Nghiên cứu hoạt động tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn

Nghiên cứu hoạt động tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn

Nghiên cứu hoạt động tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay, vấn đề việc làm là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ có tác động không nhỏ đến thị trường lao động và việc làm của Việt Nam. Vậy làm thế nào để tận dụng cơ hội, giảm thiểu những tác động tiêu cực từ cách mạng công nghiệp 4.0? Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có ảnh hưởng sâu rộng tới tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội, đặc biệt là lĩnh vực lao động và việc làm chịu tác động rất lớn trên nhiều góc độ khác nhau.

Ở góc độ thị trường, công nghệ sẽ làm thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến nguồn nhân lực phải có sự thay đổi để triển khai phương thức sản xuất đó. Có những công việc mất đi nhưng cũng có những công việc đòi hỏi phải có sự thích ứng để đáp ứng yêu cầu mới. Như vậy, cách mạng 4.0 sẽ làm cho thị trường lao động phải có sự thay đổi về cơ cấu lao động, cơ cấu nguồn lực, cơ cấu về trình độ lao động, có những yêu cầu về kỹ năng lao động khác nhau. Đặc biệt, người lao động phải có sự thích ứng cao hơn để đáp ứng những công việc mới và tránh bị đào thải.

Ngoài ra, cách mạng công nghiệp 4.0 cũng ảnh hưởng đến lĩnh vực đào tạo và đào tạo lại. Với cách mạng công nghiệp 4.0, chúng ta sẽ thay đổi dần phương thức đào tạo truyền thống để sang những phương thức đào tạo linh hoạt, chú trọng đào tạo các kỹ năng, chú trọng đào tạo lại, đào tạo ngắn hạn và gắn bó với văn hóa học tập suốt đời. Việc đào tạo phải dựa vào nền tảng công nghệ để làm sao khi đào tạo lại ứng dụng được nhiều nhất các công nghệ mới vào đổi mới phương thức đào tạo.

Thêm vào đó, cách mạng công nghiệp 4.0 đang là cơ hội vàng cho lĩnh vực khởi nghiệp (start up) quan trọng bởi nhân lực là nguồn lực rất lớn cho phát triển kinh tế xã hội. Việc kết nối, phát triển các nguồn lực đó dựa trên nền tảng công nghiệp 4.0, nền tảng công nghệ kết nối là lĩnh vực mà rất nhiều nhà doanh nghiệp, nhà khởi nghiệp có thể tham gia vào để đưa ra giải pháp kết nối cung cầu lao động, phát triển nguồn nhân lực. Tất cả những điều này cho chúng ta thấy cách mạng 4.0 vừa tạo ra cơ hội vừa tạo ra thách thức nhưng về cơ bản cơ hội nhiều hơn thách thức.

Điện Bàn là một thị xã đồng bằng nằm ở phía Bắc của tỉnh Quảng Nam, gồm 13 xã và 7 phường. Trung tâm thị xã cách thành phố Tam Kỳ 45 km, cách thành phố Đà Nẵng về phía Bắc khoảng 25 km theo quốc lộ 1A, cách đô thị cổ Hội An về phía Đông 10 km. Tổng diện tích tự nhiên của thị xã là 216,32 km2, dân số khoảng 209.711 người, mật độ dân số là 969 người/km2. Ngoài tiềm năng phát triển công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, với vị trí là vùng kinh tế trọng điểm phía bắc tỉnh Quảng Nam, là vùng giao thoa giữa hai đô thị Đà Nẵng và Hội An phát triển rất năng động; trên tuyến hành lang kết nối 2 di sản thế giới được UNESCO công nhận là Đô thị cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn, thị xã Điện Bàn được xác định là một trong 03 thị xã, thành phố trọng điểm của tỉnh Quảng Nam trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2020. Cùng với sự nghiệp phát triển đất nước sau hơn 30 năm đổi mới, thị xã Điện Bàn đã phát huy được vai trò tiền phong là hạt nhân thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao, công nghiệp, dịch vụ phát triển khá mạnh; bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Những năm qua Thị ủy, UBND thị xã Điện Bàn đã tranh thủ sự quan tâm, ủng hộ của Trung ương, của tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn như Khu công nghiệp Điện Nam – Điện Ngọc, các cụm công nghiệp như: Trảng Nhật, Thương Tín, Nam Dương, An Lưu, Cẩm Sơn… và làng nghề đúc đồng Phước Kiều, hợp tác xã tơ tằm Điện Quang,. Tận dụng lợi thế đó không chỉ giúp tập trung phát triển kinh tế theo hướng đa dạng các lĩnh vực, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề dịch vụ; tạo thuận lợi thu hút đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển trên địa bàn, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác triệt để các tiềm năng, thế mạnh của địa phương mà còn giúp tạo việc làm cho lao động địa phương. Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu lao động, mất cân bằng cung – cầu lao động. Vậy vấn đề đặt ra là tạo việc làm cho lao động trên địa bàn thị xã như thế nào cho hiệu quả, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người lao động, đạt được mục tiêu phát triển kinh tế, đời sống xã hội bền vững trong thời kỳ cách mạng 4.0 là một bài toán không dễ giải quyết. Hiện nay, chương trình “Quốc gia khởi nghiệp” được phổ biến rộng rãi với mục đích truyền cảm hứng, động lực mạnh mẽ cho những ai có khát vọng lập thân, lập nghiệp. Rất nhiều trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp được thành lập nhằm tư vấn, hỗ trợ và đồng hành cùng bạn trên con đường biến ý tưởng khởi nghiệp thành hiện thực qua đó người lao động tự tạo việc làm cho bản thân.

Nghiên cứu chuyên sâu các hoạt động tạo việc làm, đề xuất phương hướng và tìm ra những giải pháp hữu hiệu để sử dụng hợp lý nguồn lao động trên địa bàn thị xã đang là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy, tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu hoạt động tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về việc làm và tạo việc làm trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; vận dụng để đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, định hướng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Khái quát những vấn đề cơ bản về lao động, việc làm và thất nghiệp; làm rõ những yếu tố tác động đến tạo việc làm trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, để làm cơ sở cho việc phân tích tình hình tạo việc làm tại thị xã Điện Bàn;

– Phân tích, đánh giá thực trạng tạo việc làm tại thị xã Điện Bàn từ 2015 – 2018, làm rõ những thành công, hạn chế và nguyên nhân hạn chế;

– Đề xuất quan điểm, định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn giai đoạn 2019-2025.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Nghiên cứu vấn đề việc làm và tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn.

– Đề xuất các quan điểm, định hướng và giải pháp tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn thị xã Điện Bàn.

– Phạm vi về thời gian: Luận văn được nghiên cứu thực trạng trong phạm vi thời gian từ năm 2015 đến năm 2018.

– Phạm vi về nội dung: tập trung nghiên cứu hoạt động tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn áp dụng kết hợp cách tiếp cận vĩ mô và vi mô trong lý thuyết kinh tế về lao động, việc làm xem xét đồng thời các yếu tố thuộc về phía cung và cầu lao động và các kỹ thuật kinh tế lượng cũng như phân tích định tính, định lượng. Từ đó kiểm định lý luận về hoạt động tạo việc làm cho người lao động với cơ chế 3 bên gồm có:

– Về phía người lao động:

+ Người lao động tự tìm việc làm (tự đi xin việc làm)

+ Người lao động tự tạo việc làm (khởi nghiệp)

– Về phía người sử dụng lao động (doanh nghiệp)

– Về phía nhà nước

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng một số phương pháp sau:

– Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: thu thập số liệu thứ cấp từ các báo cáo kết quả, các cuộc tổng điều tra về xuất khẩu lao động, chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm (đề án 1956), cuộc điều tra về lao động việc làm, đào tạo nghề cho lao động, tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn thị xã từ năm 2015 đến năm 2018.

– Phương pháp phân tích thống kê số liệu: Dựa trên số liệu thứ cấp được thu thập, bảng hỏi, tác giả lập các bảng biểu sơ đồ, đưa ra nhận xét một cách tổng thể đối với số liệu được thu thập, trích dẫn các nguồn tham khảo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Phân tích, đánh giá thực trạng tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn từ năm 2015 đến nay.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi, phù hợp với giai đoạn 2019-2025 nhằm từng bước tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương.

Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động tạo việc làm cho người lao động.

Chương 2: Thực trạng tạo việc làm cho người lao động ở thị xã Điện Bàn.

Chương 3: Đề xuất quan điểm, định hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn giai đoạn 2019-2025.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TẠO VIỆC LÀM CHO

NGƯỜI LAO ĐỘNG

1.1. Một số khái niệm cơ bản

1.1.1. Việc làm, tạo việc làm

1.1.1.1. Việc làm

Đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra khái niệm việc làm theo các khía cạnh khác nhau:

* Theo Điều 9, chương II (Việc làm) của Bộ Luật lao động nước CHXHCNVN (Luật số 10/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012) quy định: ” Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm”. [4, tr.4]

Theo khái niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn 2 điều kiện:

Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Điều này chỉ rõ tính hữu ích và nhấn mạnh tiêu thức tạo ra thu nhập của việc làm.

Thứ hai, hoạt động đó không bị pháp luật ngăn cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.

Hai tiêu thức đó có quan hệ chặt chẽ với nhau và là điều kiện cần và đủ để một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động lao động tạo ra thu nhập nhưng vi phạm pháp luật như trộm cắp, buôn bán ma tuý… thì không được thừa nhận là việc làm. Mặt khác một hoạt động dù là hợp pháp và có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm.

Hạn chế của khái niệm trên:

Thứ nhất, tính hợp pháp của một hoạt động lao động được thừa nhận là việc làm tuỳ thuộc vào luật pháp của mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ.

Thứ hai, không phải mọi hoạt động có ích và cần thiết cho gia đình và xã hội đều tạo ra thu nhập mặc dù nó góp phần giảm chi tiêu cho gia đình thay vì thuê người làm công.

* Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì khái niệm việc làm chỉ đề cập đến trong mối quan hệ với lực lượng lao động. Vì vậy, “việc làm được coi là hoạt động có ích mà không bị pháp luật ngăn cấm có thu nhập bằng tiền (hoặc bằng hịên vật)”.

*Theo giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực của Khoa Kinh tế & Quản lý nguồn nhân lực – Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, khái niệm việc làm được hiểu là:“Việc làm là trạng thái phù hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động, để tạo ra hàng hóa theo yêu cầu của thị trường”. [5]

Như vậy theo khái niệm này có thể hiểu việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Theo quan điểm này việc làm có các đặc trưng sau:

Một là, việc làm là sự biểu hiện quan hệ của 2 yếu tố sức lao động (V) và tư liệu sản xuất (C).

Hai là, mang lại lợi ích (vật chất và tinh thần) cho xã hội.

Ba là, việc làm đó là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện mà họ sử dụng để thực hiện hoạt động. Sự phù hợp được thể hiện ở cả hai mặt số lượng và chất lượng. Trạng thái phù hợp này có thể được biểu hiện bằng mối quan hệ tỷ lệ của hai yếu tố này theo phương trình:

Việc làm = C/V

Trong đó: C: Đơn vị tư liệu sản xuất; V: Đơn vị lao động.

Như vậy, chỉ khi ở đâu có sự phù hợp của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất (hoặc phương tiện sản xuất) thì ở đó có việc làm. Từ mối quan hệ này cho thấy tỷ lệ một đơn vị sức lao động có thể vận hành bao nhiêu đơn vị tư liệu sản xuất (thường biểu hiện ở chỉ tiêu suất đầu tư cho một chỗ làm việc). Tỷ lệ này phụ thuộc vào từng ngành nghề, từng nơi làm việc.

1.1.1.2. Tạo việc làm

Theo PGS.TS Trần Xuân Cầu (2013), giáo trình kinh tế nguồn nhân lực, Nhà Xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân: “Tạo việc làm là quá trình tạo điều kiện kinh tế xã hội cần thiết để người lao động có thể kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, nhằm tiến hành quá trình lao động, tạo ra hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu thị trường”. “Tạo việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời phải đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước”. “Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hóa và dịch vụ theo yêu cầu của thị trường”[5, tr.377] Có thể hiểu tạo việc làm là tổng hợp những hoạt động cần thiết để tạo ra những chỗ làm việc mới, giúp người lao động chưa có việc làm có được việc làm; tạo thêm việc làm cho những người lao động đang thiếu việc làm và giúp người lao động tự tạo việc làm.

Cơ chế tạo việc làm là cơ chế ba bên gồm có:

– Về phía người lao động:

+ Người lao động muốn tìm việc làm phù hợp có thu nhập cao thì phải có kế hoạch thực hiện và đầu tư phát triển sức lao động, phải tự mình hoặc dựa vào các nguồn tài trợ từ gia đình, từ các tổ chức xã hội…..để tham gia đào tạo, phát triển, nắm vững một nghề nghiệp nhất định.

+ Người lao động tự tạo việc làm (start up – khởi nghiệp): là một tổ chức của con người được thiết kế nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc chắn nhất. Khởi nghiệp cũng có nghĩa là tạo ra giá trị có lợi cho người cho xã hội hoặc nhóm khởi nghiệp, cho các cổ đông của công ty, cho người lao động, cho cộng đồng và nhà nước. Khởi nghiệp bằng việc thành lập doanh nghiệp sẽ tạo tăng trưởng kinh tế và dưới một góc độ nào đó sẽ tham gia vào việc phát triển kinh tế và xã hội. Hoặc có một định nghĩa khác: Khởi nghiệp – Startup là người lao động có ý định tự mình có một công việc kinh doanh riêng, bạn muốn tự mình làm và quản lý tự kiếm thu nhập cho mình. Bạn cung cấp và phát triển một sản phẩm hay dịch vụ nào đó, mua bán lại một sản phẩm hay cửa hàng đang hoạt động hoặc hoạt động sinh lợi nào đó. [21]

– Về phía người sử dụng lao động: Người sử dụng lao động bao gồm các doanh nghiệp trong nước thuộc các thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức kinh tế xã hội cần có thông tin về thị trường đầu vào và đầu ra, cần có vốn để mua nhà xưởng, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu, sức lao động để sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ. Ngoài ra người sử dụng lao động cần có kinh nghiệp, sự quản lý khoa học và nghệ thuật, sự hiểu biết về các chính sách của nhà nước nhằm vận dụng linh hoạt, mở rộng sản xuất, nâng cao sự thỏa mãn của người lao động, khơi dậy động lực làm việc, không chỉ tạo ra chỗ làm việc mà còn duy trì và phát triển chỗ làm việc.

– Về phía Nhà nước: Ban hành các luật, cơ chế chính sách liên quan trực tiếp đến người lao động và người sử dụng lao động, tạo ra môi trường pháp lý kết hợp lao động với tư liệu sản xuất. Nhà nước tạo việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm.

1.1.2. Thất nghiệp, thiếu việc làm

1.1.2.1. Thất nghiệp

Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công thịnh hành” [14, tr.400]. Như vậy người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu tìm việc làm và có đăng ký tìm việc theo quy định. Thất nghiệp là một khái niệm vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội, nó mang nghĩa ngược với có việc làm. Nói đến thất nghiệp là nói đến sự khó khăn cho việc hoạch định chính sách của các quốc gia. Tuy nhiên trên thực tế tỷ lệ thất nghiệp ở mức hợp lý là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế. Vì vậy cần phải giữ mức tỷ lệ thất nghiệp sao cho hợp lý với trình độ phát triển kinh tế xã hội của quốc gia.

1.1.2.2. Thiếu việc làm

“Thiếu việc làm hay còn gọi là bán thất nghiệp hoặc thất nghiệp trá hình là những người làm việc ít hơn mức mà mình mong”. Thiếu việc làm là việc làm không tạo điều kiện, không đòi hỏi người lao động sử dụng hết thời gian lao động làm việc theo chế độ và mang lại thu nhập dưới mức tối thiểu. Người thiếu việc làm là người trong tuần lễ điều tra có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.

Người thiếu việc làm

Theo hướng dẫn điều tra lao động việc làm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì: người thiếu việc làm gồm những người trong tuần lễ điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn giờ quy định và có nhu cầu làm thêm giờ (trừ những người có số giờ làm việc dưới 8 giờ, có nhu cầu làm việc mà không có việc làm).

Người thất nghiệp

Theo tài liệu hướng dẫn điều tra lao động – việc làm của Bộ LĐ – TB & XH hàng năm thì khái niệm người thất nghiệp được hiểu như sau: Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế, mà trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu được làm việc.

Trong luận văn này, tác giả đồng tình với khái niệm “Việc làm là phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó”. Trên cơ sở này sẽ phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm và các mô hình tạo việc làm.

1.2. Sự cần thiết tạo việc làm cho người lao động

1.2.1. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động

Tạo việc làm cho người lao động là cần thiết nhằm giải quyết thất nghiệp. Trong quá trình phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là tất yếu. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ kéo theo chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì vậy, có nghề mới, hoạt động sản xuất mới ra đời, trong khi một số nghề cũ, hoạt động sản xuất cũ bị mất đi, thất nghiệp phát sinh. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ tạo ra những tác động rất lớn đến thị trường lao động [22]:

Thứ nhất, tác động đến số lượng, chất lượng việc làm thông qua sự thay thế sức lao động bằng máy móc, rô-bốt, trí tuệ nhân tạo và ứng dụng công nghệ thông tin đối với một số ngành, nghề đang diễn ra nhanh chóng thâm nhập nơi làm việc trên thị trường lao động Việt Nam. Điều này cũng sẽ làm thay đổi bản chất của việc làm, sẽ làm một số công việc biến mất nhưng đồng thời sẽ tạo ra nhiều công việc mới.

Thứ hai, tác động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Thứ ba, với nền tảng công nghệ số, tích hợp tất cả các thông tin về công nghệ, quy trình, phương thức sản xuất, nhu cầu về ngành, nghề, kỹ năng… và nhất là khả năng kết nối, chia sẻ trên toàn thế giới thông qua các thiết bị công nghệ… sẽ làm thay đổi cách thức kết nối giữa cung và cầu trên thị trường lao động.

Thứ tư, tác động lớn đến công tác phân tích, dự báo thông tin thị trường lao động.

Thứ năm, các nước trong khu vực đã có những chiến lược, chính sách, kế hoạch hành động trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Nếu Việt Nam không có những bước đi chính xác, cụ thể thì nguy cơ bị tụt hậu là điều rất dễ xảy ra.

Vì vậy tạo việc làm cho người lao động là biện pháp trung tâm của mọi quốc gia, nó cho phép không chỉ giải quyết các vấn đề kinh tế mà cả các vấn đề xã hội. Có việc làm sẽ xoá đói giảm nghèo, góp phần làm ổn định chính trị, an ninh, giảm tệ nạn xã hội.

1.2.2. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn

Tạo việc làm cho người lao động là đáp ứng quyền lợi của người lao động, quyền có việc làm và nghĩa vụ phải làm việc của người trong tuổi lao động, có khả năng lao động như Hiến pháp nước CHXHCNVN đã ghi nhận. Có việc làm đồng nghĩa với có thu nhập, nâng cao vị thế của từng người lao động trong gia đình và ngoài xã hội góp phần vào sự phát triển chung của thị xã Điện Bàn cũng như xây dựng thành công Chính phủ kiến tạo như lời của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.

Tạo việc làm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, hạn chế các tiêu cực xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo và bình ổn xã hội. Nếu không có việc làm sẽ không có thu nhập và không có điều kiện thoả mãn các nhu cầu chính đáng về vật chất và tinh thần của người lao động.

Thị xã Điện Bàn có một vị trí địa lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững, được xác định là trung tâm các huyện, thị xã, thành phố phía Bắc của tỉnh Quảng Nam. Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm qua Điện Bàn đã đạt được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế xã hội và giải quyết việc làm, hàng năm giải quyết được một số lượng lớn việc làm. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp của Điện Bàn vẫn ở mức cao, giải quyết lao động dôi dư đã trở lên bức xúc. Bên cạnh đó, số lượng thanh niên bước vào tuổi lao động ngày càng lớn. Tình trạng thất nghiệp trong khu vực đô thị và thiếu việc làm của lao động nông thôn còn rất lớn, cao hơn mức của lao động xã hội. Chất lượng lao động còn thấp, định hướng nghề nghiệp của người lao động chưa phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động, không ít người sa vào các tệ nạn xã hội. Việc làm cho lao động xã hội luôn là vấn đề xã hội bức xúc, gay gắt nhất của thị xã Điện Bàn hiện nay và trong các năm tới. Tất cả những vấn đề trên đang gây sức ép tạo việc làm cho người lao động.

Do đó, việc nghiên cứu hoạt động tạo việc làm cho người lao động tại thị xã Điện Bàn nhằm phát huy tiềm năng nguồn lực lao động sẵn có của địa phương, tạo ra sự ổn định về đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, đồng thời góp phần giữ vững ổn định an ninh, trật tự trên địa bàn thị xã…là rất cần thiết. Từ đó sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội của thị xã Điện Bàn.

1.3. Nội dung tạo việc làm

1.3.1. Tạo việc làm thông qua phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể (DNVVN, HKDCT)

Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại – dịch vụ phát triển. Sự phát triển DNVVN, HKDCT cũng góp phần làm tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Các DN VVN, HKDCT còn góp phần đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp. Ở Việt Nam hiện nay, phát triển DNVVN, HKDCT đang là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì sự thành đạt của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì doanh nhiệp quy mô vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nước ta là nước đang phát triển, chúng ta đang cần nhiều vốn để đầu tư, nhà nước chỉ có khả năng dùng ngân sách để đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chính. Các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh cá thể chính là cách huy động thêm các nguồn vốn đầu tư của nhân dân để phát triển kinh tế. Nước ta lại đang rất thừa lao động mà DNVVN, HKDCT lại rất có ưu thế trong việc tạo việc làm vì: vốn đầu tư cho mỗi chỗ làm thấp hơn, tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp lớn, tổng vốn đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao, có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động, yêu cầu về tay nghề trình độ lao động không cao, dễ dàng áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.

Do đó, phát triển DNVVN, HKDCT là rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Đầu tư phát triển DNVVN, HKDCT chính là cách để thực hiện tạo động lực cho phát triển kinh tế, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp, dịch vụ có quy mô vừa và nhỏ, tự khởi nghiệp kinh doanh được phát triển ở địa phương, tránh gây sức ép về lao động, việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di cư vào các thành phố và trung tâm tạo nên. Phát triển DNVVN, HKDCT tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế, trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế. Các DNVVN, HKDCT có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất, thích ứng nhanh với tình hình, đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh.

Các DNVVN, HKDCT có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước, Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý trung ương, thì hiện nay DNVVN, HKDCT chiếm khoảng 45%-50% GDP. Tác động lớn nhất của DNVVN, HKDCT là giải quyết một số lượng lớn việc làm cho người lao động, làm tăng thu nhập cho người lao động. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực DNVVN, HKDCT lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam cũng theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung Ương, thì số lao động của các DNVVN, HKDCT trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người, chiếm tới 72,9% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước.

– Vào tháng 3 vừa qua, Chính phủ ban hành Nghị định số 38/2018/NĐ-CP quy định chi tiết về đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo. Đây là một bước nữa trong tiến trình thực thi chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (trong bài này gọi đơn giản là doanh nghiệp startup) từ phía Nhà nước, nó phù hợp với mô hình chính phủ kiến tạo mà Việt Nam hướng tới.

1.3.2. Tạo việc làm thông qua phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm công bằng xã hội. Muốn phát triển kinh tế trước hết phải có sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng không phải sự tăng trưởng kinh tế nào cũng dẫn tới phát triển kinh tế.

Tăng trưởng kinh tế thường tạo việc làm cho người dân nhưng mức độ còn phụ thuộc vào mối quan hệ vốn, lao động và công nghệ. Thời gian vừa qua, đóng góp của các yếu tố vốn và lao động vào tăng trưởng khá cao. Trong điều kiện trình độ khoa học, công nghệ còn thấp, tăng trưởng dựa vào vốn và lao động hay tăng trưởng theo chiều rộng là phù hợp và tạo được nhiều việc làm. Đối với các quốc gia có trình độ công nghệ, đầu tư như Việt Nam, tăng trưởng kinh tế là nhân tố đặc biệt quan trọng đối với vấn đề tạo việc làm. Sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu kinh tế, mà cơ cấu kinh tế của nước ta đang chuyển dịch tích cực, theo hướng hội nhập kinh tế thế giới. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong GDP giảm xuống, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Đồng thời dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Dịch chuyển cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động tạo ra một số điều kiện tốt cho việc làm của lao động qua đào tạo nghề.

Hơn nữa, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hòa mình cùng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Quá trình này vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với nền kinh tế. Đặc biệt là sự cạnh tranh trên thị trường lao động, nguồn cung lao động rất dồi dào nhưng trình độ lao động của nước ta thấp, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động dẫn tới tình trạng lao động nước ta dư thừa mà lại phải nhập khẩu lao động quốc tế. Phát triển kinh tế nhằm tạo việc làm cho người lao động ở địa phương cấp thị xã thông qua các hình thức chủ yếu như:

* Về phát triển công nghiệp: Để tạo ra nhiều việc làm trong ngành công nghiệp cần phát triển các khu công nghiệp, cụm công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, khu vực kinh tế, đầu tư phát triển các đô thị nhằm tạo việc làm cho người lao động. Đây là khu vực thu hút và giải quyết việc làm chủ yếu cho người lao động địa phương. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách nhằm thu hút vồn đầu tư , thu hút các dự án, mở rộng sản xuất kinh doanh, hoặc trong việc thành lập các doanh nghiệp của mọi tổ chức và cá nhân theo đúng quy định của pháp luật. Hơn nữa, muốn phát triển công nghiệp thì việc cần khuyến khích các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về địa bàn nông thôn; chuyển một số ngành công nghiệp từ hình thức gia công sang sản xuất thành phẩm, xuất khẩu trực tiếp, nhằm gia tăng giá trị và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp chủ lực, có lợi thế so sánh, nhất là các ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm; điện, điện tử; cơ khí, hóa chất; dệt, giày da, may mặc; sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ. Cần quan tâm thu hút các dự án đầu tư thuộc các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp sạch. Đồng thời, phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ gắn kết với các ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp có lợi thế so sánh của thị xã.

* Về phát triển dịch vụ: Khi kinh tế càng phát triển thì vai trò của ngành dịch vụ ngày càng quan trọng. Dịch vụ được xem là một lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế bao hàm tất cả những hoạt động phục vụ sản xuất và đời sống dân cư. Hoạt động dịch vụ bao hàm cả hoạt động thương mại.

Phát triển ngành dịch vụ tác động làm tăng số lượng việc làm, đa dạng hóa các ngành dịch vụ thu hút phần lớn lao động dôi dư của khu vực nông nghiệp và khu vực công nghiệp và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đồng thời chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm thiểu tình trạng thất nghiệp. Bên cạnh đó, khu vực dịch vụ giải quyết rất nhiều việc làm cho lao động dôi dư phát sinh từ quá trình tái cơ cấu các doanh nghiệp công nghiệp trong nền kinh tế, phát triển ngành dịch vụ cũng góp phần làm tăng chất lượng việc làm, điều này được thể hiện qua thu nhập của người lao động từ việc làm đó cũng như trình độ năng lực của đội ngũ lao động. Hơn nữa, thị xã Điện Bàn có tiềm năng về du lịch thì việc đầu tư phát triển du lịch, khai thác tiềm năng du lịch sinh thái nghỉ dưỡng, du lịch làng nghề trên địa bàn thị xã cũng góp phần phát triển ngành dịch vụ, tạo việc làm cho cả lao động chưa qua đào tạo và lao động đã qua đào tạo. Gắn phát triển du lịch với phát triển làng nghề. Đây cũng là khu vực tiềm năng về tạo việc làm. Đồng thời phát triển hệ thống dịch vụ thương mại, xây dựng hệ thống chợ nhằm tạo việc làm cho người lao động.

* Về phát triển nông – lâm – ngư nghiệp: Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng, nó tạo nên sự ổn định, đảm bảo an toàn cho phát triển của nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Đồng thời, nông nghiệp cũng là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp; nguyên liệu từ nông nghiệp là đầu vào quan trọng cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Nông nghiệp giúp phát triển thị trường nội địa, việc tiêu dùng của người nông dân và mạng dân cư nông thôn đối với hàng hóa công nghiệp, hàng hóa tiêu dùng (vải, đồ gỗ, dụng cụ gia đình, vật liệu xây dựng), hàng hóa tư liệu sản xuất (phân bón, thuốc trừ sâu, nông cụ, trang thiết bị, máy móc) là tiêu biểu cho sự đóng góp về mặt thị trường của ngành nông nghiệp đối với quá trình phát triển kinh tế. Xu hướng nông nghiệp ngày càng chiếm tỷ trọng nhỏ hơn trong nền kinh tế, lực lượng lao động nông nghiệp cũng giảm dần và dịch chuyển sang các ngành kinh tế khác, đất đai trong nông nghiệp cũng ngày càng thu hẹp. Ngành nông nghiệp không chỉ là nhân tố mà còn là điều kiện thúc đẩy, phát triển các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác.

Phát triển ngành nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp công nghệ cao có nghĩa là rút việc làm đi, giảm trồng trọt theo lối truyền thống, tăng tỷ trọng chăn nuôi, hướng tới nền kinh tế phát triển theo hướng công nghiệp công nghệ cao chỉ còn khoảng 10% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp. Hơn nữa, sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong ngành nông nghiệp, lao động nông thôn chuyển dịch sang làm việc trong ngành công nghiệp, dịch vụ, có cơ hội tăng thu nhập, ổn định đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 muốn phát triển nông nghiệp công nghệ cao để tạo ra các chỗ việc làm tốt hơn cho người lao động cần phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh, hiệu quả, ứng dụng công nghệ và tính bền vững của nền nông nghiệp; Phát triển sản xuất nông nghiệp phải gắn kết chặt chẽ sản xuất với công nghiệp bảo quản, chế biến và thị trường tiêu thụ; tích tụ ruộng đất, hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung. Trên cơ sở đổi mới tư duy, tiếp cận thị trường, kết hợp ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ, sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên đất, nước, nhân lực được đào tạo, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái để khai thác có hiệu quả lợi thế và điều kiện tự nhiên của mỗi vùng, mỗi địa phương để phát triển ngành nông nghiệp.

* Về phát triển làng nghề truyền thống:

– Tiểu thủ công nghiệp: Làng nghề truyền thống là những thôn, làng có một hay nhiều nghề thủ công truyền thống được tách ra khỏi nông nghiệp để sản xuất kinh doanh và đem lại nguồn thu chủ yếu trong năm. Các sản phẩm làm ra của các làng nghề có tính mỹ nghệ và đã trở thành hàng hoá trên thị trường. Phát triển các làng nghề, tiểu thủ công nghiệp là một yếu tố rất quan trọng bởi không những góp phần giải quyết việc làm cho người lao động mà còn đáp ứng được yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế – xã hội, tạo việc làm nâng cao đời sống cho một bộ phận dân cư. Điều có ý nghĩa quan trọng hơn là làng nghề tận dụng được các loại hình lao động mà các khu vực kinh tế khác không nhận. Nó khắc phục được tình trạng thất nghiệp tạm thời của người dân trong thời gian nông nhàn như nghề đúc đồng, nghề mộc, tơ tằm…Một khi làng nghề truyền thống ở địa phương phát triển mạnh, nó sẽ tạo ra một đội ngũ lao động có tay nghề cao và lớp nghệ nhân mới. Thông qua lực lượng này để tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 áp dụng vào sản xuất, làm cho sản phẩm có chất lượng cao, giá thành giảm, khả năng cạnh tranh trên thị trường lớn.

1.3.3. Tạo việc làm thông qua xuất khẩu lao động (XKLĐ)

Tạo việc làm thông qua XKLĐ là việc các cơ quan Nhà nước (bao gồm các cơ quan quản lý và các tổ chức chính trị, xã hội,…có chức năng liên quan đến XKLĐ) và các doanh nghiệp XKLĐ bằng các việc làm của mình tìm kiếm, khai thác, thu hút, tổ chức các hoạt động, tạo ra cơ chế và chính sách,…đặt người lao động (chủ thể cần tìm việc) vào các chỗ làm việc trống được đặt ở nước ngoài, tại các thị trường khác nhau với đòi hỏi về yêu cầu của người lao động khác nhau, yêu cầu về ngành nghề khác nhau, có điều kiện làm việc, mức thu nhập, chế độ đãi ngộ khác nhau. Tham gia vào quá trình này gồm 2 bên: Bên nhập khẩu lao động và bên XKLĐ. Theo quy định tại điều 6 của Luật số 72/2006/QH11 ngày 29/11/2006 quy định về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng thì người lao động có thể đi XKLĐ theo 4 hình thức cụ thể như sau:

* Thông qua doanh nghiệp hoạt động dịch vụ, tổ chức sự nghiệp được phép hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài. Đây là hình thức phổ biến nhất được nhiều người lao động lựa chọn, hiện nay và trong thời gian tới người lao động đi XKLĐ theo hình thức này là chủ yếu. Tuy nhiên, XKLĐ theo hình thức này có nhược điểm: Chi phí xuất khẩu lớn, nhiều doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận, lợi dụng các hình thức tuyển dụng, đào tạo để kiếm lời bất hợp pháp, hình thức này là điều kiện để phát sinh các hành vi trung gian, môi giới, thiếu trách nhiệm với người lao động, gây thiệt hại cho người lao động và gánh nặng quản lý cho nhà nước. Ở nước ta hiện nay thông qua các Sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phố là các tổ chức sự nghiệp trực tiếp thực hiện việc XKLĐ. Tổ chức sự nghiệp tham gia XKLĐ là để thực hiện các thỏa thuận hoặc Điều ước quốc tế ký kết với phía nước tiếp nhận lao động về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là hình thức mới, tổ chức sự nghiệp trực tiếp thực hiện việc tuyển chọn và đưa người lao động đi XKLĐ theo thỏa thuận đã ký.

* Thông qua doanh nghiệp nhận thầu, tổ chức, cá nhân đầu tư ở nước ngoài. Đây là hình thức mà các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân Việt Nam trúng thầu ở nước ngoài, đưa người lao động của doanh nghiệp mình đi làm việc ở các công trình trúng thầu ở nước ngoài hoặc các tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài, đưa người lao động Việt Nam sang làm việc tại các cơ sở sản xuất kinh doanh do tổ chức, cá nhân này đầu tư thành lập ở nước ngoài.

* Thông qua doanh nghiệp XKLĐ theo hình thức thực tập, nâng cao tay nghề

Đây là hình thức XKLĐ mới được đưa vào điều chỉnh trong Luật, hình thức này xuất hiện tương đối nhiều trong những năm qua tại các doanh nghiệp, nhất là ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp XKLĐ theo hình thức này phải có hợp đồng với cơ sở thực tập ở nước ngoài để đưa người lao động đi làm việc theo hình thực tập, nâng cao tay nghề, có hợp đồng đưa người lao động đi thực tập. Với hình thức này thì người lao động không mất các khoản chi phí xuất khẩu, có điều kiện thuận lợi trong việc học tập, nâng cao tay nghề tại cơ sở thực tập ở nước ngoài.

* Người lao động tự đi theo hình thức hợp đồng cá nhân: Đây là hình thức người lao động chủ yếu đi thông qua các mối quan hệ họ hàng giới thiệu, được bảo lãnh hoặc chủ sử dụng lao động cũ tuyển dụng lại lần thứ hai, số lượng đi không nhiều. Hình thức này được Nhà nước khuyến khích do mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho người lao động, không mất các khoản chi phí xuất khẩu, gia tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của người lao động. Nhưng quyền lợi của người lao động khó được đảm bảo nếu người lao động thiếu trách nhiệm khi tham gia XKLĐ.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\QUAN TRI KINH DOANH\LE VAN MINH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *