Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thành phố Đà Nẵng nằm ở miền Trung Việt Nam với khoảng cách gần như chia đều giữa thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Dân số ngày một gia tăng, bên cạnh đó Đà Nẵng cũng là địa bàn trung tâm của các tỉnh miền Trung, là điểm đến hấp dẫn của số lượng lớn khách du lịch, đây là những đặc điểm khiến THTP ở thành phố Đà Nẵng có những diễn biến phức tạp.

Thành phố Đà Nẵng có quá trình phát triền về kinh tế với tốc độ cao trong thời gian qua. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển đó là mặt trái của cơ chế thị trường cũng đặt ra nhiều khó khăn, thách thức đối với công tác đảm bảo an ninh chính trị và TTATXH của thành phố mặc dù chính quyền các cấp thành phố Đà Nẵng đã rất quan tâm tới công tác phòng, chống tội phạm, THTP và các hành vi vi phạm pháp luật, tệ nạn xã hội được kiểm soát.

Tuy nhiên, một số loại tội phạm vẫn chưa thực sự được kiềm chế hiệu quả, trong đó nổi lên là các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có chiều hướng gia tăng và chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu tình hình tội phạm của thành phố Đà Nẵng. Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng, trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (bao gồm tất cả các vụ án xét xử sơ thẩm của tòa án cấp huyện) đã xét xử 3721 vụ án với 6339 bị cáo; trong số này các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng có 1766 vụ án với 2666 bị cáo, chiếm 47,46% về số vụ và 42,06% về số bị cáo. Tỉ lệ này nhìn chung là rất cao. Trong số đó, nhiều nhất là các vụ trộm cắp tài sản với 1257 vụ (chiếm 71,18% số vụ), lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra 226 vụ (chiếm 12,8% số vụ), cướp giật tài sản xảy ra 126 vụ (chiếm 7,13% số vụ), lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xảy ra 56 vụ (chiếm 3,17% số vụ). Số tiền lên đến hàng trăm tỷ đồng, liên quan đến nhiều thành phần, diễn biến hết sức khó lường và tiềm ẩn nhiều nguy cơ, gây hậu quả nghiêm trọng đến tình hình an ninh chính trị, kinh tế và TTATXH trên địa bàn nhiều tỉnh thành trong thời gian dài.

Mặt khác, thực tiễn phòng, chống các tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc làm hạn chế kết quả phòng ngừa nhưng chưa được tổng kết rút kinh nghiệm. Trước thực tiễn đó cần phải nghiên cứu chuyên sâu về tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội phạm này có hiệu quả trên cơ sở khoa học.

Với những lý do trên, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” làm luận văn Thạc sỹ Luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018, luận văn đề xuất các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về THTP XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Hai là, phân tích thực trạng tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 qua các số liệu thống kê của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh, đặc biệt là của TAND và các bản án hình sự sơ thẩm xét xử các tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Ba là, dự báo THTP và đề xuất các giải pháp phòng ngừa tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu 3 vấn đề

Một là, lý luận về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Hai là, nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018.

Ba là, nghiên cứu giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung và chuyên ngành: Luận văn nghiên cứu THTP dưới góc độ chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.

– Về không gian: Luận văn nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

– Về thời gian: Luận văn nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong khoảng thời gian 5 năm (từ năm 2014 đến năm 2018).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng và Nhà nước về phòng ngừa tội phạm.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phuơng pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân tích; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp so sánh; Phương pháp thống kê; Phương pháp phỏng vấn chuyên gia; Phương pháp lựa chọn điển hình và một số phương pháp khác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn nghiên cứu hệ thống lý luận về THTP, sử dụng lý luận đó để khảo sát thực trạng tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn là tài liệu tham khảo trong công tác đấu tranh, phóng chống tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và có giá trị tham khảo cho các địa bàn tương tự khác.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm ba chương:

Chương 1. Lý luận về tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 2. Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018.

Chương 3. Giải pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

Chương 1

LÝ LUẬN VỀ TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ

TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

1.1.1. Khái niệm tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

”Khái niệm “tình hình tội phạm” (hay tình trạng tội phạm) là khái niệm cơ bản đầu tiên của khoa học tội phạm học. Đó là một thuật ngữ khoa học nhưng đồng thời cũng là một thuật ngữ thường được dùng trong ngôn ngữ thông dụng, ngôn ngữ đời thường” [47, tr.54]. “Đấu tranh với tội phạm dưới góc độ Tội phạm học không phải chỉ dựa trên quan điểm xem tội phạm là những hành vi riêng lẻ – đơn nhất, mà phải nhìn nhận tội phạm trong tổng thể của nó, trong mối quan hệ của nó với “toàn bộ xã hội”, tức là với tư cách là một chỉnh thể của một hiện tượng xã hội tiêu cực, phát sinh và phát triển do những nguyên nhân và điều kiện xã hội nhất định, vận động theo những quy luật riêng và sẽ bị “tiêu vong” thông qua sự biến đổi của xã hội” [49, tr.57].

Với tính cách là khách thể nghiên cứu cơ bản của tội phạm học, THTP được hiểu là hiện tượng tâm – sinh lý – xã hội tiêu cực, vừa có tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa có tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện bằng tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ thể đã thực hiện các hành vi đó trong một đơn vị hành chính – lãnh thổ nhất định và trong một đơn vị thời gian nhất định.

Như vậy, khi đi vào nghiên cứu về tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt chúng ta cần xác định tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt chỉ là một trường hợp cụ thể, một “cái riêng” của THTP, – “Cái chung”, cho nên khái niệm này cũng phải tuân theo khái niệm chung về THTP như đã nêu ở trên.

Áp dụng lý luận này cho trường hợp tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt, cho phép rút ra định nghĩa như sau: Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là hiện tượng tâm – sinh lý – xã hội tiêu cực, vừa có tính lịch sử và lịch sử cụ thể, vừa có tính pháp lý hình sự với hạt nhân là tính giai cấp, được biểu hiện bằng tổng thể các hành vi phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra trên một địa bàn cụ thể.

Đối với phạm vị nghiên cứu của luận văn này thì đơn vị hành chính – lãnh thổ đang nói ở đây là thành phố Đà Nẵng và đơn vị thời gian ở đây được ấn định là 5 năm, từ năm 2014 đến năm 2018.

1.1.2. Đặc điểm của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Đặc điểm của THTP nói chung và tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng là hiện tượng, mặt biểu hiện ra bên ngoài của THTP. THTP nói chung và tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt nói riêng thể hiện đặc điểm định lượng và định tính ở mỗi thời kỳ, mỗi vùng, lãnh thổ hành chính nhất định, tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt được thể hiện cụ thể qua mức độ, cơ cấu, động thái và tính chất. Nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là đi sâu nghiên cứu hai nội dung quan trọng: Phần hiện và phần ẩn của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt. Phần ẩn của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt chỉ được xác định thông qua đặc điểm định lượng của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt và lấy phần hiện của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt làm cơ sở cho việc nghiên cứu đối chứng.

Mức độ của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là đặc điểm định lượng tiêu biểu, cho biết về toàn bộ số người phạm tội cùng số tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt do họ thực hiện trong một đơn vị thời gian và không gian nhất định. Đây chính là cơ sở, là chất liệu chính tạo nên cái nhìn tổng quát về tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt ở mỗi giai đoạn.

1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.1.3.1. Ý nghĩa về mặt lý luận

Nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là một nghiên cứu thực tế, song luôn gắn với lý luận của khoa học Tội phạm học và phải có lý luận dẫn dắt. Lý luận này là lý luận tội phạm học về các vấn đề thuộc THTP nói chung và tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Vì thế, ý nghĩa lý luận mà việc nghiên cứu đề tài này có thể đóng góp thể hiện ở sự khẳng định và góp phần hoàn thiện lý luận tội phạm học về THTP nói chung và tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt nói riêng thông qua địa bàn thành phố Đà Nẵng. Một là, tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng có bản chất của THTP nói chung như: Xã hội; lịch sử, lịch sử cụ thể; pháp lý hình sự và bản chất phản ánh. Chính nhờ những bản chất này mà việc nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mới đem lại những giá trị thiết thực cho sự khẳng định lý luận và thay đổi thực tiễn ở địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chính vì các lý do đó mà việc nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là khả thi và không bị trùng lặp. Hai là, tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng có đặc điểm của THTP nói chung, tức là các bản chất phải được bộc lộ qua các đặc điểm mà con người có thể nhận thức được. Đó là các đặc điểm định lượng và định tính với các thông số cụ thể là mức độ, diễn biến, cơ cấu và tính chất của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Làm rõ được các thông số này bằng chất liệu nghiên cứu cụ thể trong một thời gian nhất định, một mặt đã vẽ được bức tranh thực tế của hiện tượng nghiên cứu, mặt khác là sự khẳng định lý luận tội phạm học về THTP là khả thi. Bốn là, thông qua việc nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để khẳng định luận điểm cho rằng, THTP chứa đựng những thông tin cho biết về nguyên nhân và điều kiện của THTP và là cơ sở để nhận biết THTP tiềm tàng, cái giữ vai trò là cơ sở trực tiếp cho việc thiết lập các biện pháp phòng ngừa ở nghĩa ngăn chặn tội phạm.

1.1.3.2. Ý nghĩa về mặt thực tế

Kết quả nghiên cứu THTP nói chung và tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho chúng ta nhìn được toàn cảnh về các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra. Cái nhìn toàn cảnh về các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra không chỉ thể hiện tình trạng tĩnh của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra mà còn thể hiện cả diễn biến (tăng, giảm hoặc tương đối ổn định về số lượng cũng như về tính chất) của tình trạng này.

Để có được một cái nhìn đầy đủ như vậy đòi hỏi việc nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng phải thực hiện các nội dung nghiên cứu cụ thể và cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù họp với các nội dung nghiên cứu cụ thể đó.

Nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng không chi dừng lại ở việc mô tả về tình hình tội phạm mà đòi hỏi còn phải phân tích, so sánh về tình hình tội phạm để qua đó có được sự đánh giá đầy đủ và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra – nghiêm trọng về mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất.

Từ những kết quả mà luận văn đạt được, tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được khái quát một cách rõ nét và từ đó, mục đích của luận văn là trở thành tư liệu nghiên cứu cho nhân dân và các cơ quan chính quyền, các cơ quan tố tụng đưa ra các giải pháp đấu tranh, phòng ngừa tình hình tội phạm này.

1.2. Phần hiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt hiện trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Phần hiện của tình hình tội phạm là toàn bộ những hành vi phạm tội và chủ thể của các hành vi đó đã bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự ở từng đơn vị hành chính – lãnh thổ hay trên phạm vi toàn quốc, trong những khoảng thời gian nhất định và được ghi nhận kịp thời trong thống kê hình sự[49, tr.138]. Theo chúng tôi, đây là quan điểm tương đối chính xác và đầy đủ về phần hiện của THTP, mang tính lý luận và thực tiễn cao.

Để nghiên cứu tình hình các tội XPSH mang tính chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tác giả sẽ sử dụng số liệu thống kê các bản án xét xử hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật của TAND thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2014-2018.

Nghiên cứu chi tiết số liệu thống kê trên cơ sở các bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật để làm rõ tình hình các tội XPSH mang tính chiếm đoạt trong giai đoạn nghiên cứu. Mặt khác, việc nghiên cứu tổng số chung được hợp thành một cách chính xác từ những con số của từng vụ án đã được xét xử hàng năm và tập hợp lại của nhiều năm sẽ đưa ra được những khuynh hướng, quy luật nhất định của tình hình các tội XPSH mang tính chiếm đoạt.

Tóm lại, để nghiên cứu tình hình các tội XPSH mang tính chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, hay nói một cách chính xác hơn là nghiên cứu phần hiện của tình hình các tội XPSH mang tính chiếm đoạt, tác giả sử dụng số liệu thống kê xét xử hình sự sơ thẩm giai đoạn từ năm 2014 đến 2018 của TAND thành phố Đà Nẵng.

1.2.1. Mức độ của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng

Có thể hiểu thực trạng tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là số lượng các tội phạm đã được thực hiện và những người thực hiện các tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt đó trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định. “Khi xác định số lượng các tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt đã được thực hiện cần phải tính tổng cộng các số lượng sau: (1) Số lượng các tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt và những người bị Tòa án xét xử và tuyên bản án buộc tội; (2) Số lượng các vụ án hình sự về các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt bị đình chỉ điều tra, truy tố vì không chứng minh được sự tham gia của bị can trong các tội phạm đã thực hiện; (3) Các số liệu về số lượng các tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt không được phát hiện (các tội phạm tiềm ẩn); (4) Hệ số của THTP XPSH có tính chất chiếm đoạt; (5) Mức độ của THTP XPSH có tính chất chiếm đoạt tái phạm” [29, tr.14].

– Mức độ tổng quan: “Được xác định bằng tổng số vụ án và tổng số bị cáo đã được đưa ra xét xử trong một địa bàn (đơn vị hành chính lãnh thổ) nhất định và trong một khoảng thời gian nhất định (thường tính trong một năm)” [29, tr.27].

Cơ số hành vi phạm tội được tính bằng số hành vi phạm tội (số bị cáo) trên 10.000 dân trong một năm. Chỉ số tội phạm được tính bằng tổng số vụ phạm tội trên 10.000 dân trong một năm. “Căn cứ vào các chỉ số, bằng thực tiễn nghiên cứu người ta phân chia thành các mức độ nào là bình thường, mức độ nào là nguy hiểm, đáng báo động. Bằng cách đối chiếu với chỉ số của THTP mà ta nghiên cứu với các mức độ để đánh giá tính chất của THTP tại một đơn vị lãnh thổ, so sánh với chỉ số này của các đơn vị lãnh thổ có điều kiện xã hội tương đương để đánh giá THTP tại nơi nào nghiêm trọng hơn” [29, tr.28].

Để đánh giá mức độ tổng quan tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng một cách chính xác, có thể chia thành mức độ tổng quan tuyệt đối và mức độ tổng quan tương đối. Trong đó, mức độ tổng quan tuyệt đối trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cho biết toàn bộ số người phạm tội XPSH có tính chất chiếm đoạt cùng số tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt do họ thực hiện trong giai đoạn 2014 – 2018 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Số liệu này là cơ sở để phục vụ cho việc nghiên cứu các thông số khác của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt như diễn biến, cơ cấu và tính chất. Mức độ tổng quan tương đối, tức là so sánh ở dạng % (Kết quả này là tỷ lệ tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt (tính theo %) trên địa bàn thành phố Đà Nẵng).

– Mức độ nhóm: Là tổng số vụ phạm tội của nhóm các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trong tổng số vụ án đã xảy ra. Mức độ tội phạm cụ thể là tổng số vụ phạm tội của một tội phạm cụ thể nào đó trong tổng số vụ án về các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra.

1.2.2. Diễn biến (động thái) của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Động thái (diễn biến) của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là sự phản ánh xu hướng tăng, giảm, ổn định tương đối của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt ở địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định (05 năm).

“Để khảo sát được diễn biến của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một chu kỳ nhất định (05 năm), người ta chọn năm thứ nhất của chu kỳ là năm gốc, số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội trong năm đó được tính là 100%. Sau đó ta lấy số liệu về tổng số vụ phạm tội và người phạm tội của các năm tiếp theo đối chiếu với số liệu của năm gốc để tìm ra xu thế tăng hay giảm của các năm tiếp theo (tính theo tỷ lệ %). Qua đó, ta thấy được xu hướng tăng, giảm hay ổn định tương đối của một chu kỳ mà còn giúp cho việc dự đoán có cơ sở về xu hướng vận động của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trong những năm tiếp theo giúp cho việc thiết kế, áp dụng các biện pháp phòng ngừa sát với thực tế” [29, tr.15].

Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu cần lưu ý, diễn biến của THTP nói chung và diễn biến của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt nói riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng bị tác động, làm thay đổi bởi hai loại yếu tố:

Một là, các yếu tố xã hội (thuộc về nguyên nhân điều kiện): Sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế, vấn đề nhập cư ồ ạt, gia tăng dân số nhanh chóng, tỷ lệ thất nghiệp, gia tăng khoảng cách giàu nghèo, mất đất sản xuất, suy thoái của đạo đức, mất ổn định xã hội … Đây còn là điều để minh chứng tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt chịu sự tác động sâu sắc của các quá trình xã hội, hiện tượng xã hội khác. Các yếu tố xã hội thay đổi sẽ tác động lên diễn biến của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt. Điều này rất có ý nghĩa khi tìm nguyên nhân điều kiện của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt ở một địa bàn nào đó tăng lên một cách đột ngột, xác định nguyên nhân cơ bản, chủ yếu nhất để áp dụng biện pháp phòng ngừa.

Hai là, các yếu tố về mặt pháp lý: Cơ sở pháp lý thay đổi, đặc biệt là sự thay đổi về pháp luật hình sự, đó là việc hình sự hóa các quan hệ dân sự hay dân sự hóa các quan hệ hình sự sẽ ảnh hưởng đáng kể đến “đồ thị” diễn biến của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt.

Nghiên cứu sự tác động của hai yếu tố này rất có ý nghĩa trong việc đánh giá được hiệu quả của sự thay đổi chính sách hình sự, đồng thời làm rõ được nguyên nhân điều kiện của sự tác động đến sự thay đổi của diễn biến tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt từ đó đưa ra các giải pháp phòng ngừa tình hình tội phạm này trên địa bàn.

1.2.3 Cơ cấu của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

“Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tỷ trọng và mối tương quan của các loại tội phạm khác nhau trong số lượng chung của chúng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một khoảng thời gian nhất định” [29, tr.18].

Tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu mà ta phân chia thành các cơ cấu THTP khác nhau, luận văn tập trung nghiên cứu những cơ cấu sau:

“Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo một nhóm tội trong một chương của các tội phạm cụ thể của BLHS: Cơ cấu này được tính theo tỷ trọng giữa nhóm tội của một chương (được quy định trong BLHS) đã xảy ra với tổng số các tội phạm đã xảy ra. Nghĩa là nếu coi tổng số các tội phạm đã xảy ra trong một thời gian nhất định trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là 100%, ta phải xác định nhóm tội phạm trong một chương đã xảy ra chiếm bao nhiêu % trong tổng số đó” [49, tr.146].

Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo tội danh cụ thể được quy định trong BLHS: Loại cơ cấu này thường được áp dụng khi nghiên cứu về một nhóm tội nào đó, được tính bằng tỷ trọng giữa tội danh cụ thể đã xảy ra với tổng số tội phạm đã xảy ra của một nhóm tội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong một thời gian nhất định. “Qua việc xác định theo cơ cấu từng tội danh cụ thể để biết được tỷ trọng từng tội trong nhóm tội và làm rõ tội nào là nổi cộm nhất để tập trung tìm ra nguyên nhân điều kiện định hướng phòng ngừa” [49, tr.154].

“Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo hình thức phạm tội: Tội phạm có thể được thực hiện dưới hình thức đơn lẻ, đồng phạm hay tội phạm có tổ chức. Loại cơ cấu này nhằm xác định tỷ lệ phần trăm của từng hình thức phạm tội đó chiếm bao nhiêu trong tổng số tội phạm đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là một loại cơ cấu có ý nghĩa trong việc xác định tính chất của THTP, đặc biệt với chỉ số phần trăm của tội phạm có tổ chức” [49, tr.126].

Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo địa bàn phạm tội: Loại cơ cấu này áp dụng rất phổ biến trong nghiên cứu THTP. Xác định tỉ lệ tội phạm đã xảy ra theo địa bàn hành chính (huyện, xã) đã xảy ra so với tổng số tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó thấy được cơ cấu tội phạm theo địa giới hành chính. Việc xác định cơ cấu này có nhiều ý nghĩa trong việc xác định nguyên nhân điều kiện gắn với địa bàn cụ thể, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp với từng địa bàn.

“Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo đặc điểm về nhân thân của người phạm tội: Đây là một tập hợp của nhiều cơ cấu bởi vì mỗi đặc điểm nhân thân lại được đặc trưng bởi một cơ cấu (ví dụ cơ cấu tội phạm theo độ tuổi, theo giới tính… ), tùy vào mục đích nghiên cứu người ta phân chia nhân thân của người phạm tội theo các đặc điểm có ý nghĩa đối với nghiên cứu tội phạm học. Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân có ý nghĩa to lớn đối với tội phạm học hiện đại, là cơ sở để áp dụng các biện pháp phòng ngừa xã hội, kiểm soát xã hội có hiệu quả trong phòng ngừa tội phạm” [49, tr.128].

“Cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt theo loại hình phạt áp dụng cho người phạm tội: Hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính” [49, tr.157].

Ngoài những loại cơ cấu trên, tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng còn có thể được nghiên cứu theo các dạng cơ cấu, như: Cơ cấu của THTP theo hình thức lỗi; cơ cấu của THTP theo động cơ phạm tội; cơ cấu của THTP theo đặc điểm công cụ, phương tiện phạm tội, thời gian phạm tội; cơ cấu của THTP theo đặc điểm mối quan hệ của nạn nhân với người phạm tội

Như vậy, cơ cấu là cấu trúc bên trong của “hệ thống” tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt, chúng ta không chỉ nghiên cứu về mức độ của các cơ cấu mà còn phải xem xét đến diễn biến của các cơ cấu, tìm ra chiều hướng vận động của nó để nhận thức đầy đủ, đánh giá đúng tính chất của tình hình tội phạm này.

1.2.4. Tính chất của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Tính chất của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thể hiện ở số lượng của tội phạm nguy hiểm nhất cho xã hội, trong cơ cấu của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt cũng như các đặc điểm nhân thân những người thực hiện tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt. Tính chất của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có thể được thể hiện qua một số nội dung cụ thể, như:

“Thứ nhất, tính chất của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là đặc điểm về chất thể hiện ở tính nguy hiểm cho xã hội và xu thế tăng lên. Ví dụ: Tội phạm về cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản có xu hướng ngày càng tăng, thủ đoạn của các đối tượng cũng trở nên manh động, côn đồ hơn nên tính chất của tội phạm ngày càng nguy hiểm hơn” [49, tr.126].

“Thứ hai, tổng số tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt và người thực hiện hành vi phạm tội XPSH có tính chất chiếm đoạt cao so với mức có thể chấp nhận, chiều hướng tăng lên. Ví dụ: Tội phạm trộm cắp tài sản xảy ra liên tục, tăng cả về số vụ và số người thực hiện hành vi phạm tội. So với tổng số tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội trong tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là cao nhưng có thể chấp nhận được do kinh kế – xã hội phát triển” [49, tr.134].

“Thứ ba, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt và ngày càng tăng lên. Ví dụ: Tội phạm cướp tài sản, cướp giật tài sản, trộm cắp tài sản với số lượng tài sản lớn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số tội phạm xảy ra và ngày càng tăng” [49, tr.142].

“Thứ tư, hậu quả thiệt hại về tài sản, thể chất, tinh thần, sự bất ổn của xã hội và xu thế tăng. Ví dụ: Tội phạm cướp tài sản với các vụ đặc biệt nghiêm trọng gây thiệt hại rất lớn về tài sản, tính mạng của nhiều người gây bất ổn trong xã hội và có xu hướng ngày càng tăng” [49, tr.146].

“Thứ năm, số lượng tăng lên của những người có đặc điểm nhân thân nhất định là người phạm tội như: Người chưa thành niên, người có chức vụ, người có trình độ cao cũng phản ánh tính chất nguy hiểm của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt. Ngoài ra tính chất nguy hiểm của cách thức phạm tội, công cụ phạm tội cũng phản ánh tính chất của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt” [49, tr.151].

Tóm lại, muốn đánh giá được tính chất của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng phải qua số liệu và qua phân tích thực trạng, diễn biến, cơ cấu.

1.3. Tình hình tội phạm ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.3.1. Khái niệm tình hình tội phạm ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

“Nghiên cứu về THTP nói chung và tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng không thể không đề cập đến vấn đề tội phạm ẩn (hay phần ẩn của tội phạm). Bởi vì, tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt luôn là một thể thống nhất, được tạo thành bởi hai thành phần, đó là phần ẩn và phần hiện của tội phạm. Vì vậy, để nhận thức về tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt thì vấn đề tội phạm ẩn không thể không được xem xét” [29, tr.28].

Là một bộ phận cấu thành của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt, tội phạm ẩn của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt hay tình hình tội phạm ẩn của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn Đà Nẵng là tất yếu, khách quan. Chúng ta có thể hiểu: Tội phạm ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tổng thể các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhưng chưa được phát hiện, xử lý hình sự và chưa có trong thống kê của cơ quan chức năng.

Như đã phân tích ở trên, tội phạm ẩn của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là một tất yếu, nhưng sự tất yếu này phải ở mức độ cho phép nếu không sẽ dẫn đến việc nhận thức về tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt bị sai lệch. Nếu tỷ lệ tội phạm ẩn của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt chiếm tỷ lệ cao trong tổng số tội phạm đã xảy ra, tổng quan về THTP ẩn của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt được phản ánh qua tội phạm rõ của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là không trung thực, sai lệch về bản chất.

Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề về tội phạm ẩn của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt, chúng ta đưa ra được những dự báo chính xác cũng như đặt ra các giải pháp hữu hiệu trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt nói chung và công tác phòng ngừa tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.

1.3.2. Phân loại phần ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.3.2.1. Tội phạm ẩn chủ quan của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt

Tội phạm ẩn chủ quan nói chung và tội phạm ẩn chủ quan của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng, lý do ẩn xuất phát từ các chủ thể mà pháp luật đã quy định cho nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, kể từ khi phát hiện dấu hiệu của tội phạm hoặc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm cho đến quá trình xét xử vụ án hình sự. “Các chủ thể này là các chủ thể được Nhà nước trao quyền và có trách nhiệm trước Nhà nước trong việc giải quyết vụ án hình sự, mỗi chủ thể có một phạm vi trách nhiệm riêng của mình, trong phạm vi đó khi hành vi phạm tội đã xảy ra và chủ thể đã nắm được mà không xử lý theo đúng quy định của pháp luật hình sự thì hành vi pham tội đó rõ ràng không phải là tội phạm ẩn khách quan mà là tội phạm ẩn chủ quan” [49, tr.172].

Chúng ta có thể hiểu: Tội phạm ẩn chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là toàn bộ các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra trên địa bàn thành phố Đà Nẵng mà thông tin về tội phạm đã được các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án nắm được, song vì các lý do khác nhau, các tội phạm đó không bị phát hiện, xử lý.

1.3.2.2. Tội phạm ẩn khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

“Tội phạm ẩn khách quan của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt là một thuật ngữ chỉ khái niệm có nội dung bao hàm tất cả những tội phạm XPSH có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra trong thực tế, song do các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự không có thông tin về những tội phạm này” [49, tr.156].

Theo quy định của BLTTHS, các cơ quan có quyền khới tố vụ án bao gồm: Cơ quan điều tra các cấp, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, viện kiểm sát nhân dân các cấp, tòa án nhân dân các cấp. Nguyên nhân dẫn đến các cơ quan này không có thông tin về tội phạm gồm nhiều yếu tố khác nhau. Thể hiện ở các phương diện sau: Sự kiện phạm tội, Chủ thể thực hiện hành vi phạm tội, Người bị hành vi tội phạm xâm hại, Người biết về sự việc phạm tội. Cho nên loại tội phạm này không chịu bất kỳ một sự tác động nào từ phía Nhà nước và rõ ràng nó không thể có trong hồ sơ thống kê tội phạm.

Như vậy tội phạm ẩn khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng được hiểu như sau: Tội phạm ẩn khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng là tổng thể các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt đã xảy ra trên thực tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhưng các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án chưa có thông tin về các tội phạm này.

1.3.2.3. Tội phạm ẩn thống kê của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

Theo quan điểm giả việc nghiên cứu tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến năm 2018 và thiết kế các biện pháp phòng ngừa phải dựa trên hệ thống số liệu thống kê đầy đủ, chính xác. Sự ghi nhận về số vụ phạm tội và số người phạm tội không đầy đủ nghĩa là số liệu thống kê được tạo ra không chính xác.

“Tội phạm ẩn thống kê nói chung và tội phạm ẩn thống kê của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng là khái niệm dùng để chỉ tội phạm đã xảy ra trên thực tế và đã được phát hiện, xử lý nhưng vì lý do nào đó (không phải do sai số thống kê) mà việc thống kê không đếm hết được số vụ phạm tội hay số người phạm tội dẫn đến số liệu thống kê không chính xác về tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt. Đây là nguyên nhân dẫn đến các cơ quan khi dựa vào số liệu thống kê để nghiên cứu và thiết kế các biện pháp phòng ngừa chưa đảm bảo độ tin cậy cao” [49, tr.156].

Như vậy, lý do tồn tại tội phạm ẩn thống kê của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt nằm trong phạm vi công tác thống kê tội phạm, điều này nằm ở những quy định có tính chất pháp lý đối với công tác thống kê tội phạm. Có thể nói, tội phạm ẩn thống kê của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có tồn tại hay không phụ thuộc vào khả năng của công tác thống kê ở mỗi quốc gia, mỗi địa phương, có đếm được hết và ghi chép được hết số vụ tội phạm cũng như số người phạm tội đã được cơ quan có thẩm quyền xử lý hay không. Điều đó có nghĩa là, tội phạm ẩn thống kê của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt có thể tồn tại ở một địa phương này hay một địa phương khác, ở giai đoạn này hay một giai đoạn khác (trong cùng một nước) còn số liệu thống kê thì luôn có khả năng đúng.

1.3.3. Nguyên nhân tội phạm ẩn của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

1.3.3.1. Nguyên nhân tội phạm ẩn khách quan của các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt

Nguyên nhân ẩn của loại tội phạm ẩn khách quan nói chung và tội phạm ẩn khách quan của các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng rất đa dạng. Tuy nhiên, trên cơ sở của tình hình chính trị, kinh tế, pháp luật, xã hội cũng như căn cứ vào những nghiên cứu thực tế, phần hiện của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt cho thấy cần phải tìm kiếm và xem xét lý do ẩn của tội phạm ẩn khách quan từ các góc độ: (1) Lý do ẩn bắt nguồn từ chủ thể của hành vi phạm tội; (2) Lý do ẩn xuất phát từ phía người bị hại của hành vi phạm tội; (3) Lý do ẩn xuất phát từ những người khác có biết về tội phạm hoặc có liên quan (nhân chứng, người có quyền lợi, nguyên đơn dân sự).

– Tội phạm ẩn khách quan có lý do từ phía chủ thể của hành vi phạm tội

“Về mặt tâm lý, những người phạm tội nói chung và đặc biệt là những người phạm tội XPSH có tính chất chiếm đoạt thường không mong muốn hành vi phạm tội của mình bị phát hiện, xử lý. Vì thể, trong thực tế của tình hình các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt luôn luôn có xu hướng “tinh vi hóa” hành vi phạm tội, tận dụng mọi khả năng và điều kiện có thể để che giấu tội phạm và tạo ra những cản trở để tránh sự phát giác và bị phát hiện” [49, tr.180].

Theo tác giả, tội phạm do hai chủ thể này thực hiện sẽ có tỷ lệ ẩn cao nhất.

Thứ nhất, tội phạm ẩn khách quan có lý do xuất phát từ loại nhân thân người phạm tội liên tục. Người phạm tội nếu thực hiện hành vi phạm tội lần đầu trót lọt, đặc biệt là những tội phạm thu được lợi ích về kinh tế như người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ làm cho người phạm tội bắt đầu có niềm tin ở thủ đoạn đã áp dụng và tiếp tục thực hành vi phạm tội tiếp theo. “Ngoài ra, việc thực hiện trót lọt đã cũng cố niềm tin cho người phạm tội không bị phát hiện và xử lý nên việc thực hiện tội phạm tiếp theo là gần như chắc chắn. So với việc thực hiện lần đầu thì lần tiếp theo có khả năng sẽ hoàn hảo hơn cả về độ tinh vi về phương thức thủ đoạn lẫn sự nguy hiểm cho xã hội. Thời gian ẩn của các tội phạm về XPSH có tính chất chiếm đoạt càng lớn thì mức độ thiệt hại càng lớn” [49, tr.160].

Thứ hai, tội phạm ẩn khách quan có nguyên nhân từ những người phạm tội có đặc điểm nhân thân là tái phạm. Theo quy định của pháp luật thì tái phạm là việc một người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội. “Những người này có đặc điểm nhân thân tiêu cực và rất thuận lợi cho sự phát sinh tội phạm. Sự tái phạm và tái phạm nguy hiểm chính là chỉ báo rõ nét nhất về một loại hình nhân thân người phạm tội có khuynh hướng chống đối xã hội bền vững” [49, tr.182].

Những người tái phạm thường thực hiện với phương thức thủ đoạn tinh vi hơn, hạn chế đến mức thấp nhất việc để lại dấu vết, khả năng đối phó và cản trở việc phát hiện tội phạm nhiều hơn, nhất là những người phạm tội chuyên nghiệp. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, các đối tượng phạm tội về các tội XPSH có tính chất chiếm đoạt thực hiện hành vi tái phạm ở rất nhiều loại tội phạm khác nhau, nhưng tập trung ở một số nhóm hành vi như: Trộm cắp tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; cướp giật tài sản…

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\TOI PHAM HOC\TRAN PHUOC HIEU

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *