Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố

Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Con người là nguồn lực quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần luôn là một vấn đề được tất cả các quốc gia quan tâm và xem trọng. Có lẽ vì vậy mà giáo dục và y tế với vai trò của mình đã trở thành quốc sách hàng đầu trong việc phát triển nguồn lực con người ở các quốc gia. Trong lĩnh vực y tế, ban đầu, vấn đề chăm sóc sức khỏe, nhu cầu chia sẻ rủi ro khi bệnh tật là nhu cầu tự phát. Dần dần, nhu cầu này nhận được sự điều tiết và hỗ trợ từ Nhà nước. Qua thời gian phát triển, vấn đề chăm sóc sức khỏe trở thành một vấn đề mang ý nghĩa cộng đồng sâu sắc, một chính sách lớn và quan trọng của Nhà nước. Ngày này, chính sách chăm sóc sức khỏe cộng đồng được hầu hết các quốc gia trên thế giới thực hiện và ghi nhận chủ yếu dưới hình thức bảo hiểm y tế.

Với nỗ lực đổi mới toàn diện, những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có việc đảm bảo tốt hơn vấn đề ASXH. Trên cơ sở đổi mới toàn diện, chính sách BHYT ra đời đã đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân, đặc biệt là từ khi Luật BHYT số 25/2008/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực từ ngày 01/7/2009 và được triển khai trên phạm vi toàn quốc từ ngày 01/01/2010.

Luật BHYT được ban hành đã đánh dấu một bước quan trọng trong hệ thống pháp luật về BHYT, là cơ sở pháp lý cao nhất để thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước trong việc thực hiện chăm sóc sức khỏe cho người dân theo định hướng công bằng và hiệu quả.

Sau một thời gian triển khai thực hiện Luật BHYT, bên cạnh những thành quả đã đạt được vẫn còn tồn tại một số khó khăn, vướng mắc, một số vấn đề mới cũng nảy sinh trong thực tiễn triển khai. Một số quy định trong Luật và các văn bản dưới luật còn thiếu cụ thể, thiếu đồng bộ với một số luật có liên quan; một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn, gây ra những khó khăn, vướng mắc trong công tác quản lý nhà nước cũng như việc chấp hành, thực thi pháp luật về BHYT.

Nhận thức được vai trò của chính sách pháp luật BHYT đối với xã hội và thấy được những tồn tại, vướng mắc của Luật BHYT sau một thời gian thực hiện, học viên quyết định chọn đề tài: “Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” để thực hiện luận văn tốt nghiệp thạc sĩ của mình. Mặc dù hiện nay, chính sách pháp luật BHYT Việt Nam đang hướng tới mô hình BHYT toàn dân với mục tiêu từ 01/01/2014 sẽ không còn tồn tại hình thức BHYTTN nữa. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu về BHYT của Việt Nam cũng như một số nước trên thế giới, học viên nhận thấy hình thức BHYT này nếu được thay đổi và hoàn thiện sẽ vẫn có nhiều ưu điểm và lợi ích đối với cộng đồng. Do đó học viên đã lựa chọn đề tài luận văn của mình với mong muốn tìm ra những hạn chế, vướng mắc trong quá trình triển khai hình thức BHYTTN trong thực tiễn để đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện mô hình BHYT ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về BHYT và thực trạng pháp luật BHYTTN. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng nói riêng và ở nước ta nói chung.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:

Một là, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về BHYT và BHYTTN như: khái niệm BHYT và BHYTTN, đặc trưng của BHYTTN, ý nghĩa của BHYTTN; khái niệm pháp luật BHYTTN, nguyên tắc điều chỉnh, nội dung của pháp luật BHYTTN, vai trò của pháp luật BHYTTN.

Hai là, đánh giá thực trạng pháp luật về BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng như: đối tượng tham gia BHYTTN, phạm vi hưởng BHYTTN, Quỹ BHYTTN, trách nhiệm và quyền hạn khi tham gia BHYTTN. Từ đó, rút ra những hạn chế, thành công của BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng những năm qua (2013 – 2017) và phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.

Ba là, trên cơ sở thực trạng pháp luật, xác định các yêu cầu và phương hướng nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận, pháp lý và cơ chế tổ chức, thực hiện BHYTTN ở nước ta qua thực tiễn thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về mặt nội dung, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và cơ chế tổ chức, thực hiện BHYTTN, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề khác của BHYT nói chung.

Về mặt không gian: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện BHYTTN ở thành phố Đà nẵng, không mở rộng đến các địa phương khác.

Về mặt thời gian: Đề tài chỉ tập trung khảo sát thực trạng thực hiện BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng trong khoảng 5 năm trở lại đây (2013 – 2017).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Luận văn vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, để phân tích những vấn đề lý luận về BHYT.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Cụ thể:

Các phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình nghiên cứu hiện có và các tài liệu khác để làm sáng tổ các vấn đề lý luận và khuôn khổ pháp luật hiện hành của nước ta về BHYTTN (ở Chương I).

Các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh các tài liệu, báo cáo chuyên môn của chính quyền địa phương và phương pháp quan sát thực tế để đánh giá thực trạng BHYTTN ở Đà Nẵng trong 5 năm gần đây (ở Chương II)

Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm đổi mới tổ chức, nâng cao hiệu quả thực hiện BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng nói riêng và ở nước ta nói chung trong thời gian tới (ở Chương III).

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Về phương diện khoa học, luận văn đã có những đóng góp mới sau đây:

Thứ nhất, luận văn đã trình bày khoa học và có hệ thống những vấn đề lý luận về BHYT, BHYTTN và pháp luật BHYTTN. Trong đó, luận văn đã trình bày rõ ràng khái niệm, đặc trưng của BHYT từ nhiều góc độ quan niệm của các tổ chức trên thế giới như: khái niệm BHYT theo Tổ chức lao động thế giới (ILO), Tổ chức y tế thế giới (WHO), Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế (OECD), Cơ quan phát triển quốc tế Anh. Từ đó, luận văn đưa ra khái niệm về BHYTTN.

Đồng thời, luận văn giới thiệu tổng quan về pháp luật BHYT bao gồm khái niệm, nguyên tắc điều chỉnh, nội dung, vai trò của pháp luật về BHYTTN.

Thứ hai, luận văn là làm rõ thực trạng pháp luật về BHYTTN ở Đà Nẵng thông qua việc trình bày, đánh giá hệ thống quy định pháp luật và thực tiễn BHYTTN hiện nay ở nước ta.

Thứ ba xác định được các yêu cầu khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về BHYTTN ở Việt Nam trong thời gian tới.

Tóm lại, luận văn cung cấp những kiến thức, thông tin, luận điểm và đề xuất mới có giá trị tham khảo cả về mặt lý luận và thực tiễn với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và cơ chế bảo đảm thực thi BHYTTN của công dân không chỉ ở thành phố Đà Nẵng mà còn ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác ở nước ta.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn có thể được sử dụng là nguồn tài liệu tham khảo chuyên ngành luật Hiến pháp – hành chính cho Học viện KHXH thuộc viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam và các cơ sở đào tạo khác ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Các vấn đề lý luận, pháp lý của quản lý Nhà nước về BHYTTN

Chương 2: Thực trạng quản lý Nhà nước về BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng

Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước về BHYTTN ở thành phố Đà Nẵng.

CHƯƠNG 1

CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ BẢO HIỂM Y TẾ TỰ NGUYỆN

    1. 1.1. Quan niệm về bảo hiểm y tế tự nguyện và quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện

Quan niệm về bảo hiểm y tế tự nguyện

Mặc dù trên thế giới hệ thống BHYT mới chính thức ra đời vào thế kỷ XIX nhưng định nghĩa về BHYT đã xuất hiện từ thế kỷ XVII. Định nghĩa đầu tiên về BHYT được đưa ra năm 1694 bởi Chamberlen (1630-1720) trong đó cho rằng: “Bảo hiểm y tế là hình thức chi trả chi phí y tế cho người được bảo hiểm tính trên rủi ro sức khỏe đã được thỏa thuận khi mua bảo hiểm và số tiền chi trả chi phí y tế phải cân đối với số phí bảo hiểm y tế mà những người tham gia bảo hiểm đóng góp”.

Sau này, định nghĩa BHYT được Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đưa ra trong Công ước số 102 – Công ước quy dịnh những quy chuẩn tối thiểu về ASXH (1952) của ILO, trong đó ASXH được xác định là “… bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua hàng loạt biện pháp công cộng nhằm chống lại tình cảnh khốn khó về kinh tế và xã hội gây ra bởi tình trạng bị ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật trong lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, tử vong, sự cung cấp về chăm sóc y tế và cả sự cung cấp các khoản tiền trợ giúp choc ác gia đình đông con”.

Tổ chức y tế thế giới WHO cũng xác định BHYT có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Trong tuyên bố Alma-Ata năm 1978 có tiêu đề “Sức khỏe cho mọi người”, WHO quan niệm “bảo hiểm y tế là loại hình bảo hiểm không kinh doanh, không vì mục đích lợi nhuận và được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ quyền con người”.

Theo quan điểm của Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế (Organíation for Economic Development and Cooperation – OECD), thì BHYT có thể được định nghĩa như là một cách để phân phối các rủi ro tài chính liên quan tới sự sự thay đổi chi phí chăm sóc sức khỏe cá nhân bằng cách tổng hợp chi phí theo thời gian thông qua thanh toán trước (OECD, 2004).

Cơ quan phát triển quốc tế Anh (Department for International Development – DFID) cũng đưa ra định nghĩa cho BHYT như sau: “BHYT là một cách để chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí y tế cho các cá nhân bởi chính phủ hoặc các tổ chức BHYT vì mục đích lợi nhuận hay không vì mục đích lợi nhuận. Nó hỗ trợ những người tham gia bảo hiểm chi trả chi phí khám chữa bệnh khi gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật và hỗ trợ chi phí khám chữa bệnh thường xuyên để đảm bảo nhu cầu của người mua bảo hiểm.”

Cuốn Thuật ngữ ASXH Việt Nam do Tổ chức GIZ và Viện Khoa học Lao động và Xã hội xuất bản năm 2001 cũng đưa ra định nghĩa sau về BHYT: “BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhằm đảm bảo chi trả một phần hoặc toàn bộ chi phí khám, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm. Quỹ BHYT được hình thành từ đóng góp của cá nhân, doanh nghiệp, nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác. Người tham gia BHYT được quỹ BHYT chi trả các chi phí: (a) Khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức nắng, khám thai định kỳ, sinh con; (b) Khám bệnh để sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh; và (c) Vận chuyển người bệnh từ tuyến huyện lên tuyến trên trong trường hợp cấp cứu hoặc khi đang điều trị nội trú phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật”.

Ở Việt Nam, khái niệm BHYT được đề cập trong Luật BHYT (2009) như sau: “BHYT là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của luật này.”

Như vậy, có thể thấy, BHYT có thể được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau như: kinh tế, xã hội, pháp lý, dân số… Tuy nhiên, dù ở góc độ nào, BHYT cũng có một số đặc trưng cơ bản đó là được thiết lập trên cơ sở sự đóng góp của người tham gia; bao gồm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh và không mang mục đích kinh doanh.

Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm về BHYT như sau: BHYT là hình thức bảo hiểm nhằm mục đích chăm sóc sức khỏe không vì mục đích lợi nhuận và được hình thành trên cơ sở sự đóng góp của người tham gia và do nhà nước tổ chức thực hiện.

Về cơ bản, tại các quốc gia trên thế giới đều tồn tại dưới hai hình thức BHYT bắt buộc và BHYTTN.

– Bảo hiểm y tế bắt buộc: Đây là hình thức BHYT áp dụng bắt buộc với một số đối tượng người dân hoặc với toàn dân, tham gia BHYT được xác định là một nghĩa vụ.

– BHYTTN: Đây là hình thức BHYT mà người dân thường được tự do trong việc lựa chọn về việc tham gia hay không, mức hưởng bảo hiểm, mức đóng, hình thức đóng v.v… Việc tự do lựa chọn của người tham gia trong hình thức BHYT này tùy thuộc vào chính sách bảo hiểm của quốc gia đó.

Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

Dựa trên khái niệm BHYT có thể hiểu BHYTTN là hình thức bảo hiểm do Nhà nước thực hiện không vì mục đích lợi nhuận mà ở đó người dân được tự nguyện lựa chọn việc tham gia để được chăm sóc sức khỏe khi đau ốm, bệnh tật.

Đặc trưng của bảo hiểm y tế tự nguyện

BHYTTN có những đặc trưng sau đây:

Về đối tượng tham gia: Đối tượng tham gia của BHYTTN rất rộng, có thể là tất cả các thành viên trong xã hội. BHYTTN là hình thức tương trợ cộng đồng với mục đích bảo vệ sức khỏe cho nhân dân nên đối tượng tham gia BHYTTN không bị giới hạn bởi bất cứ tiêu chí nào.

Về mục tiêu: Mục tiêu của BHYTTN là hướng tới việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân. BHYTTN có trách nhiệm chi trả các chi phí khám chữa bệnh cho những người dân bị ốm đau, bệnh tật, rủi ro v.v. có nhu cầu khám và điều trị bệnh.

Về mức hưởng: Đối với BHYTTN, mức hưởng bảo hiểm không phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng góp mà phụ thuộc vào rủi ro bệnh tật và cơ sở cung ứng dịch vụ y tế. Hệ thống BHYTTN từ khi hình thành đã không định hướng theo mức độ rủi ro mà theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp.

Về thực hiện: Quan hệ BHYTTN là quan hệ diễn ra giữa ba bên: bên thực hiện BHYTTN, bên tham gia BHYTTN và cơ sở khám chữa bệnh.

Ý nghĩa của bảo hiểm y tế tự nguyện

Xét tổng quát, BHYTTN có những ý nghĩa sau đây:

BHYTTN là nguồn hỗ trợ tài chính giúp người tham gia khắc phục những khó khăn về kinh tế khi bất ngờ ốm đau, bệnh tật.

BHYTTN góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước.

BHYTTN góp phần thực hiện nâng cao chất lượng và thực hiện mục tiêu công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, thể hiện rõ nét tính nhân đạo, cộng đồng xã hội sâu sắc.

BHYTTN góp phần làm tăng chất lượng khám chữa bệnh và quản lý y tế thông qua hoạt động quỹ BHYTTN đầu tư.

BHYTTN góp phần đổi mới cơ chế quản lý y tế.

BHYTTN là một công cụ vĩ mô của Nhà nước để thực hiện tốt phúc lợi xã hội, đồng thời tạo nguồn tài chính hỗ trợ, cung cấp cho hoạt động chăm sóc sức khỏe người dân.

    1. 1.2. Phương thức quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện

Khái niệm quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện

BHYTTN có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội nên hầu hết các quốc gia Nhà nước đều ban hành các chính sách, pháp luật để thực hiện. Để chính sách BHYTTN đi vào cuộc sống, nhà nước cần phải thể chế hóa nó bằng các văn bản pháp luật. Pháp luật là hình thức pháp lý của chính sách BHYTTN, phản ánh những quan điểm và chính sách của nhà nước trong quản lý BHYTTN, giúp BHYTTN có thể được thực hiện hiệu quả trong thực tế đời sống. Thể chế hóa nội dung chính sách BHYTTN, nhà nước phải quy định cụ thể các đối tượng tham gia BHYTTN, điều kiện hưởng BHYTTN, chế độ BHYTTN v.v. để tổ chức thực hiện một cách hợp lý, công bằng.

Mặc dù được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng dưới khía cạnh pháp lý, quản lý nhà nước về BHYTTN được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật về BHYTTN được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của người tham gia nhằm huy động sự đóng góp của họ để thanh toán chi phí khám chữa bệnh khi ốm đau, bệnh tật.

Quản lý nhà nước về BHYTTN mang một số điểm đặc trưng:

Nhà nước dùng pháp luật để quản lý các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHYT, tuy nhiên khác với loại hình BHYT bắt buộc, việc tham gia loại hình bảo hiểm này hay không xuất phát từ sự tự nguyện của người tham gia.

Mục đích của quản lý nhà nước về BHYTTN là nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân, thể hiện rõ nét tính nhân đạo và tính cộng đồng sâu sắc.

Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật BHYTTN mang tính chất nhiều bên, bao gồm: bên tham gia bảo hiểm, tổ chức BHYT và cơ sở khám chữa bệnh.

Nguyên tắc quản lý nhà nước bảo hiểm y tế tự nguyện

Quản lý nhà nước về BHYTTN cần dựa trên nguyên tắc sau đây:

Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do lựa chọn cơ sở khám chữa bệnh

Nguyên tắc thực hiện BHYT toàn dân.

Nguyên tắc mức đóng theo thu nhập, mức hưởng theo bệnh lý và nhóm đối tượng.

Nguyên tắc cân đối thu chi là phát triển bền vững nguồn quỹ BHYT nói chung và quỹ BHYTTN nói riêng. Việc cân đối thu – chi là điều kiện tiền đề giúp cho bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHYT tự nguyện.

Nguyên tắc đảm bảo hài hóa mối quan hệ giữa các bên trong quan hệ bảo hiểm

Vai trò của quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện

Dưới góc độ xã hội, quản lý nhà nước về BHYTTN là sự cụ thể hóa rõ nét chính sách của Nhà nước về bảo đảm quyền con người trong xã hội, là nỗ lực và cách thức để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe.

Dưới góc độ kinh tế, với vai trò là một bộ phận của hệ thống ASXH, quản lý nhà nước về BHYTTN còn làm nhiệm vụ điều tiết của cải, giảm khoảng cách giàu nghèo, bất bình đẳng giữa các bộ phận dân cư trước những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.

Dưới góc độ pháp lý, quản lý nhà nước về BHYTTN là sự thể chế hóa nội dung đường lối, chính sách BHYTTN của quốc gia, để chính sách BHYTTN đi vào cuộc sống và phát sinh hiệu quả trong thực tế đời sống.

    1. 1.3. Nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện

Quản lý nhà nước về BHYT nói chung và BHYTTN nói riêng của các quốc gia thường bao gồm các nội dung cơ bản sau:

  • Đối tượng tham gia BHYTTN là những người tham gia và được hưởng BHYTTN. Bất kỳ ai có nhu cầu bảo hiểm sức khoẻ đều có quyền tham gia BHYTTN. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào đặc thù của hệ thống pháp luật tại từng quốc gia, từng khu vực những đối tượng thuộc diện tham gia BHYTTN sẽ được giới hạn trong từng nhóm nhất định.
  • Chế độ BHYTTN được tạo thành bởi các yếu tố điều kiện hưởng BHYTTN và phạm vi hưởng BHYTTN.

+ Điều kiện hưởng BHYTTN là tập hợp các quy định của pháp luật làm cơ sở pháp lý để người tham gia hình thức bảo hiểm này được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Điều kiện hưởng BHYTTN là việc đóng góp BHYT và thẻ BHYT.

+ Phạm vi hưởng BHYTTN là quyền lợi về BHYT mà người tham gia BHYTTN được hưởng khi có các điều kiện BHYT phát sinh. Thông thường pháp luật sẽ xác định người tham gia BHYTTN sẽ được quỹ BHYT chi trả các chi phí gì và mức hưởng BHYT là bao nhiêu.

– Mức đóng BHYTTN được xem là một loại hình BHYT bổ sung nhằm thanh toán cho các dịch vụ y tế mà BHYT cơ bản không chi trả hoặc đáp ứng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe nằm ngoài qui định của BHYT cơ bản. Đối tượng tham gia BHYTTN thường là những người có thu nhập thấp, không ổn định trong xã hội do vậy mức đóng phí BHYTTN thường căn cứ theo mức thu nhập và không quá cao so với mức thu nhập đó. Nhà nước quy định mức phí tham gia phù hợp hoặc thấp hơn một cách tương đối so với mức chi để khuyến khích mọi người hưởng ứng, nhằm mục đích mở rộng độ bao phủ của BHYTTN, tăng số lượng người tham gia BHYTTN và gia tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT. Nếu Nhà nước quy định mức phí cao, vượt quá khả năng thu nhập thì người dân sẽ khó tham gia. Đấy là chưa kể việc quy định phân đoạn mức phí phải nộp như thế nào, một lần hay nhiều lần để tạo điều kiện tối đa cho người dân được tham gia.

– Mở rộng người tham gia: Mở rộng độ bao phủ BHYTTN trên cơ sở gia tăng số lượng người tham gia BHYTTN và gia tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYT tự nguyện. Gia tăng số lượng người tham gia BHYT tự nguyện thể hiện ở số lượng người tham gia ngày càng tăng, năm sau nhiều hơn năm trước. Số lượng người tham gia phát triển có tính chất quyết định đối với bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHYTTN (nếu không được nhà nước bảo trợ). Đồng thời, cũng thể hiện được chính sách BHYTTN đã đi vào cuộc sống, đáp ứng được yêu cầu của nhân dân và được người dân đồng tình ủng hộ, nhiệt tình tham gia.

– Mạng lưới cung ứng: Nhà nước quy định mạng lưới cung ứng dịch vụ BHYTTN thông qua việc phát triển hệ thống Đại lý thu BHYTTN, đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở khám chữa bệnh, gia tăng số lượng giường bệnh và đội ngũ cán bộ y tế, đồng thời, nâng cao chất lượng dịch vụ BHYT tự nguyện. Trong một giai đoạn nào đó, việc quy định hệ thống Đại lý thu kiểu hành chính, duy nhất là cần thiết nhưng xu hướng lâu dài, phát triển kinh tế thị trường thì điều đó sẽ cản trở đối với phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHYTTN vì không có cạnh tranh, không có thêm các kênh phục vụ việc đăng ký tham gia của người dân.

Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
Quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng

– Công tác khám chữa bệnh: Nếu như nói mở rộng đối tượng là đầu vào thì khám chữa bệnh, giải quyết quyền lợi, chế độ chính sách cho người tham gia là đầu ra. Trong trường hợp Nhà nước ban hành các quy định không cân đối giữa đầu vào với đầu ra, nhất là đầu ra không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh, chắc chắn sẽ dẫn đến nhiều bất cập, gây tổn hại đến quyền lợi của người tham gia BHYTTN. Phát triển đội ngũ cán bộ y tế, tức là đội ngũ y, bác sỹ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý trong ngành y tế ngày càng nhiều, đáp ứng được yêu cầu khám chữa bệnh có xu hướng ngày càng tăng của người tham gia BHYTTN. Trong điều kiện ô nhiễm môi trường, dịch bệnh có chiều hướng phức tạp luôn đòi hỏi đội ngũ cán bộ y tế phải phát triển tương ứng không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Yếu tố này cũng có tác động rất lớn đối với sự phát triển BHYTTN, bởi vì, nếu không đủ cán bộ y tế, chất lượng khám chữa bệnh của đội ngũ y, bác sỹ thấp thì người tham gia sẽ không mặt mà hưởng ứng, họ sẽ tìm đến các kênh khám chữa bệnh khác để tham gia.

– Phương thức thanh toán: Để đảm bảo quyền lợi tối đa cho người tham gia BHYTTN, các quốc gia đã đưa ra nhiều phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh khác nhau nhưng về cơ bản có 3 phương thức sau: Phương thức thanh toán theo định suất; Thanh toán theo chi phí dịch vụ; Thanh toán theo trường hợp bệnh.

– Quỹ BHYTTN là tập hợp những đóng góp bằng tiền nhằm hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho người được hưởng BHYTTN khi có điều kiện BHYTTN phát sinh. Nhà nước quy định mức chi, quy định các chế độ, chính sách liên quan nhằm đảm bảo nguồn thu, cân đối thu – chi, phát triển vững chắc  BHYT tự nguyện. Trường hợp mất cân đối, Nhà nước sẽ sử dụng quỹ dự phòng hoặc ngân sách để bù đắp cho quỹ. Chẳng hạn, mặc dù quỹ BHYT tự nguyện luôn mất cân đối nhưng để phát triển BHYT nói chung, BHYT tự nguyện nói riêng, tại khoản 5 Điều 3 Luật BHYT quy định: “Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ”. Hơn thế nữa, Luật BHYT cũng chỉ quy định trần mức thu tối đa (hiện nay là 702.000 đồng/người/năm) mà không quy định trần mức hưởng tối đa về quyền lợi (trong năm hoặc đợt điều trị), dẫn đến nhiều người được quỹ BHYT thanh toán hằng trăm triệu trong mỗi đợt điều trị hoặc mỗi năm… 

 Như vậy, có thể nói việc quản lý nhà nước về BHYTTN là vô cùng quan trọng. Tùy tình hình trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội mà Nhà nước có những quy định cụ thể, nhằm điều chỉnh, tạo thuận lợi cho phát triển BHYTTN.

    1. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý Nhà nước về bảo hiểm y tế tự nguyện

        Chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phát triển bảo hiểm y tế tự nguyện

Trước hết, cần khẳng định lại BHYT nói chung, BHYTTN nói riêng là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Mục tiêu hướng đến của chính sách này là thực hiện BHYT toàn dân. Muốn vậy, không thể không phát triển BHYTTN.

Về lý luận, chủ trương, chính sách của Đảng, phát luật của Nhà nước nói chung là một chuỗi những hoạt động mà Đảng, Nhà nước chọn làm hay không làm, thực hiện hay không thực hiện với những tính toán và mục đích rõ ràng, tác động đến người dân, đến kinh tế – xã hội của đất nước. Phần lớn chủ trương, chính sách đều được thể hiện dưới dạng văn bản pháp luật (pháp luật là hình thức thể hiện của các chủ trương, chính sách). Đảng, Nhà nước chủ trương phát triển BHYTTN trên cơ sở thực hiện BHYT toàn dân được thể hiện ở rất nhiều văn bản. Chẳng hạn, Điều 39 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Thực hiện bảo hiểm y tế tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ”. Xuyên suốt các kỳ Đại hội Đảng mà mở đầu là Đại hội VI đến Đại hội XII đều nhất quán chủ trương thực hiện BHYT toàn dân, trong đó, Đại hội XI (2011) chủ trương: “Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế…; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân”. Gần đây, Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22/11/2012 của Bộ Chính trị một lần nữa nêu rõ: “…Có chính sách khuyến khích người tham gia BHYTTN thường xuyên dài hạn, hạn chế tình trạng người bị ốm đau mới mua bảo hiểm y tế…”.

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản tổ chức thực hiện BHYT toàn dân nói chung, BHYTTN nói riêng. Theo đó, trước khi thực hiện Luật BHYT (01/7/2009), đối tượng BHYTTN khá rộng, bao gồm cả học sinh, sinh viên; mức đóng đầu tiên là mức tiền cụ thể, sau đó được tính theo tỷ lệ % trên tiền lương cơ sở do Chính phủ quy định…

Phát triển BHYTTN là quá trình mở rộng đối tượng tham gia trên cơ sở ngày càng phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo đảm cân đối thu – chi quỹ BHYTTN. Quá trình đó phát triển như thế nào, theo hướng nào phần lớn đều do chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước quy định. Nói cách khác, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của  Nhà nước là nhân tố quyết định sự phát triển BHYTTN, thể hiện cụ thể ở các mặt sau: 

Một là, Nhà nước quy định mức phí tham gia phù hợp hoặc thấp hơn một cách tương đối so với mức chi để khuyến khích mọi người hưởng ứng, nhằm mục đích mở rộng độ bao phủ của BHYTTN, tăng số lượng người tham gia BHYTTN và gia tăng tỷ lệ dân số tham gia BHYTTN. Nếu Nhà nước quy định mức phí cao, vượt quá khả năng thu nhập thì người dân sẽ khó tham gia. Đấy là chưa kể việc quy định phân đoạn mức phí phải nộp như thế nào, một lần hay nhiều lần để tạo điều kiện tối đa cho người dân được tham gia.

  Hai là, Nhà nước quy định mạng lưới cung ứng dịch vụ BHYTTN thông qua việc phát triển hệ thống đại lý thu BHYTTN, đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở khám chữa bệnh, gia tăng số lượng giường bệnh và đội ngũ cán bộ y tế, đồng thời, nâng cao chất lượng dịch vụ BHYTTN. Trong một giai đoạn nào đó, việc quy định hệ thống đại lý thu kiểu hành chính, duy nhất là cần thiết nhưng về lâu dài trong bối cảnh kinh tế thị trường thì điều đó sẽ cản trở sự phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHYTTN vì  không có cạnh tranh, không có thêm các kênh phục vụ việc đăng ký tham gia của người dân. Nếu như nói mở rộng đối tượng là đầu vào thì việc khám chữa bệnh, giải quyết quyền lợi, chế độ chính sách cho người tham gia là đầu ra. Trong trường hợp Nhà nước ban hành các quy định không cân đối giữa đầu vào với đầu ra, nhất là đầu ra không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh thì sẽ gây tổn hại đến quyền lợi của người tham gia BHYTTN.

Ba là, Nhà nước quy định mức chi, quy định các chế độ, chính sách liên quan nhằm đảm bảo nguồn thu, cân đối thu – chi, phát triển vững chắc  BHYTTN. Trường hợp mất cân đối, Nhà nước sẽ sử dụng quỹ dự phòng hoặc ngân sách để bù đắp cho quỹ. Chẳng hạn, mặc dù quỹ BHYTTN luôn mất cân đối nhưng để phát triển BHYT nói chung, BHYTTN nói riêng, tại khoản 5 Điều 3 Luật BHYT quy định: “Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ”. Hơn thế nữa, Luật BHYT cũng chỉ quy định trần mức thu tối đa (hiện nay là 702.000 đồng/người/năm) mà không quy định trần mức hưởng tối đa về quyền lợi (trong năm hoặc đợt điều trị), dẫn đến nhiều người được quỹ BHYT thanh toán hằng trăm triệu trong mỗi đợt điều trị hoặc mỗi năm hơn cả tỷ đồng.

Như vậy, có thể nói nhân tố chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Tùy tình hình trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội mà Nhà nước có những quy định cụ thể, nhằm điều chỉnh, tạo thuận lợi cho phát triển BHYTTN.

Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ bảo hiểm y tế tự nguyện

      Nhân tố này cũng không thể thiếu đối với bất kỳ chính sách nào khi triển khai thực hiện. Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ BHYTTN thuộc hai ngành là BHXH và Y tế, có chức năng, nhiệm vụ cung ứng dịch vụ BHYTTN từ khai thác, lập danh sách, thu tiền, in ấn, cấp phát thẻ BHYT đến phục vụ khám chữa bệnh cho đối tượng khi phát sinh. Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ BHYTTN có vai trò rất quan trọng, bởi lẽ, đó là nơi tổ chức thực hiện chính sách BHYTTN; Chính sách BHYTTN có phát triển hay không, có đảm bảo quyền lợi cho người tham gia hay không… đều phụ thuộc vào bộ máy tổ chức thực hiện. Nếu bộ máy tổ chức thực hiện tốt, quản lý hiệu quả, thường xuyên đổi mới phương thức hoạt động, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tế thì sẽ tăng trưởng ổn định lâu dài và đi vào cuộc sống. Ngược lại, nếu bộ máy tổ chức thực hiện không tốt, quản lý kém hiệu quả, thụ động thì bộ máy đó sẽ là rào cản với sự phát triển của BHYTTN.

Tổ chức bộ máy cung ứng dịch vụ BHYTTN về cơ bản bao gồm hệ thống đại lý thu, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh.

Đối với hệ thống đại lý thu BHYTTN: Theo quy định tại Điều 2 Quyết định số 999/QĐ-BHXH ngày 01/10/2014 của BHXH Việt Nam: “đại lý thu là tổ chức được cơ quan Bảo hiểm xã hội ký Hợp đồng đại lý bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, gồm: Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; đơn vị sự nghiệp; tổ chức chính trị – xã hội và tổ chức kinh tế”. Như vậy, hệ thống đại lý thu BHYT được xem là chân rết đầu vào của bộ máy cung ứng dịch vụ BHYT, là cánh tay nối dài của cơ quan BHXH. Hệ thống đại lý thu phát triển theo chiều rộng có nghĩa là ngày càng có nhiều đại lý thu hơn, tạo thế cạnh tranh giữa các đại lý theo cơ chế thị trường và người tham gia cũng có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với chính sách BHYTTN. Nếu phát triển theo chiều sâu thì số lượng đại lý có thể không tăng nhưng chất lượng phục vụ được nâng cao, chuyên sâu và chuyên nghiệp hơn. Vai trò của hệ thống đại lý thu thể hiện ở việc, nếu không có nó thì cơ quan BHXH khó có thể tổ chức thực hiện chính sách BHYTTN (từ việc lập danh sách, thu tiền, hướng dẫn, cấp phát thẻ BHYTTN…). Bên cạnh đó, hệ thống đại lý thu còn là cầu nối giữa cơ quan quản lý (cơ quan BHXH) với người tham gia, thường xuyên tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật về BHYTTN; tiếp xúc với người tham gia, tiếp thu những phản ánh, kiến nghị từ người tham gia để tổng hợp, báo cáo với cơ quan thẩm quyền. Sự phát triển hệ thống đại lý là điều kiện cần thiết để phát triển, mở rộng đối tượng tham gia BHYTTN.  

Đối với hệ thống cơ sở khám chữa bệnh và số lượng giường bệnh: Phát triển hệ thống cơ sở khám chữa bệnh thường kéo theo phát triển số lượng giường bệnh, tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp số lượng cơ sở khám chữa bệnh không tăng nhưng số lượng giường bệnh vẫn tăng do các cơ sở khám chữa bệnh đầu tư mở rộng thêm hoặc bổ sung thêm giường bệnh. Bất luận trên phương diện nào, sự phát triển đó cũng sẽ là gia tăng cung ứng dịch vụ đầu ra, tạo điều kiện phục vụ cho nhiều người có nhu cầu khám chữa bệnh BHYTTN hơn. Chẳng hạn, với tình trạng quá tải do dịch bệnh, sự phát triển của các cơ sở khám chữa bệnh không đáp ứng được yêu cầu dẫn đến 2, 3 bệnh nhân phải nằm một giường (cá biệt có những cơ sở khám chữa bệnh 5, 7 bệnh nhân nằm một giường bệnh, thậm chí bệnh nhân phải nằm cả ngoài hành lang, trên lối đi…). Thì việc xây dựng thêm các cơ sở khám chữa bệnh hoặc bổ sung thêm giường bệnh ở các cơ sở khám chữa bệnh có sẵn sẽ giúp giải tỏa vấn đề quá tải. Hơn nữa, việc phát triển cơ sở khám chữa bệnh sẽ tạo thế cạnh tranh giữa các cơ sở khám chữa bệnh, bắt buộc các cơ sở khám chữa bệnh phải thường xuyên nâng cao chất lượng phục vụ mới hy vọng “giữ chân” bệnh nhân BHYT nói chung, bệnh nhân BHYTTN nói riêng. Điều đó cũng có nghĩa, việc phát triển hệ thống cơ sở khám chữa bệnh và số lượng giường bệnh là nhân tố góp phần làm cho chính sách BHYTTN được thực thi mà nếu không có nó thì việc phát triển, mở rộng đối tượng tham gia và cả chính sách ấy sẽ trở thành vô nghĩa. 

Đối với đội ngũ cán bộ y tế: Cũng giống như phát triển hệ thống cơ sở khám chữa bệnh và số lượng giường bệnh, việc phát triển đội ngũ cán bộ y tế cũng là nhân tố làm gia tăng cung ứng dịch vụ đầu ra, tạo điều kiện cho người bệnh khám chữa bệnh BHYTTN được chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Ví dụ, trong điều kiện cán bộ y tế nói chung, y bác sỹ nói riêng không đủ số lượng thì thời gian khám chữa bệnh cho người bệnh sẽ hạn chế, việc chẩn đoán, điều trị sẽ không bảo đảm. Điều đó dẫn đến hệ quả là chất lượng khám chữa bệnh thấp, không đáp ứng được nhu cầu của người bệnh, và đương nhiên, họ sẽ từ bỏ BHYTTN để tìm tới các kênh dịch vụ y tế khác phù hợp hơn.

Tóm lại, bộ máy cung ứng dịch vụ luôn là điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện chính sách BHYTTN. Không có bộ máy sẽ không thể triển khai chính sách BHYTTN. Bộ máy ấy mạnh, hoạt động hiệu quả và phát triển thì BHYTTN phát triển và ngược lại. Từ cơ cấu tổ chức bộ máy ban đầu, sau một thời gian thực hiện cần đánh giá lại kết quả từng khâu, từng tổ chức, đối tượng cấu thành để kiện toàn, tinh giản, hoàn chỉnh thì mới thúc đẩy nhanh hơn, hiệu quả hơn BHYTTN.

Thông tin tuyên truyền về bảo hiểm y tế tự nguyện

      Với bất kỳ chính sách nào, thông tin tuyên truyền cũng luôn đóng vai trò định hướng, giúp cho người dân từ biết đến hiểu, từ hiểu đến thực hiện và tham gia phát triển thêm chính sách ấy. Phát triển BHYTTN cũng không là ngoại lệ, bởi lẽ, một trong những nguyên nhân dẫn đến người dân không quan tâm, không muốn tham gia  BHYTTN là họ thiếu hiểu biết, chưa thấy lợi ích của việc tham gia hoặc thiếu tin tưởng vào hệ thống tổ chức thực hiện (cả hệ thống đầu vào liên quan đến phát hành thẻ lẫn hệ thống đầu ra là khám chữa bệnh BHYTTN). Do đó, vấn đề đặt ra là phải tuyên truyền để người dân hiểu rõ về chính sách, chế độ, vai trò, ý nghĩa, tác dụng cũng như những lợi ích của BHYTTN để họ biết, tin tưởng và nhiệt tình tham gia. Có thể tuyên truyền dưới nhiều hình thức khác nhau như tổ chức các lớp tập huấn, viết báo, đối thoại trực tiếp hoặc trên truyền hình, thông qua Internet, phát hành tờ rơi, dán panô, áp phích… Thông tin tuyên truyền chính sách BHYTTN không chỉ đơn thuần là việc của cơ quan tổ chức thực hiện (ngành BHXH và ngành Y tế), hơn thế nữa, đó còn là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, kể cả các cấp ủy đảng nhằm phổ biến, quán triệt chủ trương, thống nhất trong tổ chức thực. 

Thông tin truyên truyền không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc phổ biến chính sách mà còn góp phần định hướng chính sách đối với người tham gia. Nếu thông tin tuyên truyền tốt, người dân sẽ biết, hiểu, thấy được quyền lợi khi tham gia BHYTTN, từ đó họ tự giác tham gia. Ngược lại, nếu không làm tốt công tác này thì người dân sẽ không biết, không hiểu, không rõ khi tham gia mình được gì, mất gì, nên việc phát triển BHYTTN chắc chắn gặp nhiều khó khăn. 

Vấn đề trên, theo kết quả nghiên cứu của tác giả Lưu Viết Tĩnh về BHYTTN theo hộ gia đình thì: “có 84,6% người dân được biết về BHYT từ nguồn thông tin do các bộ chính quyền đoàn thể xã, tiếp đến là do cán bộ BHXH huyện 41,2%…các nguồn thông tin từ các phương tiên thông tin truyền thông đại chúng có tỷ lệ thấp: Đài phát thanh 0,4%, TV 36%…”; Cũng theo nghiên cứu của tác giả này “…93,75% số chủ hộ trả lời đạt yêu cầu từ 4 nội dung về chính sách BHYT”; Tỷ lệ này cho thấy để tham gia BHYT, trước hết người dân phải hiểu về chính sách BHYT, sau đó mới quyết định tham gia… Tuy nhiên điều đáng bàn ở đây là nguồn thông tin mà người dân nhận được chủ yếu là từ cán bộ chính quyền đoàn thể xã, vì vậy để triển khai thực hiện được BHYTTN trước hết đội ngũ cán bộ này “phải hiểu, phải thông” chính sách thì tuyên truyền vận động nhân dân mới đạt kết quả và ngược lại”.

Tóm lại theo nghiên cứu nêu trên “Công tác thông tin tuyên truyền về chính sách BHYT còn nhiều hạn chế, dẫn đến sự thiếu hiểu biết của một bộ phận không nhỏ người dân. Một số người vẫn cho rằng, BHYT là kinh doanh và giống như loại hình bảo hiểm thương mại khác, dẫn tới hạn chế trong nhận thức…” [26].

Chất lượng dịch vụ bảo hiểm y tế tự nguyện

Như đã phân tích ở phần trên, chất lượng được đo bởi sự thỏa mãn của nhu cầu, mà nhu cầu thì bao hàm nhiều thành tố, luôn biến động theo thời gian, không gian và điều kiện cụ thể. Chất lượng BHYTTN được đo bởi khả năng tiếp cận dịch vụ và bảo đảm quyền lợi của người tham gia. Cụ thể hơn, đó là vấn đề người tham gia dễ dàng, thuận lợi hay khó khăn; họ có được bảo đảm đầy đủ, kịp thời các quyền lợi theo quy định hay không kịp thời, không đầy đủ. BHYTTN là chính sách xã hội, nhằm chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và không vì mục tiêu lợi nhuận. Vì vậy, về mặt lý thuyết Nhà nước xây dựng cơ chế, chính sách, cách thức tổ chức thực hiện thông thoáng, dễ dàng bao nhiêu thì người tham gia BHYTTN sẽ thuận lợi, dễ dàng bấy nhiêu. Chẳng hạn, giai đoạn 2005-2007, BHYTTN thực hiện theo Thông tư liên tịch số 22/2005/TTLT-BTC-BYT ngày 24/8/2005 của Liên Bộ Tài chính – Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện BHYTTN, việc tham gia BHYTTN của đối tượng hộ gia đình luôn có điều kiện là 100% thành viên hộ gia đình và 10% số hộ gia đình trong phạm vi địa bàn xã, phường đăng ký tham gia; nếu là hội viên hội, đoàn thể phải có ít nhất 30% hội viên tham gia; nếu là thân nhân người lao động phải có 100% thân nhân sống trong cùng địa bàn tham gia. Từ ngày thực hiện Luật BHYT thì không có bất kỳ điều kiện ràng buộc nào đối với các thành viên trong hộ gia đình khi đăng ký tham gia BHYTTN. Như vậy, người dân sẽ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với chính sách BHYTTN. 

Trong công tác tổ chức thực hiện, phát hành thẻ BHYTTN cũng thể hiện chất lượng dịch vụ ở góc độ người tham gia có được đăng ký dễ dàng không, thủ tục đơn giản hay phức tạp, cấp thẻ nhanh hay chậm…Trên thực tế, đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm sức khỏe, công tác phát hành, thu phí khá đa dạng và đơn giản. Bởi vì, hệ thống đại lý phát hành đa dạng, không cần phải làm các thủ tục bảo lãnh của chính quyền địa phương, quyền lợi được hưởng ngay sau thời điểm phát hành, và tùy địa bàn, có thể có hàng chục đại lý trên một xã, phường. Trong khi đó, đại lý thu BHYTTN lại ràng buộc bởi cơ chế hành chính khá “cứng”, chẳng hạn, người làm đại lý phải có đầy đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 4, Điều 5 Quyết định số 999/QĐ-BHXH ngày 01/10/2014 của BHXH Việt Nam về việc ban hành Quy định hoạt động của nhân viên đại lý thu BHXH, BHYT, như: ”… Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam từ đủ 18 tuổi đến 65 tuổi đối với nam, đến 60 tuổi đối với nữ và đang tham gia BHYT hoặc BHXH. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hiểu biết chính sách, pháp luật BHXH, BHYT; không vi phạm pháp luật. Có đủ sức khỏe để thực hiện nhiệm vụ của nhân viên đại lý thu. Có trình độ văn hóa từ Trung học cơ sở trở lên. Ngoài ra, để được ký hợp đồng làm đại lý thì phải có giấy bảo lãnh của UBND cấp xã và thường mỗi xã, phường chỉ có một hoặc vài đại lý làm việc theo giờ hành chính. Bên cạnh đó, việc quy định thời hạn sử dụng thẻ BHYTTN có giá trị kể từ ngày 01 của tháng và sau 30 ngày kể từ ngày nộp phí đối với thẻ BHYT tham gia lần đầu đến nay cũng chưa thay đổi. Với cách thức tổ chức thực hiện như vậy, không thể nói đã tạo điều kiện thông thoáng, dễ tiếp cận BHYTTN cho người dân. Do đó, họ không thiết tha với BHYTTN, còn nhiều người chưa tham gia cũng là điều đương nhiên. 

Việc đảm bảo quyền lợi của người tham gia phải trên cơ sở phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ, nâng cao chất lượng phục vụ cũng như chất lượng công tác khám chữa bệnh ở các cơ sở khám chữa bệnh từ Trung ương đến địa phương. Nếu quyền lợi của người tham gia không bảo đảm thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến phát triển BHYTTN. Nhân tố này thể hiện trong nhiều khâu, từ việc tiếp nhận người bệnh, thủ tục thanh toán cho đến chất lượng khám chữa bệnh cũng như thái độ của đội ngũ y, bác sỹ trong điều trị bệnh.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 8\LUAT HANH CHINH\NGUYEN THANH HAI\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *