiếp nhau cũng tạo nên một sắc thái riêng lúc trầm lúc bổng như tiếng đàn réo rắc bên tai. Và nguồn lấy từ lời ăn tiếng nói hằng ngày của họ đặc biệt mang một phong cách riêng, mộc mạc và bình dân. Đó là một trong những đặc điểm sử dụng ngôn từ của truyện thơ nôm diễm tình.

Bên cạnh ngôn ngữ được trau chuốt có tính điển phạm, các nhà thơ truyện thơ nôm diễm tình còn có dụng ý sử dụng ngôn ngữ quần chúng, cách nói của quần chúng, giọng nói của địa phương để phản ánh tâm tư, sinh hoạt của họ.

4.4. THỂ THƠ LỤC BÁT VÀ TRUYỆN THƠ NÔM DIỄM TÌNH

4.4.1. Cách gieo vần

Lục bát nói chung và sự thể hiện của truyện thơ nôm diễm tình nói riêng có cấu trúc hình thể 6/8 luôn sóng đôi, tạo thành một bài thơ dài khắn khít với nhau, “ là biểu tượng của cái chẵn…nguyên tắc chẵn phải chăng bắt nguồn từ tâm lý dân tộc Việt yêu thích sự vuông tròn trọn vẹn, kết hợp; sợ và ghét sự đơn lẻ, tan vỡ, tách biệt và quan niệm triết lý phương Đông: vũ trụ có âm và trạng thái lý tưởng của vạn vật là âm dương hòa hợp?” [69, tr. 89] .

Trong cấu trúc của thể loại lục bát nói chung và truyện thơ nôm diễm tình nói riêng, lục bát “ là đại tiệc của âm thanh (ngang, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng); là kết hợp của nhiều thủ pháp tu từ (đối âm, đối nghĩa, lặp, vần, vần yêu và vần cước, các ngắt câu linh hoạt nhưng rõ). Sự gắn kết của các từ và các câu, về hình thức, rất chặt chẽ… như một lời ca, dạt dào âm điệu, luyến láy, lả lướt trong nhịp lượn của sóng và gió” [69, tr.84].

4.4.2. Cách ngắt nhịp

Khi nói đến lục bát, có một yếu tố vô cùng quan trọng không thể bỏ qua, đó là cách ngắt nhịp. Nhờ vào lối ngắt nhịp mà câu thơ giàu cảm xúc, giàu tính nhạc hơn khi nó đến với người thưởng thức. Mỗi cách ngắt nhịp đều mang lại cho dòng thơ rất rõ một sắc thái nghĩa riêng biệt. Với tính chất đều đặn, uyển chuyển, nên thơ lục bát đặc biệt được sử dụng để làm thơ trữ tình đặc trưng của dân tộc. Nếu xét riêng trong địa hạt của truyện thơ nôm diễm tình, khi bàn về nhịp/ nhịp điệu của nhóm truyện này có khá nhiều ý kiến khác nhau.

Tiểu kết

Phan Ngọc cảm nhận “… bản thân sự việc không có giá trị nghệ thuật. Giá trị của nó là cách đánh giá sự việc”[42, tr.80]. Như vậy, để nhận chân được vẻ đẹp của truyện thơ nôm diễm tình tưởng chừng thật dễ dàng bởi chúng được phô ra bởi vẻ bọc của một thời kỳ văn học cao quý của dân tộc. Nhưng ẩn sâu bên trong là mối quan hệ vẻ đẹp lộng lấy bởi ngoại hình là sự dung chứa hệ thống các biện pháp nghệ thuật mà các tác giả sử dụng. Bên cạnh, những yếu tố mang tính chất tự sự, trữ tình vốn có của loại hình truyện thơ nôm, nghệ thuật trong truyện thơ nôm diễm tình có những đặc sắc riêng: nhân vật mang sắc thái tâm lý phong phú, dùng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình,ngôn từ mang đậm chất diễm tình, cách gieo vần ngắt nhịp tạo ra những câu thơ có cái hay, cái đẹp, cái độc đáo, mượt mà thắm thiết.

KẾT LUẬN

Đọc thơ – ngẫm thơ – hiểu thơ văn là một cuộc hành trình “đi tìm cái tình ý mà người sáng tác ký gửi vào ngôn từ nghệ thuật”, đi tìm ý nghĩa của văn bản nghệ thuật vốn đa tầng, đa sắc, mơ hồ; hay nói một cách khác: thật khó nói rằng ai đúng nhất trong vô vàn người tiếp nhận, người thưởng thức, người phê bình văn bản nghệ thuật ấy; mọi sự quả chỉ là “tương đối”. Chính vì vậy, chúng tôi đi nghiên cứu đề tài này ở một phương diện tiếp cận vấn đề, nó cũng chỉ mang tính “tương đối”, có thể ở những hướng tiếp cận khác sẽ cho những cái nhìn khác. Tuy nhiên, về cơ bản, chúng tôi cũng muốn rút ra những kết luận thật xác đáng nhất. Nhất là về mặt tư tưởng nghệ thuật của nhóm truyện này.

1. Truyện thơ nôm diễm tình bao gồm những tác phẩm thuộc loại hình truyện thơ nôm nói về chuyện tình yêu hôn nhân của nam nữ thanh niên. Nhóm truyện này trước hết phải mang đầy đủ tính chất của loại hình truyện thơ nôm tức là phải mang “tính chất của truyện kể được đảm bảo bởi cốt truyện, tích truyện, hệ thống sự kiện, nhân vật, chất tự sự của tác phẩm, phải có chất thơ và lối văn nôm – vừa có yếu tố văn tự, vừa có yếu tố phong cách … một lối tư duy đặc trưng của một thời đoạn văn hóa Việt (thời trung đại)”. Là nhóm truyện do “nhà nho tài tử” gia công, chỉnh lý, mượn cốt truyện sau đó chuyển thể; lấy sự tiếp nhận làm cơ sở, nhưng là “văn học thành văn”. Nhóm truyện này dấy lên vào giữa thế kỷ XVIII, thịnh hành vào đầu thế kỷ XIX, là một “dòng khác” của truyện thơ nôm tài tử giai nhân. Về kết cấu tình tiết truyện không nhất thiết phải tuân theo mô thức gặp gỡ – lưu lạc – đoàn viên nghĩa là mô thức gặp gỡ – lưu lạc – đoàn viên vẫn là mô thức căn bản nhưng cũng không phải là tiêu chuẩn giới định bắt buộc, nhất nhất phải tuân theo. Truyện thơ nôm diễm tình vẫn sử dụng môtip tài tử – giai nhân với những tiêu chí riêng nhưng không có nghĩa nó thuộc nhóm truyện tài tử – giai nhân với h́ình thái cấu trúc truyện diễn biến phát triển theo quy luật nhân quả.

Trong truyện thơ nôm diễm tình, vấn đề tình yêu song hành cùng với yếu tố đạo lý, đạo đức nhưng chú trọng đến chữ “tình” nhiều hơn, yếu tố tình cảm là yếu tố quan trọng nhất, là sợi chỉ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. “Đằng sau việc miêu tả tình yêu của những đôi trai tài gái sắc, những tiểu thuyết ấy ẩn chứa khát vọng sâu xa về sự giải phóng tâm hồn, tình cảm con người khỏi những thể chế đạo đức phong kiến cũ mòn.

Nằm trong sự phát triển của văn học trung đại nói chung và loại hình truyện thơ nôm nói riêng, truyện thơ nôm diễm tình tiếp thu, vay mượn cốt truyện từ nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc), dân tộc hóa những tác phẩm tiếp thu được và trở thành những tác phẩm nội sinh. Trong đó Truyện KiềuTruyện Hoa Tiên là những truyện thơ nôm diễm tình tiêu biểu được viết bằng nghệ thuật điêu luyện, chứa đựng nội dung phong phú, sâu sắc. 

Truyện thơ nôm diễm tình nằm ở loại truyện được chuyển thể (hoặc cải biên, diễn Nôm,…) từ các tác phẩm văn học Trung Quốc và tiểu loại truyện có cốt truyện hoàn toàn dựa vào thực tế Việt Nam, là sáng tác của một cá nhân, không hề có sự vay mượn hay mô phỏng.

2. Đề tài của truyện thơ nôm diễm tình là tình yêu của các cặp tài tử – giai nhân; loại tình yêu tự do ít nhiều vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo, thường được mô tả say sưa như một lĩnh vực thể hiện khát vọng tự do của con người (có khác biệt so với loại hình truyện thơ nôm trước đó đó, ở đó sự chung thủy trong tình yêu và hôn nhân được mô tả chủ yếu như một phẩm chất đạo đức). Tuy vậy, hầu hết các truyện đều có xu hướng điều hòa xung đột giữa tình yêu tự do và lễ giáo. Tác phẩm thường vừa tán dương tình yêu và hôn nhân tự do vừa tìm cách hợp thức hóa tình yêu này trong khuôn khổ lễ giáo. Hiện tượng này (cả ở các tác phẩm gốc Trung Hoa lẫn các bản diễn Nôm) có căn nguyên lịch sử văn hóa ở trạng thái các đô thị Đông Á Trung đại. Ở đỉnh cao và kết tinh của truyện Nôm như Truyện Kiều có thể thấy khả năng từ một truyện tình giai nhân – tài tử vươn tới việc nêu lên, đặt ra những vấn đề xã hội và nhân văn rộng lớn như quyền sống của con người trước thực trạng những bất công và tệ nạn xã hội…”

Nhân vật chính là những tài tử – giai nhân, có vai trò quyết định quan trọng để tạo thành nhóm truyện mang tính chất như vậy. Họ hiện lên với “vẻ đẹp từ hình thức bên ngoài đến phẩm chất tâm hồn và tài năng”, trong đó nổi bật là tài thơ phú, đàn ca và “đều đề cao hết mức giá trị của tình yêu đôi lứa” nhưng các câu chuyện tình yêu khi đến hồi kết thúc không hẳn tương đồng.

Họ tự do yêu đương, tự do thề nguyền đính ước, tự do lựa chọn người bạn trăm năm cho mình,… nhưng “không buông thả theo tình cảm của mình mà phải biết giữ gìn” [11, tr.129]. Nghĩa là họ có quyền tự do lựa chọn người yêu nhưng “không có nghĩa là quá dễ dãi với người mình yêu hay với chính bản thân của mình”. Tình yêu của những con người “rất có ý thức về mình, rất nhân tình và cũng rất Việt Nam”. Tuy nhiên, tiếp nhận là một quá trình và không có lối mòn. “Các tác phẩm trong kiếp luân hồi tiếp theo, tất cả các nhân vật mà kiếp trước từng sống ở Trung Nguyên, thì đến kiếp này đều đã sinh trưởng trên đất Việt, không phải như dân nhập cư mà hoàn toàn là người bản địa”.

3. Về khuôn khổ, truyện thơ nôm diễm tình đều không quá dài, phần lớn nằm trong khoảng từ 1.500 đến 3.000 câu lục bát, phần nhiều là 3.000 câu, số chữ ước khoảng 14 vạn trở xuống. Vì vậy, một số người xếp chúng vào loại trung thiên tiểu thuyết. Nhóm truyện này xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XVIII với ngôn ngữ hết sức uyển chuyển, đã thành thục về phương diện tự sự, trau chuốt, điêu luyện về nghệ thuật. Tác phẩm thuộc truyện thơ nôm diễm tình chiếm một số lượng không nhỏ trong kho truyện thơ nôm Việt Nam. Dù vậy, những tác phẩm đó vẫn chịu sự ảnh hưởng không nhỏ về mặt mô thức, mô-típ của loại truyện tài tử – giai nhân Trung Quốc.

Cũng không ít quan điểm cho rằng truyện thơ nôm tài tử giai nhân – truyện thơ nôm diễm tình là một. Nếu cho rằng như vậy, người nghiên cứu đã hoàn toàn cắt rời mối quan hệ loại hình, sự tương quan, vận động của truyện thơ nôm trong lịch sử phát triển của nó. Không thể vì cùng viết về đề tình yêu, hôn nhân gia đình mà chúng ta xem loại truyện thơ nôm tài tử – giai nhân cũng giống như truyện thơ nôm diễm tình bởi vì chúng hoàn toàn khác nhau về tư duy nghệ thuật, thủ pháp, thi pháp. Hiện nay, số lượng thống kê được của loại hình truyện thơ nôm nói chung và truyện thơ nôm diễm tình nói riêng đều hạn chế. Ngay cả đối với nhóm truyện truyện thơ nôm tài tử – giai nhân chúng tôi cũng chưa thể tiếp cận hết được. Nhưng chúng tôi khẳng định rằng hai nhóm truyện truyện thơ nôm diễm tình và truyện thơ nôm “tài tử-giai nhân” là hoàn toàn khác nhau, không thể xếp chung vào một nhóm.

Như vậy, truyện thơ nôm diễm tình nằm trong loại hình truyện thơ nôm với những nội dung, đặc trưng và có thi pháp thể hiện riêng. Nhóm truyện này vừa thể hiện yếu tố tự sự và cũng mang yếu tố trữ tình. Thông qua những bước phân tích và tìm hiểu cụ thể, chúng tôi cho rằng sẽ có những chỗ còn vấp váp. Nhưng có thể ở những chỗ ấy biết đâu lại phát hiện ra điểm thú vị đối với nhóm truyện này.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC DA NANG\LUAN VAN KY THUAT\LUAN VAN 2014\TRAN THI PHUONG TRANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *