Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa thành phố Đà Nẵng

Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa thành phố Đà Nẵng

Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nói đến người phụ nữ Việt Nam, ta luôn nhắc đến bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh”, những người phụ nữ “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” ấy đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc, xây dựng quê hương. Cũng chính vì thế mà người phụ nữ luôn được tôn vinh trong xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khi đất nước đang trong thời kỳ đổi mới và hội nhập, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước diễn ra một cách mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội thì không ít phụ nữ lại đang bị xói mòn về phẩm chất, đạo đức, lối sống dẫn đến vi phạm pháp luật và tội phạm. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đã phần nào bị ảnh hưởng bởi không ít người phụ nữ (có người còn rất trẻ) đã phải đứng trước vành móng ngựa, rồi sau đó chịu sự sự trừng phạt của pháp luật bởi hành vi phạm tội của mình.

Thực trạng trong ba năm trở lại đây cho thấy, trên địa thành phố Đà Năngx, số người bị khởi tố, truy tố, xét xử là phụ nữ ngày càng tăng về số lượng và đa dạng về tội danh. Theo thống kê, năm 2014, trên địa bàn thành phố có 103 bị can là nữ chiếm 8,42% trong tổng số bị can mới khởi tố; năm 2015 là 82 bị can chiếm 7,39% trong tổng số bị can mới khởi tố; năm 2016 lên tới 104 bị can chiếm 9,11%; năm 2017 lên tới 101 bị can chiếm 8,68%; năm 2018 lên tới 110 bị can chiếm 6,43%. Về tội danh, qua các năm, loại tội danh mà phụ nữ phạm phải cũng đa dạng hơn. Năm 2014, 2015, phụ nữ chủ yếu phạm các tội như Đánh bạc, Chứa mại dâm, Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, thì đến năm 2016, xuất hiện thêm các tội như: Cố ý gây thương tích; Buôn bán hàng cấm, Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Về thủ đoạn, tính chất của tội phạm do nữ giới thực hiện cũng ngày một tinh vi hơn, ở một số tội phạm nhất định, phụ nữ biết lợi dụng hoàn cảnh, thế mạnh giới tính để đạt được mục đích phạm tội, lôi kéo đồng phạm…, do vậy, hậu quả của hành vi phạm tội do phụ nữ gây ra không những ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nói chung mà nó đã và đang làm ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, hình ảnh tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam từ trước đến nay.

Trước thực trạng nêu trên, việc nghiên cứu các giải pháp nhằm ngăn chặn, phòng ngừa tình trạng phụ nữ phạm tội trong thời gian tới trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là một đòi hỏi cấp thiết.

Phòng ngừa tội phạm là mục đích của tội phạm học và nó chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi phòng ngừa tội phạm được thiết lập trên cơ sở đã làm rõ được bản thân tình hình tội phạm và xác định được nguyên nhân và điều kiện của hiện tượng tiêu cực này. Như vậy, “trong khoa học tội phạm học, tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản, cơ sở đầu tiên”. Chính vì những lẽ đó và đi theo hướng chuyên sâu, đề tài “Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa thành phố Đà Nẵng” đã được lựa chọn để nghiên cứu.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn là nhằm tiếp cận một cách có hệ thống và toàn diện tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn

Thiết lập hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm do nữ thực hiện trong thời gian tới trên địa bàn thành phố.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Xác định những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm do nữ thực hiện

– Khảo sát, đánh giá tổng quan thể tình hình tội phạm do nữ thực hiện và những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

– Đưa ra các giải pháp, kiến nghị phòng ngừa tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổng thể tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về mặt nội dung, đề tài được thực hiện dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”;

– Về tội danh, đề tài luận văn đề cập đến các tội nêu trong BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009, có cập nhật những Điều luật tương ứng trong BLHS hiện hành;

– Về thời gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế từ năm 2014 đến năm 2018, gồm số liệu thống kê của Tòa án về tội phạm do nữ thực hiện.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng ngừa tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phuơng pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp thống kê; phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh; phương pháp tổng kết kinh nghiệm; phương pháp phỏng vấn chuyên gia; phương pháp lựa chọn điển hình và một số phương pháp khác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn có cách tiếp cận mới và khoa học trong việc đánh giá, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thể tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian vừa qua.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn phân tích những nhu cầu khách quan, những đòi hỏi và trình bày hệ thống các đảm bảo nhằm thực hiện tốt phòng ngừa thể tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả hoạt động của công tác này.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn có kết cấu 3 chương. Cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Chương 2: Tình hình tội phạm do nữ thực hiện và những yếu tố tác động đến tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và những vấn đề đặt ra đối với hoạt động phòng ngừa

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NỮ THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1.1. Khái niệm tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Khái niệm “tình hình tội phạm” (hay tình trạng tội phạm) là khái niệm cơ bản đầu tiên của khoa học tội phạm học. Đó là một thuật ngữ khoa học nhưng đồng thời cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, ngôn ngữ đời thường. Đối với các ngành khoa học pháp lý như hình sự, tố tụng hình sự, điều tra hình sự, khái niệm “tội phạm” là khái niệm cơ bản, cơ sở. Các khoa học đó nghiên cứu sự kiện, hành vi phạm tội đơn nhất đã thực hiện, đánh giá chúng theo những tiêu chuẩn pháp lý hình sự. Tương tự, trong khoa học tội phạm, tình hình tội phạm là khái niệm cơ bản, cơ sở đầu tiên [45, tr. 56]. Đấu tranh với tội phạm dưới góc độ Tội phạm học không phải chỉ dựa trên quan điểm xem tội phạm là những hành vi riêng lẻ – đơn nhất, mà phải nhìn nhận tội phạm trong tổng thể của nó, trong mối quan hệ của nó với “toàn bộ xã hội”, tức là với tư cách là một chỉnh thể của một hiện tượng xã hội tiêu cực, phát sinh và phát triển do những nguyên nhân và điều kiện xã hội nhất định, vận động theo những quy luật riêng và sẽ bị “tiêu vong” thông qua sự biến đổi của xã hội. [47, tr.57]

Nói cách khác, Tội phạm học không tìm ra đâu là hành vi được quy định là tội phạm, các chế tài áp dụng mà tội phạm học thực chất là tìm ra bản chất của nó là gì; có quan hệ như thế nào với các quá trình, hiện tượng xã hội khác; nguyên nhân điều kiện làm phát sinh tội phạm; biện pháp để ngăn chặn tội phạm, kiềm chế, hạn chế tội phạm phát sinh. Đây là hướng tiếp cận khoa học, biện chứng. Một mặt đi tìm và giải quyết các nguyên nhân điều kiện làm phát sinh tội phạm trong lòng xã hội, thu hẹp, hạn chế, loại bỏ những nguyên nhân điều kiện làm phát sinh mặt tiêu cực, phát huy mặt tích cực làm cho xã hội phát triển ổn định, bền vững. Mặt khác tìm cách kiềm chế, hạn chế không để tội phạm xảy ra và phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi, nguy hiểm của tội phạm, giúp cho mọi cá nhân, tổ chức không trở thành người phạm tội tiềm tàng hay nạn nhân tiềm tàng của tội phạm.Và trong chừng mực đó thì đối tượng nghiên cứu của Tội phạm học chính là tình hình tội phạm.

Hiện nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau khi bàn về khái niệm tình hình tội phạm:

Giáo sư Nguyễn Khánh Vinh quan điểm: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự được thay đổi về mặt lịch sử, mang tính chất giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện trong một xã hội (quốc gia) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định” [47, tr.61]

Tác giả Dương Tuyết Miên trong cuốn “Tội phạm học đại cương” cho rằng: “Tình hình tội phạm là toàn bộ tình hình, cơ cấu, động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm trong một giai đoạn nhất định xảy ra trong một lĩnh vực, một địa phương, trong phạm vi quốc gia, khu vực hoặc toàn thế giới trong khoảng thời gian nhất định” [18, tr.171]

Theo quan điểm của tiến sĩ Nguyễn Văn Tỉnh thì “Tình hình tội phạm là một hiện tượng tâm, sinh lý xã hội tiêu cực mang tính lịch sử cụ thể và pháp lý hình sự, có tính giai cấp và được biểu hiện thông qua tổng thể các tội phạm có cùng các chủ thể thực hiện các tội phạm đó trong một đơn vị hành chính lãnh thổ nhất định và trong một thời gian cụ thể nhất định). [29, tr.107]

Có thể thấy rằng, các quan điểm trên đều phản ánh đầy đủ bản chất của tình hình tội phạm. Tuy nhiên, tác giả đồng ý với quan điểm của Tiến sĩ Nguyễn Văn Tỉnh bời vì quan điểm này một mặt vừa nêu lên được bản chất của hiện tượng tâm – sinh lý – xã hội đang diễn ra trong xã hội, mặt khác bao hàm được nội dung phản ánh của hiện tượng tội phạm là một tổng thể hoàn chỉnh bao gồm các nội dung cấu thành tổng thể đó, mối liên hệ của các yếu tố trong tổng thể, mối liên hệ của tổng thể đó với bên ngoài là các quá trình, hiện tượng xã hội khác.

Từ những phân tích trên, có thể khái quát: “Tình hình tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý hình sự tiêu cực mang tính lịch sử và tính giai cấp, thể hiện động thái, diễn biến của các loại tội phạm hay từng loại tội phạm cụ thể trong một khoảng thời gian và một phạm vi không gian nhất định.

Như đã phân tích ở trên, tình hình tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nguy hiểm lớn nhất cho xã hội. Nó là hiện tượng tiêu cực lớn nhất bởi lẽ nó gây ra thiệt hại cho các quan hệ tồn tại trong xã hội, xâm phạm đến các giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội đã có được. Hậu quả – những tác hại về mọi mặt do tình hình tội phạm gây ra là một trong những dấu hiệu không thể thiếu được của khái niệm tình hình tội phạm. Tức là nó được coi như là một mặt tất yếu của hiện tượng đó, chứ không phải là một sự kiện riêng biệt và cũng không chỉ đơn thuần là tổng cộng các thiệt hại do từng tội phạm cụ thể gây ra. Đồng thời, cần phải nhân thức được rằng, tình hình tội phạm không phải là sự kết hợp ngẫu nhiên, là tổng số toán học các tội phạm thực hiện trong xã hội, mà là một tổng thể thống nhất biện chứng, là hệ thống các tội phạm cụ thể cấu thành niên hiện tượng đó và của các các dấu hiệu, đặc tính của hiện tượng. Do đó, nếu của sự thay đổi của dấu hiệu, đặc điểm nào đó thì tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi của các dấu hiệu, đặc điểm khác và của hiện tượng nói chung. Không thể nói tình hình tội phạm chung chung mà phải nói tình hình tội phạm trong một địa bàn và ở một khoảng thời gian nhất định. Điều đó thể hiện dấu hiệu về khoảng không gian và về thời gian của tình hình tội phạm.Tình hình tội phạm với tính cách là một hiện tượng xã hội tồn tại trong một xã hội nhất định và ở một thời gian nhất định [29, tr.110].

Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong tổng thể tình hình tội phạm là một quan hệ giữa cái chung và cái riêng, trong đó tình hình tội phạm do nữ thực hiện ở Đà Nẵng vừa phù hợp, thống nhất với những lý luận về tình hình tội phạm nói chung nhưng cũng có những đặc điểm, thông số riêng mang đặc trưng của một chủ thể trên một địa bàn cụ thể.

Từ sự phân tích trên có thể hiểu: Tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là một hiện tượng xã hội pháp lý hình sự tiêu cực, phản ánh toàn bộ thực trạng (mức độ), động thái (diễn biến), cơ cấu và tính chất tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định.

1.2. Phần hiện của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.2.1. Mức độ của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Có thể hiểu thực trạng tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là số lượng các tội phạm do nữ đã được thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định. Khi xác định số lượng các tội phạm do nữ đã thực hiện cần phải tính tổng cộng các số lượng sau: (1) số lượng các tội phạm do nữ thực hiện và bị Tòa án xét xử và tuyên bản án buộc tội; (2) số lượng các vụ án hình sự bị đình chỉ điều tra, truy tố vì không chứng minh được sự tham gia của bị can là nữ trong các tội phạm đã thực hiện; (3) các số liệu về số lượng các tội phạm do nữ thực hiện không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn); (4) hệ số của tình hình tội phạm do nữ thực hiện; (5) mức độ của tình hình tội phạm do nữ thực hiện tái phạm. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, việc xác định và đưa số liệu về số lượng các tội phạm không được phát hiện vào số lượng chung về tình hình tội phạm là công việc rất khó khăn, bởi vì các tội phạm đó không được đăng ký ở thống kê hình sự. Chính vì lẽ đó, thực trạng (mức độ) của THTP thường được khảo sát trên các phương diện như mức độ tổng quan, mức độ nhóm [19, tr.14].

– Mức độ tổng quan: được xác định bằng tổng số vụ án và tổng số bị cáo là nữ đã được đưa ra xét xử trong một địa bàn (đơn vị hành chính lãnh thổ) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính trong một năm). Mức độ tổng quan được thể hiện qua chỉ số tội phạm và cơ số hành vi phạm tội [29, tr.27]

Chỉ số tội phạm được tính bằng tổng số vụ phạm tội trên 10.000 dân trong một năm. Cơ số hành vi phạm tội được tính bằng số hành vi phạm tội (số bị cáo) trên 10.000 dân trong một năm. Căn cứ vào các chỉ số, bằng thực tiễn nghiên cứu người ta phân chia thành các mức độ nào là bình thường, mức độ nào là nguy hiểm, đáng báo động. Bằng cách đối chiếu với chỉ số của THTP mà ta nghiên cứu với các mức độ để đánh giá tính chất của THTP tại một đơn vị lãnh thổ, so sánh với chỉ số này của các đơn vị lãnh thổ có điều kiện xã hội tương đương để đánh giá THTP tại nơi nào nghiêm trọng hơn. [29, tr.28]

Để đánh giá mức độ tổng quan tình hình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng một cách chính xác, người ta chia thành mức độ tổng quan tuyệt đối và mức độ tổng quan tương đối. Trong đó, mức độ tổng quan tuyệt đối trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho biết toàn bộ số người nữ phạm tội cùng số tội phạm do họ thực hiện trong giai đoạn 2014 – 2018 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là số liệu thống kê hình sự cơ bản hàng năm để phục vụ cho việc nghiên cứu các thông số khác của tình hình tội phạm do nữ thực hiện như diễn biến, cơ cấu và tính chất. Mức độ tổng quan tương đối, tức là so sánh ở dạng % (Kết quả này là tỷ lệ tình hình tội phạm (tính theo %) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng).

– Mức độ nhóm: là tổng số vụ phạm tội do nữ thực hiện của một nhóm tội phạm nào đó trong tổng số vụ án do nữ thực hiện đã xảy ra. Mức độ tội phạm cụ thể là tổng số vụ phạm tội do nữ thực hiện của một tội phạm cụ thể nào đó trong tổng số vụ án do nữ thực hiện đã xảy ra.

1.2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Động thái (diễn biến) của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm, ổn định tương đối của THTP do nữ thực hiện nói chung (hoặc một nhóm tội phạm hoặc một tội phạm do nữ thực hiện) ở địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định (một năm, ba năm, năm năm, mười năm … ).

Để khảo sát được diễn biến của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một chu kỳ nhất định (giả sử 05 năm), người ta chọn năm thứ nhất của chu kỳ là năm gốc, số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội là nữ trong năm đó được tính là 100%. Sau đó ta lấy số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội của các năm tiếp theo đối chiếu với số liệu của năm gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của các năm tiếp theo (tính theo tỷ lệ %). Qua đó, ta thấy được xu hướng tăng, giảm hay ổn định tương đối của một chu kỳ mà còn giúp cho việc dự đoán có cơ sở về xu hướng vận động của THTP do nữ thực hiện trong những năm tiếp theo giúp cho việc thiết kế, áp dụng các biện pháp phòng ngừa sát với thực tế [20, tr.15].

Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu cần lưu ý, diễn biến của THTP do nữ thực hiện nói chung và diễn biến tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng bị tác động, làm thay đổi bởi hai loại yếu tố:

Một là, các yếu tố xã hội (thuộc về nguyên nhân điều kiện): sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế, vấn đề nhập cư ồ ạt, gia tăng dân số nhanh chóng, tỷ lệ thất nghiệp, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, mất đất sản xuất, suy thoái của đạo đức, mất ổn định xã hội … Đây còn là điều để minh chứng THTP do nữ thực hiện chịu sự tác động sâu sắc của các quá trình xã hội, hiện tượng xã hội khác. Sự thay đổi của các yếu tố xã hội sẽ tác động lên diễn biến của nhóm tội, tội phạm cụ thể. Điều này rất có ý nghĩa khi tìm nguyên nhân điều kiện của nhóm tội, tội phạm cụ thể do nữ thực hiện ở một địa bàn nào đó tăng lên một cách đột ngột. Phải xác định được đâu là nguyên nhân cơ bản, chủ yếu nhất để áp dụng biện pháp phòng ngừa.

Hai là, các yếu tố về mặt pháp lý: sự thay đổi về mặt pháp lý, đặc biệt là sự thay đổi về pháp luật hình sự, đó là việc tội phạm hóa, phi tội phạm hóa, hình sự hóa, phi hình sự hóa sẽ ảnh hưởng đáng kể đến “đồ thị” diễn biến của THTP.

Nghiên cứu sự tác động của hai yếu tố này rất có ý nghĩa trong việc đánh giá được hiệu quả của sự thay đổi chính sách hình sự, đồng thời làm rõ được nguyên nhân điều kiện của sự tác động đến sự thay đổi của diễn biến THTP do nữ thực hiện từ đó đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hinhg tội phạm trên địa bàn.

1.2.3. Cơ cấu của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Cơ cấu của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác nhau do nữ thực hiện trong số lượng chung của chúng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định . [19, tr. 18]

Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà ta phân chia thành các cơ cấu THTP khác nhau, thông thường xét trên những cơ cấu sau:

Cơ cấu của THTP do nữ thực hiện theo tên chương của các tội phạm cụ thể của BLHS: Cơ cấu này được tính theo tỷ trọng giữa các tội của từng chương (được quy định trong BLHS) đã xảy ra với tổng số các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra. Nghĩa là nếu coi tổng số các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trong một thời gian nhất định trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là 100%, ta phải xác định các tội phạm do nữ thực hiện của mỗi chương đã xảy ra chiếm bao nhiêu % trong tổng số đó [47, tr 146].

Cơ cấu của THTP theo tội danh cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự: Loại cơ cấu này thường được áp dụng khi nghiên cứu về một nhóm tội nào đó do nữ thực hiện, được tính bằng tỷ trọng giữa tội danh cụ thể do nữ thực hiện đã xảy ra với tổng số tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra của một nhóm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một thời gian nhất định. Qua việc xác định theo cơ cấu từng tội danh cụ thể để biết được tỷ trọng từng tội do nữ thực hiện trong nhóm tội và làm rõ tội nào là nổi cộm nhất để tập trung tìm ra nguyên nhân điều kiện định hướng phòng ngừa [47, tr 154].

Cơ cấu của THTP theo hình thức phạm tội: Tội phạm do nữ thực hiện có thể được thực hiện dưới hình thức đơn lẻ, đồng phạm hay tội phạm có tổ chức. Loại cơ cấu này nhằm xác định tỷ lệ phần trăm của từng hình thức phạm tội do nữ thực hiện đó chiếm bao nhiêu trong tổng số tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là một loại cơ cấu có ý nghĩa trong việc xác định tính chất của THTP do nữ thực hiện, đặc biệt với chỉ số phần trăm của tội phạm có tổ chức [45, tr. 126].

Cơ cấu của THTP theo địa bàn phạm tội: Loại cơ cấu này áp dụng rất phổ biến trong nghiên cứu THTP. Chính là việc xác định tỉ lệ tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra theo địa bàn hành chính (quận, huyện) đã xảy ra so với tổng số tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó thấy được cơ cấu tội phạm theo địa giới hành chính. Việc xác định cơ cấu này có nhiều ý nghĩa trong việc xác định nguyên nhân điều kiện gắn với địa bàn cụ thể, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với từng địa bàn.

Cơ cấu của THTP theo đặc điểm về nhân thân của người phạm tội: Đây là một tập hợp của nhiều cơ cấu bởi vì mỗi đặc điểm nhân thân lại được đặc trưng bởi một cơ cấu (ví dụ cơ cấu tội phạm theo độ tuổi, theo nghề nghiệp… ), tùy vào mục đích nghiên cứu người ta phân chia nhân thân của người phạm tội theo các đặc điểm có ý nghĩa đối với nghiên cứu tội phạm học. Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân có ý nghĩa to lớn đối với tội phạm học hiện đại, là cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa xã hội, kiểm soát xã hội có hiệu quả trong phòng ngừa tội phạm [45, tr. 128]..

Cơ cấu của THTP theo loại hình phạt áp dụng cho người phạm tội: Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính [47, tr. 157]. .

Loại cơ cấu này xác định tỷ lệ áp dụng của từng loại hình phạt trong tổng số tội phạm đã xảy ra. Thường người ta chỉ đề cập đến cơ cấu hình phạt chính, tùy mục đích nghiên cứu có thể xác định cơ cấu của hình phạt bổ sung.

Ngoài những loại cơ cấu trên, THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn có thể được nghiên cứu theo các dạng cơ cấu, như: Cơ cấu của THTP theo hình thức lỗi; cơ cấu của THTP theo động cơ phạm tội; cơ cấu của THTP theo đặc điểm công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội; cơ cấu của THTP theo đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với người phạm tội

Như vậy, cơ cấu là cấu trúc bên trong của “hệ thống” THTP, chúng ta không chỉ nghiên cứu về mức độ của các cơ cấu mà còn phải xem xét đến diễn biến của các cơ cấu, tìm ra chiều hướng vận động của nó để nhận thức đầy đủ, đánh giá đúng tính chất của THTP.

1.2.4. Tính chất của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Tính chất của THTP do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thể hiện ở số lượng của các tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội, trong cơ cấu của THTP do nữ thực hiện cũng như các đặc điểm nhân thân những người nữ thực hiện tội phạm. Tính chất của THTP do nữ thực hiện được làm sáng tỏ thông qua cơ cấu của nó. Tính chất của tình hình tội phạm do nữ thực hiện có thể được thể hiện qua một số nội dung cụ thể, như:

Thứ nhất, tính chất của THTP do nữ thực hiện là đặc điểm về chất thể hiện ở tính nguy hiểm cho xã hội và xu thế tăng lên. Ví dụ: Tội phạm về cố ý gây thương tích, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn của các đối tượng cũng trở nên manh động, đê hèn hơn nên tính chất của tội phạm ngày càng nguy hiểm hơn [47, tr. 126].

Thứ hai, tổng số tội phạm do nữ thực hiện và người thực hiện hành vi phạm tội cao so với mức có thể chấp nhận, chiều hướng tăng lên. Ví dụ: Tội phạm ma túy, tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra liên tục, tăng cả về số vụ và số người thực hiện hành vi phạm tội, có xu hướng ngày càng tăng. So với tổng số tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội trong THTP do nữ thực hiện là cao nhưng có thể chấp nhận được do kinh kế – xã hội phát triển [45, tr. 134]..

Thứ ba, tội phạm do nữ thực hiện đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm và ngày càng tăng lên. Ví dụ: Tội phạm cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản với số lượng tài sản lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số tội phạm xảy ra và ngày càng tăng [45, tr. 142]..

Thứ tư, hậu quả thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần, sự bất ổn của xã hội và xu thế tăng. Ví dụ: Tội phạm về tai nạn giao thông đường bộ đối với các vụ nghiêm trọng gây thiệt hại rất lớn về tài sản, tính mạng của nhiều người gây bất ổn trong xã hội và có xu hướng ngày càng tăng [45, tr146]..

Thứ năm, số lượng tăng lên của những người có đặc điểm nhân thân nhất định là người phạm tội như: người chưa thành niên là nữ, người có chức vụ, người có trình độ cao là nữ cũng phản ánh tính chất nguy hiểm của THTP do nữ thực hiện. Ngoài ra tính chất nguy hiểm của cách thức phạm tội, công cụ phạm tội cũng phản ánh tính chất của THTP [45, tr. 151]..

Như vậy, muốn đánh giá đặc điểm về chất phải thông qua đặc điểm về lượng và qua thao tác phân tích số lượng đó. Tóm lại, muốn đánh giá được tính chất của THTP phải qua số liệu và qua phân tích thực trạng, diễn biến, cơ cấu.

1.3. Phần ẩn của tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.3.1. Khái niệm tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Nghiên cứu về tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng không thể không đề cập đến vấn đề tội phạm ẩn (hay phần ẩn của tội phạm). Bởi vì, tình hình tội phạm luôn là một thể thống nhất, được tạo thành bởi hai thành phần, đó là phần ẩn và phần hiện của tội phạm. Vì vậy, để nhận thức về tình hình tội phạm thì vấn đề tội phạm ẩn không thể không được xem xét [17, tr.28].

Là một bộ phận cấu thành của tình hình tội phạm, tội phạm ẩn hay THTP ẩn nói chung và tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tất yếu, khách quan. Con người chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng ở mức độ tương đối, không bao giờ là nhận thức được tất cả, luôn có phần chưa nhận thức được, nhận thức về THTP cũng như vậy. Tội phạm ẩn hay phần ẩn của tội phạm do nữ thực hiện là một khái niệm chỉ trạng thái. Điều quan trọng đặt ra ở đây là trường hợp nào thì một tội phạm đã xảy ra trên thực tế gọi là ẩn? Nói cách khác, trạng thái ẩn hay hiện của tội phạm là nói trong mối quan hệ với chủ thể nào? Điển hình như khi một vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra, nhưng do xấu hổ nạn nhân không dám tổ giác với cơ quan chức năng. Trong trường hợp này, nếu xét trên lăng kính của người bị hại, thì đây là phần hiện của tội phạm, bởi vì người bị hại đã biết rõ về tội phạm này. Tuy nhiên, với các cơ quan chức năng thì tội phạm này vẫn là tội phạm ẩn, vì chưa có ai báo tin cho các cơ quan này, vì thế tội phạm chưa bị xử lý, và đương nhiên cũng không thể có trong hồ sơ thống kê [17, tr.28].

Hiện nay, vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau khi bàn về khái niệm tội phạm ẩn. Có ý kiến cho rằng: “Là một trong hai phần của THTP, tội phạm ẩn (hay phần ẩn của THTP) được tạo nên bởi tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra trong thực tế, nhưng không được phát hiện, không bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự hoặc không có trong thống kê tội phạm”. [29, tr.163]. Lại có ý kiến cho rằng: “Tội phạm ẩn là số lượng tội phạm và người phạm tội đã thực hiện trên thực tế nhưng không được tường thuật với cơ quan có thẩm quyền hoặc chưa bị phát hiện (một cách chính thức), do vậy chưa bị xử lý về hình sự, chưa có trong thống kê hình sự chính thức”. [19, tr.18]

Theo các quan điểm này, số liệu thống kê về tội phạm là cơ sở thực tế, chất liệu để nghiên cứu về tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Trên cơ sở thực tế của số liệu thống kê để phân tích về THTP do nữ thực hiện, tìm ra nguyên nhân điều kiện và thiết kế áp dụng biện pháp phòng ngừa. Số liệu thống kê càng sát với thực tế bao nhiêu việc nghiên cứu giải quyết THTP do nữ thwucj hiện càng chính xác, mang lại hiệu quả bấy nhiêu. Một hệ thống số liệu thống kê khoa học, sát thực tế là điều kiện tiên quyết cho việc nghiên cứu và giải quyết THTP do nữ thực hiện. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó mà quá trình thống kê sai sót, số liệu thống kê không phản ảnh đúng tình hình thực tiễn thì tỉ lệ tội phạm ẩn do nữ thực hiện cũng có thể tăng lên hoặc giảm đi.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tổng thể các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhưng chưa được phát hiện, xử lý hình sự và chưa có trong thống kê của cơ quan chức năng.

Như đã phân tích ở trên, tội phạm ẩn là một tất yếu, nhưng sự tất yếu này phải ở mức độ cho phép nếu không sẽ dẫn đến việc nhận thức về THTP bị sai lệch. Nếu tỷ lệ tội phạm ẩn do nữ thực hiện chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra, “bức tranh” về THTP do nữ thực hiện được phản ánh qua tội phạm rõ là không trung thực, sai lệch về bản chất. Từ đó, chúng ta đưa ra được những dự báo chính xác cũng như đặt ra các giải pháp hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và công tác phòng ngừa tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.

1.3.2. Phân loại tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.3.2.1. Tội phạm ẩn khách quan

Tội phạm ẩn khách quan là một thuật ngữ chỉ khái niệm có nội dung bao hàm tất cả những tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song do các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự không có thông tin về những tội phạm này [45, tr.156].

Theo quy định của pháp luật hệ thống các cơ quan có quyền khới tố vụ án bao gồm: Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, cơ quan điều tra các cấp, viện kiểm sát nhân dân các cấp, tòa án nhân dân các cấp các cơ quan này gọi là cơ quan chuyên trách. Nguyên nhân dẫn đến các cơ quan chuyên trách không có thông tin về tội phạm gồm nhiều yếu tố khác nhau. Tóm lại ở các phương diện sau: Từ chính sự kiện phạm tội, từ chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, từ người bị hành vi tội phạm xâm hại, từ người biết về sự việc phạm tội. Vì không có ai tố giác, cũng không có tin báo và bản thân các chủ thể có trách nhiệm phát hiện tội phạm cũng không nhận thức được dấu hiệu của tội phạm, mặc dù trong thực tế, chúng đã thực hiện, thậm chí thực hiện nhiều lần lien tục, cho nên loại tội phạm này không chịu bất kỳ một sự tác động nào từ phía Nhà nước và đương nhiên, nó không thể có trong hồ sơ thống kê tội phạm.

Như vậy, tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tổng thể các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trên thực tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhưng các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án chưa có thông tin về các tội phạm này.

1.3.2.2. Tội phạm ẩn chủ quan

Khác với tội phạm ẩn khách quan, tội phạm ẩn chủ quan nói chung và tội phạm ẩn chủ quan của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, đúng như tên gọi của nó, có lý do ẩn xuất phát từ các chủ thể mà pháp luật đã quy định cho nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, kể từ khi trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm hoạch tiếp nhận tố giác bà tin báo về tội phạm cho đến khâu xét xử vụ án hình sự. Các chủ thể này là các chủ thể được Nhà nước trao quyền, có trách nhiệm trước Nhà nước trong việc giải quyết vụ án hình sự. mỗi chủ thể có một phạm vi trách nhiệm riêng của mình và trong phạm vi đó, hành vi phạm tội đã xảy ra, chủ thể đã nắm được được mà không xử lý theo đúng quy định của pháp luật hình sự thì hành vi pham tội đó, rõ ràng không phải là tội phạm ẩn khách quan mà là tội phạm ẩn chủ quan. Nói cách khác, lý do ẩn của tội phạm nằm ngay trong phạm vi trách nhiệm của các chủ thể trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm. [47, tr.172]

Với cách nhìn nhận như vậy, có thể hiểu: Tội phạm ẩn chủ quan của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là toàn bộ các tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mà thông tin về tội phạm đã được các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án nắm được, song vì các lý do khác nhau, các tội phạm đó không bị phát hiện, xử lý.

1.3.2.3. Tội phạm ẩn thống kê

Hiện nay, tội phạm ẩn thống kê là một khái niệm còn có nhiều ý kiến trái chiều. Có người thừa nhận tội phạm ẩn thống kê là một loại tội phạm ẩn. Cũng có người không thừa nhận tội phạm ẩn thống kê là một loại tội phạm ẩn. Theo quan điểm giả việc nghiên cứu THTP của một địa bàn cụ thể trong những khoảng thời gian nhất định để thiết kế các biện pháp phòng ngừa phải dựa trên hệ thống số liệu thống kê đầy đủ, chính xác. Sự không ghi nhận đầy đủ về số người phạm tội, số vụ phạm tội nghĩa là số liệu được tạo ra chưa hoàn toàn chính xác đầy đủ. Vậy phải coi tội phạm không được ghi nhận đó là tội phạm ẩn.

Có thể hiểu, tội phạm ẩn thống kê nói chung và tội phạm ẩn thống kê của tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là khái niệm dùng để chỉ tội phạm do nữ thực hiện đã xảy ra trên thực tế, đã được phát hiện, xử lý nhưng vì lý do nào đó (không phải do sai số thống kê) mà việc thống kê không đếm hết được số người phạm tội hay số vụ phạm tội do nữ thực hiện dẫn đến số liệu thống kê không chính xác của THTP do nữ thực hiện. Từ đó các cơ quan khi dựa vào số liệu thống kê để nghiên cứu, thiết kế các biện pháp phòng ngừa chưa đảm bảo độ tin cậy cao [45, tr.156]..

Như vậy, lý do tồn tại tội phạm ẩn thống kê của tội phạm do nữ thực hiện nằm trong phạm vi công tác thống kê tội phạm, song không phải do lỗi của chủ thể tiến hành thống kê, không phải do các phương tiện được áp dụng trong quá trình thống kê lạc hậu hay hiện đại, mà nằm ở những quy định có tính chất pháp lý đối với công tác thống kê tội phạm. Nói cách khác, tội phạm ẩn thống kê có tồn tại hay không phụ thuộc vào khả năng của công tác thống kê ở mỗi nước, có đếm được hết và ghi chép được hết số tội phạm và người phạm tội đã được cơ quan có thẩm quyền xử lý hay không. Điều đó có nghĩa là, tội phạm ẩn thống kê có thể tồn tại ở một quốc gia này hay một quốc gia khác, ở giai đoạn này hay một giai đoạn khác (trong cùng một nước) còn số liệu thống kê thù luôn có khả năng đúng.

1.3.3. Nguyên nhân tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.3.3.1. Nguyên nhân tội phạm ẩn khách quan

Nguyên nhân ẩn của loại tội phạm ẩn khách quan nói chung và tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng rất đa dạng. Tuy nhiên, trên cơ sở của của tình hình kinh tế, pháp luật, xã hội cũng như căn cứ vào những nghiên cứu thực tế, phần hiện của tình hình tội phạm cho thấy cần phải tìm kiếm và xem xét lý do ẩn của tội phạm ẩn khách quan từ các góc độ: (1) Lý do ẩn bắt nguồn từ chủ thể của hành vi phạm tội; (2) Lý do ẩn xuất phát từ phía người bị hại của hành vi phạm tội; (3) Lý do ẩn xuất phát từ những người khác có biết về tội phạm hoặc có liên quan (nhân chứng, người có quyền lợi, nguyên đơn dân sự).

– Tội phạm ẩn khách quan của tội phạm do nữ thực hiện có lý do từ phía chủ thể của hành vi phạm tội

Về mặt tâm lý, những người phạm tội nói chung và đặc biệt là những người phạm tội do nữ thực hiện với lỗi cố ý thường không mong muốn hành vi phạm tội của mình bị phát hiện, xử lý. Vì thể, trong thực tế của tình hình tội phạm luôn luôn có xu hướng “tinh vi hóa” hành vi phạm tội, tận dụng mọi khả năng và điều kiện có thể để che giấu tội phạm và tạo ra những cản trở để tránh sự phát giác và bị phát hiện [47, tr.180]. Tuy nhiên, không phải đối tượng nào khi thực hiện hành vi phạm tội cũng có khả năng che dấu hành vi phạm tội của mình. Nghiên cứu về tội phạm ẩn có lý do từ người thực hiện hành vi phạm tội là nữ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là việc tìm xem loại nhân thân nào có khả năng nhất trong việc che dấu hành vi phạm tội của mình. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng, hai loại chủ thể sau đây có khả năng che dấu hành vi tốt nhất, nói cách khác những tội phạm do hai chủ thể này thực hiện sẽ có tỷ lệ ẩn cao nhất.

Thứ nhất, tội phạm ẩn do nữ thực hiện có lý do xuất phát từ loại nhân thân người phạm tội liên tục. Người phạm tội nếu thực hiện hành vi phạm tội lần đầu trót lọt, đặc biệt là những tội phạm thu được lợi ích về kinh tế sẽ làm cho người phạm tội bắt đầu có niềm tin ở thủ đoạn đã áp dụng và tiếp tục thực hành vi phạm tội tiếp theo. Bên cạnh đó, việc thực hiện trót lọt cũng cố niềm tin cho người phạm tội không bị phát hiện, xử lý nên việc thực hiện tội phạm tiếp theo là gần như chắc chắn. So với việc thực hiện lần đầu, lần tiếp theo có khả năng sẽ hoàn hảo hơn cả về độ tinh vi lẫn sự nguy hiểm cho xã hội. Thời gian ẩn càng lớn thì mức độ thiệt hại càng lớn, mà trước hết là thiệt hại về mặt vật chất, tiền bạc [45, tr.160].

Trong thời gian gần đây, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng loại nhân thân người phạm tội liên tục là nữ đang có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở nhóm tội phạm thực hiện hành vi có sự lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị trí công việc và chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện đồng thời dễ dàng che dấu hành vi phạm tội của mình. Khi thực hiện hành vi phạm tội, họ đã lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, sử dụng các lợi ích nhóm, các mối quan hệ để dễ dàng bưng bít, che giấu hành vi phạm tội của mình [15, tr.31]. Chính vì vậy, tỉ lệ tội phạm ẩn do nhóm người này tạo ra là rất lớn. Bản thân các chủ thể của các tội phạm loại này đã tạo được những đảm bảo khá chắc chắn cho hành vi phạm tội của mình, kể cả trong trường hợp hành vi mà chúng thực hiện là rất trắng trợn, diễn ra trong một thời gian dài. Khi đã bị cơ quan chức năng phát hiện, chúng là sử dụng những ”tấm là chắn” để che chắn, bọc lót nhằm chống lại sự phát hiện, kể cả là sự phát hiện của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thậm chí chúng còn phạm những tội phạm mới để được bao che, trong đó đa phần là tội đưa hối lộ để được bao che về tội tham ô tài sản, làn trái các quy định của nhà nước… Chính sự liên kết giữa các hành vi phạm tội do những chủ thể là nữ ở những vị trí, địa vị khác nhau thực hiện lại làm cho tỉ lệ ẩn, thời gian ẩn của loại tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ngày càng cao.

Thứ hai, tội phạm ẩn khách quan do nữ thực hiện có nguyên nhân từ những người phạm tội có đặc điểm nhân thân là tái phạm. Tái phạm là việc một người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội. Đây là những người tiêu biểu cho sự có nhiều đặc điểm nhân thân tiêu cực, thuận lợi cho sự phát sinh tội phạm. Sự tái phạm, tái phạm nguy hiểm chính là chỉ báo rõ nét nhất về một loại hình nhân thân người phạm tội có khuynh hướng chống đối xã hội bền vững [46, tr. 182].

Về tội phạm của những người tái phạm là nữ thực hiện chắc chắn sẽ hoàn toàn khác với người phạm tội lần đầu. Họ có “kỹ năng” thực hiện hành vi tội phạm tốt hơn, tinh vi hơn, hạn chế đến mức thấp nhất việc để lại dấu vết, khả năng đối phó, cản trở việc phát hiện tội phạm nhiều hơn, nhất là những người lấy công việc phạm tội làm nghề nghiệp để sống (phạm tội chuyên nghiệp). Do vậy tội phạm ẩn do những người này thực hiện tất yếu sẽ cao hơn. Thực tế cho thấy, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các đối tượng tội phạm là nữ thực hiện hành vi tái phạm ở rất nhiều loại tội phạm khác nhau, nhưng tập trung ở một số nhóm hành vi như: Trộm cắp tài sản; mua bán trái phép chất ma túy; lừa đảo chiếm đoạt tài sản… Đây cũng chính là các loại tội phạm có tỷ lệ ẩn cao trên địa bàn.

– Tội phạm ẩn khách quan do nữ thực hiện có lý do từ phía nạn nhân

Bất kỳ một tội phạm nào, khi xảy ra cũng đều gây ra cho xã hội những hậu quả nguy hiểm nhất định, được thể hiện ở các dạng thiệt hại về thể chất, tình thần và vật chất. Các thiệt hại này có thể gây ra đối với cá nhân, nhưng cũng có thể gây ra cho cơ quan, tổ chức. Chính vì vậy, để làm rõ nguyên nhân ẩn của tội phạm xuất phát từ phía nạn nhân, cần nghiên cứu trên cả hai khía cạnh: nạn nhân là cá nhân và nạn nhân là cơ quan, tổ chức

Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan do nữ thực hiện có nguyên nhân từ phía nạn nhân là cá nhân. Nạn nhân của tội phạm là những người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần và tài sản. Theo logic thông thường, nạn nhân thường mong muốn tố giác tội phạm, mong muốn tội phạm phải được xử lý một cách công minh. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có nhiều trường hợp nạn nhân là các cá nhân không tố giác tội phạm với cơ quan chức năng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng tội phạm ẩn nói chung và tội phạm ẩn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. Có thể thấy, lý do họ không báo cáo tội phạm đến cơ quan chức năng có thể xuất phát từ các lý do sau:

Một là, nạn nhân không dám tố giác. Thực tế tình hình tội phạm nói chung và tội phạm do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có thể thấy, có rất nhiều nguyên nhân làm cho nạn nhân không dám tố giác người phạm tội, tuy nhiên một trong những nguyên nhân chủ yếu đó là do nạn nhân sợ bị trả thù. Chính vì lo sợ nên nạn nhân đã không thông báo về hành vi phạm tội của người phạm tội với cơ quan chức năng, mặc dù bản thân rất muốn hành vi phạm tội của đối tượng phải bị phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật, và người phạm tội phải chịu hậu quả pháp lý thích đáng do hành vi phạm tội của mình gây ra.

Bên cạnh đó, có những trường hợp cá nhân bị gây thiệt hại, có khi là thiệt hại không nhỏ hoặc có nguy cơ còn tiếp tục tái diễn, lại không dám tố giác, mặc dù mong muốn người phạm tội phải bị xử lý theo quy định của pháp luật. Đây là những nạn nhân có mối quan hệ nhất định với người phạm tội đã gây thiệt hại cho mình. Họ có thể bị đe dọa hoặc chưa bị đe dọa nhưng nhận thức được rằng nếu tố giác thì chính những người phạm tội đó sẽ gây bất lợi, thiệt hại cho mình. Những trường hợp này nạn nhân có thể bị phụ thuộc vào các mối quan hệ như quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ phụ thuộc về kinh tế, quan hệ giữa nhân viên và thủ trưởng. [19, tr. 26]… Chính điều đó đã trở thành một trong những nguyên nhân gây ra trình trạng tội phạm ẩn do nữ thực hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\TOI PHAM HOC\TRAN VAN HIEP

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *