Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong giai đoạn hiện nay, chủ trương, đường lối về cải cách tư pháp được Đảng, Nhà nước ta tích cực triển khai và xem đây là một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nội dung và lộ trình thực hiện các chủ trương cải cách tư pháp được nêu rõ trong Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính trị. Đối chiếu với mục tiêu và yêu cầu cải cách tư pháp được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết nêu trên; một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không còn phù hợp, cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện; trong đó không thể không kể đến quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một hoạt động quan trọng nhất trong quá trình giải quyết một vụ án, với đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS. Đây là một đề tài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thực tiễn xét xử VAHS và đây cũng là một công trình nghiên cứu có ích cho người làm công tác thực tiễn, nhằm giúp cho những nhà xây dựng pháp luật và đặc biệt hơn là những người làm công tác xét xử có quyết định đúng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, công dân và xã hội.

Hoạt động xét sử sơ thẩm VAHS quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 còn thiếu cụ thể, rõ ràng như: Thế nào xét xử sơ thẩm VAHS? Bản chất pháp lý và nội dung hoạt động xét xử VAHS? Nguyên nhân một số vướng mắc trong thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS và các giải pháp khắc phục như thế nào? Xét xử sơ thẩm VAHS là một chế định liên quan đến nhiều ngành luật khác chứ không chỉ đối với ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. Do đó, việc làm rõ khái niệm này cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa nhiều ngành luật khác nhau. Vì vậy, có thể nói rằng nghiên cứu những quy định của pháp luật của nhiều ngành luật là điều kiện cần và đủ đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS.

Trong các báo cáo tổng kết hằng năm công tác Toà án cả nước nói chung và TAND huyện Hòa Vang nói riêng thì trong những năm gần đây, khi đề cập đến các VAHS, quyết định của TA bị sửa, hủy thì nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do một số những người tiến hành tố tụng còn thiếu kỹ năng nghiệp vụ, chuyên môn và còn chủ quan trong hoạt động xét xử VAHS nên dẫn đến tình trạng hủy, sửa bản án. Như vậy, để tránh tình trạng sửa, hủy án thì những người tiến hành tố tụng mà trong đó Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa là người chịu trách nhiệm chủ đạo cần phải có kỹ năng và trình độ chuyên môn cao trong hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS.

Trong thực tế TA cấp sơ thẩm còn có rất nhiều vướng mắc khi áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm. Điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ về mặt lý luận pháp lý của các quy định về mặt tố tụng ở khâu xét xử sơ thẩm VAHS ta sẽ chỉ ra những bất cập trong thực tiễn và những nguyên nhân, hạn chế; trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp mang tính khoa học nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định xét xử sơ thẩm VAHS là một yêu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay.

Từ những lập luận trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” để nghiên cứu và bảo vệ luận văn thạc sĩ luật học tại Học viện khoa học xã hội Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

3.1. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu có tính hệ thống các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm VAHS. Phân tích, đánh giá với thực trạng xét xử sơ thẩm VAHS từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng nhằm tìm ra những tồn tại, hạn chế trong việc xét xử sơ thẩm ở nước ta. Qua đó, tác giả đề xuất một số phương hướng góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hiện hành và một số giải pháp đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan sai người vô tội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục địch trên, luận văn có nhiệm vụ xây dựng khái niệm, phân tích các đặc điểm cơ bản của hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS, đồng thời phân tích, đánh giá những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS. Dựa trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng các quy định pháp luật đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS. Từ việc nghiên cứu và phân tích trên để xác định nguyên nhân hạn chế và định hướng khắc phục đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Thứ nhất, các vấn đề lý luận chung về xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam.

Thứ hai, Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS và thực tiễn áp dụng tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Quá trình thụ lý hồ sơ, xác định thẩm quyền xét xử vụ án, các bước chuẩn bị xét xử sơ thẩm, trình tự, thủ tục xét sơ thẩm VAHS của TAND cấp huyện.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của quá trình xét xử sơ thẩm VAHS. Do đây là một vấn đề rộng và phức tạp trong phạm vi của luận văn tác giả không thể xem xét toàn diện tất cả các nội dung của vấn đề. Tác giả xác định việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và phiên toà xét xử sơ thẩm VAHS và làm sáng tỏ một cách có hệ thống về lý luận và pháp lý. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHS.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu luận văn

Trong quá trình nghiên cứu để hoàn thiện nội dung đề tài tác giả đã dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, xem đó là cơ sở phương pháp luận để giải quyết các vấn đề của luận văn.

Để làm sáng tỏ các nội dung trong đề tài, ngoài các phương pháp nghiên cứu truyền thống tác giả còn sử dụng các phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp, so sánh, thống kê, phân tích và tổng hợp. Trong sự kết hợp giữa các phương pháp ở nhiều mức độ khác nhau thì phương pháp phân tích quy phạm pháp luật được xem là phương pháp chủ đạo.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận

Đây là công trình nghiên cứu khoa học tương đối toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa quá trình xét xử sơ thẩm VAHS.

Ý nghĩa thực tiễn

Xác định đúng những điều kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng quy định của pháp luật đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS trong thực tiễn xét xử của TA cấp quận, huyện tại thành phố Đà Nẵng. Đồng thời đề xuất một số giải pháp về việc đào tạo cán bộ, quy hoạch, sắp xếp lại một số chương, điều luật liên quan, sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện các điều luật này ở khía cạnh lập pháp với mục đích chỉ dẫn, áp dụng pháp luật trong thực tiễn ngày một tốt hơn. Đề tài còn có thể là nguồn tài liệu tham khảo đối với một số người làm công tác xây dựng, nghiên cứu, giảng dạy và áp dụng pháp luật, Luật gia, cán bộ hoạt động trong lĩnh vực pháp luật, sinh viên, học viên cao học chuyên ngành tư pháp hình sự, đồng thời là nguồn tài liệu gắn liền với công tác xét xử sơ thẩm VAHS của hệ thống ngành Toà án.

7. Cơ cấu luận văn

Lời mở đầu

Chương 1: Những vấn đề chung về xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam

Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện

Chương 3: Thực tiễn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại huyện Hoà Vang, TP Đà Nẵng.

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

    1. . Khái niệm và ý nghĩa của xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam
      1. . Khái niệm về xét xử sơ thẩm VAHS theo tố tụng hình sự Việt Nam

Ở nước ta hiện nay, Hiến pháp và Luật tổ chức TAND đã quy định rõ Toà án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, hoạt động xét xử là nhiệm vụ quan trọng và chủ yếu của Toà án. Yêu cầu của việc xét xử là phải xác định và làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Trên cơ sở của sự thật khách quan đó, Toà án nhân danh Nhà nước đưa ra phán quyết bằng bản án hoặc quyết định phản ánh đầy đủ và sâu sắc bản chất của nền công lý.

Hoạt động xét xử của Toà án được hiểu theo nghĩa chung nhất là hoạt động của các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào pháp luật để xem xét những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định có tính chất bắt buộc. Cụ thể hơn hoạt động xét xử đó là hoạt động nhân danh Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp, tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau.

Với chức năng, nhiệm vụ là cơ quan xét xử của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống Toà án trở thành công cụ của chuyên chính vô sản Việt Nam. Cùng với các cơ quan khác như Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án, các cơ quan bổ trợ tư pháp, hoạt động của Toà án bảo đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh. Tại Toà án, các kết quả của hoạt động điều tra, kết quả giám định được đưa ra xem xét và sử dụng một cách chính xác thông qua các thủ tục tố tụng để từ đó đưa ra các phán xét cuối cùng. Toà án là nơi công lý được thể hiện, sự đối xử bình đẳng và công bằng trong tất cả các mối quan hệ. Toà án cũng là nơi thể hiện chất lượng, trình độ hoạt động và uy tín của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống tư pháp của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong toàn bộ các hoạt động tố tụng hình sự thì hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS được coi là giai đoạn trung tâm của quá trình tố tụng, bởi lẽ “không ai bị coi là là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Như vậy, để xác định một người có tội và phải chịu hình phạt hay không đòi hỏi phải đưa họ ra xét xử, mà trước hết là xét xử sơ thẩm VAHS. Toà an sau khi căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác; từ đó Hội đồng xét xử sẽ ra bản án, quyết định xác định có hành vi phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong VAHS.

Từ đó, có thể hiểu: “Xét xử sơ thẩm VAHS là xét xử ở cấp thứ nhất, được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ khi thụ lý VAHS đến khi ra quyết định bản án có hiệu lực”.

      1. . Đặc điểm của xét xử sơ thẩm VAHS

Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự: “Điều tra, truy tố, xét xử là các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, là các phần độc lập, liên quan đến nhau của quá trình tố tụng hình sự, phân biệt với nhau bởi những quyết định tố tụng, có những nhiệm vụ tố tụng cụ thể khác nhau, cơ quan tiến hành tố tụng khác nhau, những người tham gia tiến hành tố tụng tương ứng, có trình tự, thủ tục thực hiện các hành vi tố tụng khác nhau và đặc tính tố tụng khác nhau”.

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Đối với hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS thì Toà án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm, Toà án góp phần quan trọng vào việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện chính xác, nhanh chóng, xử lý công khai, kịp thời mọi hành vi phạm tội.

Xét xử là giai đoạn trung tâm quyết định quá trình giải quyết VAHS từ khi khởi tố, truy tố và đưa ra xét xử. Một người bị coi là có tội hay không phụ thuộc hoàn toàn vào giai đoạn xét xử, mà xét xử sơ thẩm là cấp đầu tiên. Vì vậy, việc xét xử sơ thẩm có tính chất đặc thù nhằm xem xét đánh giá chứng cứ, các yếu tố cấu thành tội phạm, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng VAHS mà đưa ra quyết định cuối cùng đối với một VAHS.

Xét xử sơ thẩm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới không có kháng cáo, kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, sẽ không làm phát sinh kháng nghị giám đốc thẩm. Ngược lại xét xử sơ thẩm không đúng người, đúng tội, đúng pháp luật sẽ dẫn tới phải xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và kết quả là bản án sơ thẩm sẽ bị sửa hoặc hủy bản án để điều tra xét xử lại.

Xét xử sơ thẩm VAHS đòi hỏi phải phát hiện nhanh chóng, xác định tội phạm một cách khách quan, toàn diện, xử lý công minh không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Từ đó áp dụng mức hình phạt tương xứng đối với người phạm tội, đảm bảo tính cưỡng chế, thực hiện chích sách của Đảng và Nhà nước ta và tăng cường tính giáo dục trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm.

      1. . Ý nghĩa của hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS

Xét xử sơ thẩm VAHS là hoạt động tập trung cao nhất của quá trình giải quyết một VAHS, đã đáp ứng những yêu cầu về tính dân chủ và tổ chức quyền lực của Nhà nước. Góp phần củng cố ý thức tuân thủ pháp luật của công dân, xác định đúng trách nhiệm của Nhà nước với công dân và nhằm mục đích thống nhất áp dụng pháp luật từ Trung ương đến địa phương.

Hoạt động xét xử sơ thẩm VAHS giúp Toá án đảm bảo đúng đường lối định hướng của Đảng dựa trên cơ sở tuân theo Hiến pháp và pháp luật nhằm đảm bảo cho vụ án được xét xử khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật; đảm bảo pháp chế, đảm bảo việc tuân theo pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu Nhà nước pháp quyền.

Xét xử sơ thẩm VAHS là nơi mà ở đó các chủ thể (người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng) được đảm bảo thể hiện ý chí của mình; Họ được công khai tranh tụng, đưa ra lập luận, căn cứ để bảo vệ mình hoặc bác bỏ lý do buộc tội của người khác thông qua việc cung cấp, kiểm tra chứng cứ hay đưa ra yêu cầu, vật chứng có liên quan trực tiếp đến việc giải quyết VAHS. Mức độ dân chủ ở phiên tòa xét xử sơ thẩm có tầm ảnh hưởng quan trọng đến tính khách quan của các phán quyết của Toà án.

Thông qua việc xét xử sơ thẩm góp phần nâng cao trình độ nghiệp vụ, năng lực công tác và kỹ năng nghề nghiệp của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên và Luật sư; đồng thời tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật đối với những người tham dự phiên toà. Việc phán quyết của TA đưa ra một mức xử lý quá nhẹ hay quá nặng so với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đều ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến ý thức pháp luật của mọi công dân.

Xét xử sơ thẩm VAHS còn góp phần trong quá trình phòng ngừa tội phạm: Phòng ngừa tội phạm là công việc của toàn xã hội, của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội. Công tác này đòi hỏi phải có những biện pháp tổng hợp về mặt kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng và cả những tác động của pháp luật; trong đó: Toà án giữ vai trong rất quan trọng.

1.2. Các nguyên tắc hiến định liên quan đến nguyên tắc xét xử sơ thẩm

1.2.1. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự là những quy định chung nhất được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự và mang ý nghĩa chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự.

Nội dung đầu tiên của nguyên tắc pháp chế là tính hợp pháp của hoạt động tố tụng, tính hợp pháp này thể hiện ở chỗ các hoạt động tố tụng phải được tiến hành theo quy định của pháp luật. Tính hợp pháp được coi là điều kiện tiên quyết của tố tụng hình sự, phù hợp với đòi hỏi và yêu cầu về tính tối thượng của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện các mục đích của hệ thống tư pháp hình sự nói chung.

Việc các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng tuân thủ triệt để nguyên tắc đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, không chỉ giới hạn ở chỗ hoạt động tố tụng của các chủ thể này tuân thủ triệt để trình tự về mặt thời gian của quá trình tố tụng hình sự mà còn phải tuyệt đối tuân thủ các thủ tục tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự quy định. Việc tuân thủ này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện nhiệm vụ của tố tụng hình sự, đó là làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đồng thời bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

Có thể nói rằng, quá trình tố tụng hình sự là một xâu chuỗi bao gồm nhiều hành vi tố tụng có tính chất khác nhau, do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Nguyên tắc đảm bảo pháp chế Xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự làm cho quá trình hình sự diễn ra theo đúng thứ tự trước sau, theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự mà không đảo lộn. Do vậy, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng không bị chồng chéo về chức năng, thẩm quyền, giúp quá trình tố tụng hình sự được vận hành một cách thống nhất, động bộ và đạt hiệu quả cao.

1.2.2. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 103 Hiến pháp 2013: “Việc xét xử sơ thẩm của TA nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Theo đó, Hiến pháp 2013 quy định việc xét xử sơ thẩm của TAND phải có Hội thẩm tham gia. Theo Điều 15 BLTTHS năm 2003 quy định: “Việc xét xử của TAND có Hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của TA quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”.

Việc tham gia của Hội thẩm nhân dân giúp cho Toà án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm nhân dân có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình. Với vốn hiểu biết thực tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập quán địa phương, Hội thẩm nhân dân sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp luật, được xã hội đồng tình ủng hộ.

Khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Pháp luật không chỉ quy định khi xét xử Hội đồng xét xử phải có Hội thẩm nhân dân tham gia mà còn quy định khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán, tức là Hội thẩm nhân dân cùng Thẩm phán quyết định giải quyết mọi vấn đề của vụ án không kể về nội dung hay thủ tục tố tụng. Mặc dù Hội thẩm không phải là cán bộ trong biên chế Toà án mà là người của cơ quan, tổ chức được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bầu hoặc cử làm đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử của Toà án, nhưng khi tham gia xét xử Hội thẩm lại ngang quyền với Thẩm phán, từ việc đọc hồ sơ vụ án, nghiên cứu chứng cứ, cho đến việc ra quyết định giải quyết vụ án. Đây là điều quan trọng để Hội thẩm nhân dân thực sự phát huy được vai trò là đại diện cho quần chúng nhân dân của mình.

1.2.3. Nguyên tắc Thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đề cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm. Buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tố tụng hay những kết luận của Viện kiểm sát đưa ra.

Nguyên tắc này đòi hỏi các Thẩm phán và Hội thẩm phải luôn luôn đề cao ý thức cá nhân với tư cách là người nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các Thẩm phán và Hội thẩm phải thật sự chí công vô tư, kiên quyết bảo vệ pháp luật. Nguyên tắc loại trừ việc can thiệp không cần thiết, thậm chí tiêu cực của các cơ quan, tổ chức khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.

Hơn nữa, xuất phát từ thực tiễn, chúng ta thấy nguyên tắc còn đảm bảo sự độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử, hạn chế sự phụ thuộc của Hội thẩm đối với Thẩm phán cũng như sự tác động tiêu cực của Thẩm phán đến Hội thẩm. Như vậy, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ được dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình và pháp luật là căn cứ duy nhất để giải quyết vụ án. Thẩm phán và Hội thẩm cần phát huy quyền năng cao quý của mình để giải quyết vụ án một cách khách quan, chính xác dựa trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ những quy định của pháp luật.

Tuân theo pháp luật hình sự: Luật hình sự nói chung bao gồm cả luật thực định và khoa học về luật hình sự. Bộ luật hình sự là căn cứ để xác định tội danh và mức hình phạt cho một hành vi phạm tội. Để có thể áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nắm vững kiến thức pháp luật từ đó xét xử đúng người, đúng tội theo quy định của pháp luật.

Tuân theo pháp luật tố tụng hình sự: Có thể chia hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm thành hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến trước ngày mở phiên tòa. Đây là giai đoạn Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nghiên cứu hồ sơ vụ án, từ đó xây dựng kế hoạch xét hỏi và những tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa, từ đó có kế hoạch ứng phó thích hợp với những diễn biến phát sinh. Giai đoạn thứ hai là tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc quy định của Bộ luật tố tụng hình sự từ thủ tục bắt đầu tại phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa, trong đó quan trọng nhất là phần xét hỏi, tranh luận và nghị án. Hội đồng xét xử cần phát huy vai trò là cán cân công lí của mình, xét xử đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định, đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của người phạm tội,…

1.2.4. Nguyên tắc Toà án xét xử công khai

Đây là một trong những nguyên tắc dân chủ của hoạt động xét xử được quy định tại Điều 131 Hiến pháp “TAND xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định” và cụ thể hóa trong Điều 18 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Theo đó, việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai, mọi công dân từ 16 tuổi trở lên đều có quyền tham dự và theo dõi diễn biến của phiên tòa xét xử. Nguyên tắc xét xử công khai cho phép có thể tường thuật, thông báo trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình… về toàn bộ diễn biến của phiên tòa hoặc một phần tùy từng trường hợp cụ thể do Hội đồng xét xử quyết định. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật Nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai. Như vậy, việc Toà án xét xử công khai chính là biểu hiện của dân chủ, là điều kiện để thực hiện dân chủ trong đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động tố tụng hình sự nói riêng. Việc quy định nguyên tắc này còn là điều kiện cho phép nhân dân giám sát hoạt động của Toà án. Nó đề cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; đồng thời giáo dục công dân tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật.

1.2.5. Nguyên tắc TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số

Nguyên tắc này là nguyên tắc Hiến định (Điều 131 Hiến pháp) và là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (Điều 17 BLTTHS, Điều 6 Luật tổ chức Toà án). Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, thành phần Hội đồng xét xử bao gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân, trong trường hợp đặc biệt thì gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân. Tuy Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập nhưng khi biểu quyết để quyết định đưa ra phán quyết cuối cùng thì nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số được áp dụng thực hiện nghiêm chỉnh. Tất cả các quyết định của Toà án phải được sự thống nhất của tập thể, không phụ thuộc vào ý kiến riêng của từng thành viên Hội đồng xét xử. Mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của hội đồng xét xử phải được bàn bạc và thông qua bằng kết quả biểu quyết theo đa số, Thẩm phán không được tự mình ra quyết định. Đối với những ý kiến thiểu số thì họ có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào hồ sơ của vụ án. Nguyên tắc này vừa thể hiện được tính nhân dân trong Nhà nước pháp quyền, vừa đảm bảo cho việc xét xử thận trọng, khách quan, công bằng. Phán quyết chỉ được đưa ra khi có đa số ý kiến đồng ý.

Nguyên tắc TAND xét xử tập thể và quyết định theo đa số có mối quan hệ mật thiết với một số nguyên tắc khác như “Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật”, “Nguyên tắc xét xử có hội thẩm nhân dân tham gia”… Việc thực hiện tốt các nguyên tắc khác chính là đảm bảo cho nguyên tắc này được thực hiện có hiệu quả.

1.2.6. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” (khoản 5 Điều 163 Hiến pháp năm 2013). Đây là nguyên tắc thể hiện nội dung rất quan trọng trong Cải cách tư pháp ở nước ta. Sự thật chỉ được xác định, công lý chỉ được thiết lập khi có sự tranh tụng giữa các bên trong tố tụng tư pháp, nhất là trong xét xử sơ thẩm VAHS. Việc đổi mới thủ tục tranh tụng tại phiên tòa được coi là khâu đột phá để nâng cao công tác xét xử, đảm bảo những phán quyết của Toà án đúng luật, mang lại công lý, niềm tin cho nhân dân và xã hội.

Trong thực tế, khi chủ tọa phiên tòa chủ động hỏi và bị cáo trả lời tạo ra một sự bất bình đẳng giữa một bên là Nhà nước, là Toà án và các cơ quan có thẩm quyền còn bên kia là bị cáo đương sự hoặc là những người có liên quan, không tạo ra được bầu không khí thật sự dân chủ. Để khắc phục tình trạng trên, Hiến pháp đã quy định “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Việc xét xử sơ thẩm của TAND có Hội thẩm nhân dân tham gia. Đây là cơ sở phù hợp để tạo điều kiện cho cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, là cách thức để tìm ra chân lý, làm sáng tỏ sự thật khách quan. Đặc biệt, tranh tụng sẽ là cách nâng cao nhận thức, tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử phải nâng cao năng lực trình độ, hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Nguyên tắc này góp phần rất quan trọng để Toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai, bảo đảm cho nền tư pháp nước ta là một nền tư pháp dân chủ, công bằng và công lý.

Muốn tranh tụng hình thành, trước tiên phải thay đổi nhận thức của các chức danh tư pháp. Trong quá trình xét xử, Viện kiểm sát là cơ quan buộc tội phải chủ động trình bày quan điểm, chứng cứ buộc tội của mình. Trên cơ sở đó, luật sư hoặc người bào chữa là những người đại diện cho thân chủ của mình chứng minh quan điểm gỡ tội của mình. Thông qua tranh luận đó, chủ tọa xem xét bên nào đúng bên nào sai. Muốn nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, cần chuyển đổi mô hình xét hỏi hiện nay sang mô hình vừa xét hỏi vừa tranh tụng hoặc chuyển hẳn sang mô hình tranh tụng.

Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Xét xử sơ thẩm VAHS trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1.2.7. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

Nguyên tắc này nhằm xác định trách nhiệm của ngành Toà án trong công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Toà án các cấp có thẩm quyền đảm bảo chất lượng xét xử cao nhất. Do vậy, cụ thể hóa nguyên tắc hai cấp xét xử của TAND là phải xác định căn cứ để áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Căn cứ để áp dụng thủ tục giám đốc thẩm phải xác định rõ ràng, minh bạc tính chất, mức độ sai lầm của quyết định hoặc bản án do Toà án các cấp giải quyết, xét xử đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm nghiêm trọng.

Nguyên tắc này khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vi dân. Để thực hiên mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền được ghi nhận tại Điều 2 của Hiến pháp năm 1992 thì trước tiên chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt là tố tụng hình sự góp phần tạo ra căn cứ pháp lý quan trọng để các chủ thể trong quan hệ tố tụng hình sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Vì vậy việc xác lập nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm đã thể hiện sự quan tâm của Nhà nước trước các quyền tự do, dân chủ của công dân và đây là một yếu tố chính trị khẳng định bản chất của Nhà nước trước các quốc gia khác.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU\TRAN NGOC ANH

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *