Tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập theo pháp luật Việt Nam

Tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập theo pháp luật Việt Nam

Tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập theo pháp luật Việt Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong xu thế hội nhập hiện nay, hoạt động kiểm toán độc lập hình thành và phát triển là một nhu cầu tất yếu khách quan của nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế muốn quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, các nhà đầu tư muốn thực hiện đầu tư kể cả cơ quan quản lý nhà nước muốn quản lý nền kinh tế đều cần phải có các thông tin tài chính, kinh tế chính xác, kịp thời và đáng tin cậy. Để đáp ứng được yêu cầu đó, đòi hỏi phải có một bên thứ ba độc lập khách quan có trình độ chuyên môn cao, được thị trường chấp nhận và được pháp luật cho phép cung cấp thông tin cho các đối tượng quan tâm. Vì vậy, nền kinh tế thị trường đã hình thành nên loại kiểm toán độc lập và khi nền kinh tế thị trường càng hoàn hảo, càng phát triển thì đòi hỏi hoạt động kiểm toán độc lập phải càng phát triển và hoàn thiện hơn. Từ đó hoạt động kiểm toán độc lập đã trở thành nhu cầu cần thiết để công khai, minh bạch thông tin tài chính, phục vụ lợi ích của doanh nghiệp, các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế, tài chính của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Nhận thức được nhu cầu của hoạt động kiểm toán độc lập, số lượng các công ty cung cấp dịch vụ kiểm toán cũng vì vậy ngày càng tăng lên. Sự gia tăng về số lượng các công ty kiểm toán độc lập càng thể hiện tầm quan trọng của kiểm toán độc lập. Và một câu hỏi đặt ra là liệu việc tổ chức bộ máy kiểm toán tại các công ty này đã phù hợp chưa và có đảm bảo chất lượng cho các cuộc kiểm toán mà họ thực hiện không?

Bộ máy kiểm toán gồm cả con người và phương tiện chứa đựng các yếu tố của kiểm toán để thực hiện chức năng kiểm toán. Tổ chức bộ máy kiểm toán với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động linh hoạt nhằm thích ứng với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm toán trong các cuộc kiểm toán cụ thể và hướng tới việc thực viện các chức năng của kiểm toán.

Nhận thức được tầm quan trọng mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động kiểm toán của DNKT độc lập, tìm hiểu lý luận và thực tiễn, tôi đã chọn đề tài “Tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập theo pháp luật Việt Nam” để làm Luận văn Thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

– Phân tích cơ sở lý luận của pháp luật về hoạt động kiểm toán độc lập và DNKT độc lập.

– Phân tích các quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập, từ đó đưa ra những vướng mắc trong thực tiễn về áp dụng pháp luật.

– Đưa ra các giải pháp hướng dẫn hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động và định hướng nâng cao hiệu quả của DNKT độc lập trong nền kinh tế Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được xác định là:

– Đưa ra khái niệm, đặc điểm, cơ cấu tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập.

– Phân tích các quy định pháp luật hiện hành về DNKT độc lập.

– Phân tích tình hình áp dụng pháp luật thông qua thực tiễn hoạt động kiểm toán của DNKT độc lập, đưa ra những tồn tại vướng mắc trong áp dụng pháp luật.

– Đưa ra một số giải pháp để hướng dẫn hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động và định hướng nâng cao hiệu quả của DNKT độc lập trong nền kinh tế Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

– Hệ thống quan điểm, các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập.

– Các văn bản pháp luật như: Luật Kiểm toán độc lập năm 2011 và các nghị định chuyên ngành và có liên quan đến lĩnh vực kiểm toán độc lập.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về không gian: Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập theo quy định của Luật Kiểm toán độc lập năm 2011; nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật sau khi Luật Kiểm toán độc lập năm 2011 có hiệu lực.

Về thời gian: Từ năm 2011 đến năm 2018.

Về phạm vi: Các DNKT độc lập tại Việt Nam nói chung và tại Công ty TNHH Kiểm toán FAC nói riêng .

5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin, kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cơ bản như: phương pháp tổng hợp, phân tích, khái quát hóa trong khi tìm hiểu, đánh giá pháp luật về DNKT độc lập nhằm tìm ra những hạn chế và đề xuất giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy kiểm toán tại các công ty và chất lượng cho các cuộc kiểm toán mà họ thực hiện.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Luận văn đã hệ thống hóa, phân tích và làm sâu sắc hơn các vấn đề lý luận về DNKT độc lập;

– Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật quy định về DNKT độc lập và thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của DNKT độc lập ở Việt Nam;

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, Luận văn đề xuất các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả của DNKT độc lập trong nền kinh tế Việt Nam.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập.

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập theo pháp luật Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán độc lập.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP KIỂM TOÁN ĐỘC LẬP

1.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng của kiểm toán độc lập

1.1.1. Khái niệm kiểm toán độc lập

Kiểm toán độc lập là hoạt động cung cấp dịch vụ tư vấn, ra đời và phát triển trong nền kinh tế thị trường trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Kiểm toán độc lập xuất hiện và phát triển theo nhu cầu tự thân của nền kinh tế, hoạt động kiểm toán độc lập phục vụ cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, sau đó được Nhà nước thừa nhận do hiệu quả và tính chất xã hội của nó.

Trên thế giới, kiểm toán độc lập phát triển mạnh ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, đại diện là các công ty được thành lập từ những năm cuối của thế kỷ XIX phát triển đến hiện nay và trở thành những công ty kiểm toán hàng đầu thế giới và được thế giới thừa nhận là nhóm Big Four như: Ernst&Young, Price Waterhouse Cooper, KPMG Peat Marwich, Deloitte Touche. Hình thức tổ chức của các tổ chức kiểm toán ở các nước không hoàn toàn giống nhau. Mỗi nước, luật pháp quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức kiểm toán, thừa nhận sự khách quan và độc lập của kiểm toán, vì thế mà xuất hiện rất nhiều định nghĩa khác nhau và cách tiếp cận khác nhau về kiểm toán độc lập. Dưới đây ta sẽ viện dẫn một số định nghĩa về kiểm toán được sử dụng phổ biến hiện nay trên thế giới.

Theo Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International Federation of Accountants – IFAC) định nghĩa thì: “Kiểm toán là việc các KTV độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính” [18].

Theo quan niệm của các chuyên gia kiểm toán Hoa Kỳ: “Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về thông tin có thể lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với những tiêu chuẩn đã được thiết lập” [21].

Trong Giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James K.Loebbecker cho rằng: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập”. Còn trích từ Auditing – Theory & Practice của John Dunn, University of Strathclyde, Glasgow Nhà xuất bản Prentice Hall thì: “Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin đặc trưng được xác định bởi KTV hoặc thiết lập bởi thực hành chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến kết luận về cái được kiểm toán”.

Ở Việt Nam, theo Thông tư số 22-TC/CĐKT ngày 19/3/1994 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện Quy chế kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân ban hành kèm theo Nghị định số 07/CP ngày 29/01/1994 của Chính phủ thì: “Kiểm toán độc lập là loại hình hoạt động dịch vụ kiểm toán vầ tư vấn tài chính kế toán do các KTV chuyên nghiệp của các tổ chức kiểm toán độc lập thực hiện theo yêu cầu của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan”. Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/4/2004 của Chính phủ cũng quy định: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và xác nhận của KTV và DNKT về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này”.

Khái niệm kiểm toán độc lập được xác định đầy đủ hơn theo các quy định của Luật Kiểm toán độc lập năm 2011: “Kiểm toán độc lập là việc KTV hành nghề, DNKT, chi nhánh DNKT nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán”.

Như vậy, kiểm toán độc lập là hoạt động được tiến hành bởi các KTV thuộc các Công ty, Văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp nhằm xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động của đối tượng được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và kiểm toán ngoài chứng từ. Hoạt động chủ yếu của kiểm toán độc lập là kiểm toán Báo cáo tài chính. Ngoài ra, theo yêu cầu của khách hàng, KTV độc lập còn có thể thực hiện các dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán và kiểm toán khác.

1.1.2. Đặc điểm của kiểm toán độc lập

Trong từng giai đoạn phát triển, kiểm toán độc lập có những đặc điểm khác nhau, tuy nhiên nổi bậc và xuyên suốt nhất thì đặc điểm của kiểm toán độc lập được thể hiện qua một số nội dung như sau:

Một là, đối tượng của kiểm toán độc lập là thực trạng hoạt động tài chính, tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính cùng hiệu quả và hiệu năng của các nghiệp vụ hay dự án cụ thể.

Thực trạng hoạt động tài chính là đối tượng chung của kiểm toán, có thể hiểu theo nghĩa chung nhất là dùng tiền để giải quyết các mối quan hệ kinh tế trong đầu tư, kinh doanh, trong phân phối và thanh toán nhằm đạt tới lợi ích kinh tế xác định. Để giải quyết tốt các mối quan hệ kinh tế xã hội theo mục tiêu đã xác định, hoạt động tài chính phải có kế hoạch; phải đảm bảo có lợi và tiết kiệm và phải đảm bảo tuân thủ pháp luật và thể lệ tài chính. Mặt khác hoạt động này thường phức tạp trên nhiều lĩnh vực, gồm nhiều loại tài sản, các tài sản hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau nên khi tiến hành kiểm toán phải chọn trọng điểm và áp dụng các phương pháp kiểm toán thích hợp.

Tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính và hiệu quả, hiệu năng là đối tượng cụ thể của kiểm toán.

Tài liệu kế toán trước hết là các báo cáo tài chính, là đối tượng trực tiếp và thường xuyên của mọi cuộc kiểm toán. Các đối tượng cụ thể của kiểm toán thuộc phạm vi tài liệu kế toán bao gồm:

+ Tính hiệu lực của các thông tin kế toán.

+ Tính hợp pháp của các biễu mẫu, trình tự lập và luân chuyển các tài liệu này.

+ Tính hợp lý của các đối tượng kế toán phù hợp với nội dung của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

+ Tính pháp lý trong việc thực hiện các luật pháp, chuẩn mực và chế độ kinh tế tài chính.

Thực trạng tài sản được biểu hiện dưới nhiều hình thái vật chất khác nhau với yêu cầu về quy cách, phẩm chất, bảo quản…khác nhau với những người quản lý khác nhau. Thêm vào đó lại xuất hiện nhiều loại tài sản mới do quy mô kinh doanh mở rộng, các mối liên hệ kinh tế ngày càng phức tạp…Tất cả những yếu tố này dẫn đến khả năng cách biệt giữa tài sản với sự phản ánh của nó trong thông tin kế toán. Thực tế đó đã thúc đẩy sự ra đời của kiểm toán cùng tính tất yếu phải đặt thực trạng của tài sản vào đối tượng kiểm toán.

Tài sản trong kinh doanh cũng như trong mội lĩnh vực hoạt động khác thường xuyên vận động. Trong khi đó nghiệp vụ tài chính là các thao tác khác nhau thong quá trình vận động và hình thành vốn. Số lượng các nghiệp vụ tài chính tương đối lớn phụ thuộc nhiều loại hình kinh doanh của từng doanh nghiệp.

Ngoài tài liệu kế toán, thực trạng tài sản và nghiệp vụ tài chính, theo quan điểm hiện đại đối tượng kiểm toán còn bao gồm cả hiệu quả và hiệu năng. Hiệu quả được hiểu là quan hệ giữa một bên là các sản phẩm, dịch vụ làm ra với một bên là nguồn lực đã tạo ra chúng với yêu cầu có kết quả tối đa, với chi phí về nguồn lực tối thiểu. Còn hiệu năng là xét đến mục tiêu, kết quả cụ thể của một chương trình. Hiệu quả thường gắn với hoạt động kinh doanh còn hiệu năng thường gắn với hoạt động quản lý. Đây là đối tượng hoàn toàn mới, tuy nhiên trên góc độ kiểm toán thì cả hiệu quả và hiệu năng là một bộ phận của kiểm toán nghiệp vụ, gắn liền với một nghiệp vụ hay chương trình cụ thể.

Hai là, mục đích của kiểm toán độc lập là kiểm tra, xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp, trung thực, hợp lý của thông tin trình bày trên báo cáo tài chính phục vụ cho việc ra quyết định của các đối tượng sử dụng thông tin. Nói cách khác, mục đích của kiểm toán độc lập là để có được những thông tin đáng tin cậy. Để đạt được mục đích của kiểm toán độc lập thì cần phải có một bên thứ ba độc lập, khách quan, có kỹ năng nghề nghiệp, địa vị và trách nhiệm pháp lý kiểm tra và đưa ra kết luận là các báo cáo tài chính của doanh nghiệp lập ra có hợp thức không, có trung thực và hợp lý hay không. Đó chính là công việc của KTV độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp. Kiểm toán độc lập hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu này của nền kinh tế. Luật pháp nhiều nước khẳng định rằng, chỉ những báo cáo đã được xem xét và có chữ ký của KTV độc lập mới được coi là hợp pháp, làm cơ sở cho Nhà nước tính thuế cũng như các bên quan tâm khác đưa ra các quyết định kinh tế trong mối quan hệ với doanh nghiệp.

Ba là, chủ thể kiểm toán độc lập là các KTV được cấp chứng chỉ hành nghề hợp pháp thuộc các công ty, các văn phòng kiểm toán chuyên nghiệp. Theo tiêu chuẩn của IFAC (Liên đoàn Kế toán Quốc tế) và luật pháp các nước thành viên đều quy định các yêu cầu cơ bản của KTV là: Phải có kỹ năng và khả năng nghề nghiệp; chính trực, khách quan; độc lập và tôn trọng bí mật.

Về kỹ năng và khả năng của KTV.

Việc thực hiện kiểm toán và lập báo cáo kiểm toán phải được tiến hành một cách thận trọng theo yêu cầu nghề nghiệp. Năng lực chuyên môn là nhân tố quan trọng đối với KTV. Năng lực chuyên môn cao hay thấp sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của cuộc kiểm toán, bởi nó ảnh hưởng đến khả năng của KTV trong việc đánh giá tính trung thực hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính, phát hiện ra các sai phạm và đưa ra ý kiến kiểm toán hợp lý. Do đó KTV phải có năng lực, kỹ thuật và kỹ năng đặc biệt. Điều đó đạt được thông qua việc kết hợp giữa quá trình đào tạo phổ thông với các hiểu biết về nghiệp vụ đạt được thông qua tự nghiên cứu và các chương trình đào tạo chính thức được kết thúc bằng các kỳ thi có cấp chứng chỉ cũng như các kinh nghiệm thực tiễn đã được kiểm nghiệm đúng đắn. Hơn nữa, KTV phải tiếp tục nhận thức được sự phát triển về kế toán, kiểm toán qua các văn bản chuyên ngành thích hợp do quốc gia và quốc tế công bố cũng như các quy định có liên quan và các yêu cầu của pháp luật.

Trình độ chuyên môn còn yêu cầu về kinh nghiệm làm việc. Cần phải mất vài năm để trở thành một KTV đạt trình độ nhất định. Mặc dù các tổ chức có những quy tắc hơi khác nhau nhưng nhìn chung, mọi tổ chức đều có nhưng yêu cầu tối thiểu để kết nạp thành viên. Sau khi trở thành một kế toán viên đủ trình độ người đó vẫn chưa được phép làm KTV, mọi tổ chức chuyên nghiệp đều chủ trương là các thành viên của mình không được làm các dịch vụ kế toán trừ khi họ đã có chứng chỉ hành nghề. Trong thực tế rất ít kế toán viên chuyên nghiệp được cấp chứng chỉ hành nghề mà cam chịu sử dụng nghề nghiệp của mình để làm thuê cho các văn phòng chuyên nghiệp hay trong ngành.

Ngoài ra, trong điều kiện nền kinh tế tài chính thế giới ngày càng quốc tế hóa sâu rộng, KTV cần phải thông thạo ngoại ngữ để có thể trao đổi với khách hàng để công việc kiểm toán có thể diễn ra thuận lợi và các báo cáo kiểm toán có giá trị quốc tế. Mặt khác khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, máy tính trở nên phổ biến, KTV cần phải có kỹ năng tin học, thành thạo các phần mềm kế toán, phần mềm kiểm toán,… Kỹ năng giao tiếp cũng là một kỹ năng quan trọng của KTV. Có được một nghệ thuật giao tiếp tốt, KTV sẽ tránh được những hiểu nhầm, tạo thuận lợi trong việc thu thập các số liệu làm bằng chứng kiểm toán và nhất là có thể duy trì một mối quan hệ tốt đẹp và lâu dài giữa công ty kiểm toán và khách hàng kiểm toán.

– Về chính trực và khách quan

Trình độ chuyên môn là một yêu cầu không thể thiếu của KTV trong việc đưa ra ý kiến của mình đối với báo cáo tài chính. Bên cạnh đó kiểm toán hoạt động mang tính chủ quan, KTV căn cứ vào những bằng chứng thu thập được và KTV dựa vào những kinh nghiệm nghề nghiệp và khả năng phán xét để đưa ra những ý kiến nhận xét trên báo cáo tài chính. KTV phải là người thẳng thắn, trung thực và có lương tâm nghề nghiệp, phải là người trong sáng không được phép để cho sự định kiến thiên lệch lấn át tính khách quan. KTV phải điều chỉnh mình cho phù hợp với uy tín của ngành nghề, uy tín của bản thân và của DNKT, phải tự kiềm chế những đức tính có thể phá vỡ uy tín nghề nghiệp.

– Về độc lập của KTV.

Một vấn đề cực kì quan trọng là KTV phải được người sử dụng báo cáo kiểm toán tin tưởng. Và họ không thể tin vào báo cáo kiểm toán nếu họ cảm thấy nội dung của báo cáo đó đã chịu ảnh hưởng của ban giám đốc doanh nghiệp được kiểm toán. Độc lập bao gồm độc lập về tư tưởng và độc lập cả về hình thức. Độc lập về tư tưởng là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá nghề nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng trong nghề nghiệp. Độc lập về hình thức là không có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hưởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của nhân viên công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không được duy trì. Ngoài ra một KTV không thể được xem là độc lập, nếu người đó phụ thuộc quá nhiều vào thù lao do khách hàng trả.

Vì vậy, khi hành nghề kiểm toán thì KTV phải thể hiện tính độc lập của mình, không để cho các ảnh hưởng chủ quan, khách quan hoặc sự chi phối của vật chất làm mất đi tính độc lập. Trong quá trình kiểm toán, nếu có sự hạn chế về tính độc lập của KTV thì KTV phải tìm cách loại bỏ sự hạn chế này, nếu không hạn chế được thì KTV phải diễn đạt điều này trong báo cáo kiểm toán.

– Về tôn trọng bí mật của KTV.

Trong tiến trình kiểm tra, các KTV thu được một số lượng thông tin đáng kể bảo mật như lương, chi phí, kế hoạch…. Nếu KTV tiết lộ những thông tin này cho những người ở bên ngoài hoặc cho các nhân viên của công ty khách hàng là những người bị ngăn chặn không cho tiếp cận những thông tin đó, mối quan hệ của họ với ban quản lý sẽ bị căng thẳng nghiêm trọng và trong trường hợp cực đoan sẽ là nguyên nhân làm hại đến công ty khách hàng. Hơn nữa việc tiếp cận với các bản tư liệu sẽ cho các nhân viên của công ty khách hàng một cơ hội để làm thay đổi thông tin trên các tư liệu đó. Vì những lý do này, luôn luôn phải cẩn trọng để bảo vệ các bản tư liệu. Chính vì vậy, KTV phải tôn trọng các bí mật của những thông tin đã thu thập được trong quá trình kiểm toán, không được để lộ bất cứ thông tin kiểm toán nào cho người thứ ba khi không có sự uỷ quyền đặc biệt hoạc có trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu phải công bố.

Bốn là, đối tượng áp dụng kiểm toán là các đơn vị được DNKT độc lập thực hiện kiểm toán. Đối tượng áp dụng kiểm toán độc lập có thể chia ra làm hai loại: Loại bắt buộc báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi các tổ chức kiểm toán độc lập và loại thứ hai là loại tự nguyện. Doanh nghiệp thuộc loại bắt buộc báo cáo tài chính phải được kiểm toán bởi KTV độc lập là các doanh nghiệp phải được kiểm toán theo yêu cầu của quan hệ thị trường hoặc theo yêu cầu quản lý của nhà nước và được nhà nước quy định cụ thể bằng pháp luật. Theo yêu cầu của quan hệ thị trường là do tính ảnh hường của doanh nghiệp này đến các chủ thể tham gia thị trường lớn, việc tăng trưởng hay không của doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng lớn đến lợi ích của các chủ thể có liên quan. Bên cạnh đó trên thị trường còn một số doanh nghiệp mà theo yêu cầu quản lý nhà nước, nhà nước cần phải kiểm soát và chi phối, để có cơ sở kiểm soát nhà nước bắt buộc phải kiểm toán độc lập hàng năm thay vì nhà nước phải thanh tra, kiểm tra hàng năm. Doanh nghiệp thuộc loại tự nguyện thuê dịch vụ kiểm toán độc lập thường do bản thân doanh nghiệp có nhu cầu nhằm tăng cường năng lực quản lý hoặc muốn minh bạch số liệu báo cáo tài chính cho các cổ đông.

Ở Việt Nam các doanh nghiệp thuộc loại bắt buộc báo cáo kiểm toán phải được kiểm toán độc lập được quy định cụ thể trong Luật Kiểm toán độc lập năm 2011, cụ thể như sau:

– Doanh nghiệp, tổ chức mà pháp luật quy định báo cáo tài chính hàng năm phải được DNKT, chi nhánh DNKT nước ngoài tại Việt Nam kiểm toán, bao gồm:

+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài;

+ Tổ chức tín dụng được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng;

+ Tổ chức tài chính, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm;

+ Công ty đại chúng, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng khoán.

– Doanh nghiệp, tổ chức phải được DNKT, chi nhánh DNKT nước ngoài tại Việt Nam kiểm toán, bao gồm:

+ Doanh nghiệp nhà nước, trừ doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm;

+ Doanh nghiệp, tổ chức thực hiện dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A sử dụng vốn nhà nước, trừ các dự án trong lĩnh vực thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật phải được kiểm toán đối với báo cáo quyết toán dự án hoàn thành;

+ Doanh nghiệp, tổ chức có vốn góp của Nhà nước và dự án sử dụng vốn nhà nước khác do Chính phủ quy định phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự án hoàn thành: Doanh nghiệp, tổ chức mà các tập đoàn, tổng công ty nhà nước nắm giữ từ 20% quyền biểu quyết trở lên tại thời điểm cuối năm tài chính phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm; Doanh nghiệp mà các tổ chức niêm yết, tổ chức phát hành và tổ chức kinh doanh chứng khoán nắm giữ từ 20% quyền biểu quyết trở lên tại thời điểm cuối năm tài chính phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm;

+ DNKT, chi nhánh DNKT nước ngoài tại Việt Nam phải được kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm.

Đối với trường hợp tự nguyện, Nhà nước khuyến khích tất cả các doanh nghiệp và tổ chức thuê DNKT thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm hoặc báo cáo quyết toán dự án đầu tư trước khi nộp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc trước khi công khai tài chính. Tuy nhiên các doanh nghiệp thường tự nguyện kiểm toán khi:

– Doanh nghiệp muốn làm ăn chính đáng, luôn đòi hỏi sự chính xác, trung thực, khách quan của số liệu;

– Khi sáp nhập hoặc chia tách doanh nghiệp;

– Khi xảy ra sự cố, rủi ro lớn về kinh tế;

Có thể kể đến một ví dụ điển hình là khi các doanh nghiệp và tổ chức có nhu cầu vay vốn ngân hàng thương mại hay sử dụng vốn của các tổ chức quốc tế thì cũng phải thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính theo yêu cầu của các tổ chức đó.

Năm là, phạm vi kiểm toán độc lập. Để hình thành ý kiến nhận xét về các báo cáo tài chính, KTV phải có được các căn cứ vững chắc cũng như các thông tin cốt yếu trong công việc ghi chép kế toán và các nguồn số liệu đáng tin cậy khác đã được dùng làm cơ sở cho việc xây dựng các báo cáo tài chính, hay nói cách khác, KTV phải có đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp. Do vậy, phạm vi kiểm toán sẽ là những công việc, thủ tục kiểm toán cần thiết mà KTV xác định và thực hiện trong quá trình kiểm toán để thu thập đầy đủ các bằng chứng thích hợp cho ý kiến kiểm toán hay nói như chuyên môn kiểm toán là để đạt được mục tiêu kiểm toán. Những công việc, thủ tục kiểm toán sẽ phụ thuộc vào nội dung kiểm toán, tuy nhiên những thủ tục kiểm toán này phải được xác định trên cơ sở chuyên môn kiểm toán, phù hợp với yêu cầu của Hiệp hội nghề nghiệp, phù hợp với pháp luật và các thoả thuận trong hợp đồng kiểm toán. Xác định phạm vi kiểm toán có ý nghĩa quan trọng, mà trước hết các đơn vị được kiểm toán cần có những hiểu biết nhất định về kiểm toán, yêu cầu của kiểm toán và việc tiến hành chặn công việc của KTV đều dẫn đến việc phạm vi kiểm toán bị giới hạn, trong trường hợp này, nếu KTV không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán thay thế khác một cách hợp lý, khi đó cần đưa ra ý kiến từ chối. Tuy nhiên, đôi khi do hạn chế về thời gian, hoàn cảnh cũng có thể dẫn đến phạm vi kiểm toán bị giới hạn. Trong những trường hợp như vậy, KTV phải cố gắng tìm ra các phương pháp hợp lý để thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và thích hợp để có thể nêu ý kiến “chấp nhận toàn bộ” trong báo cáo kiểm toán. Nếu không, tuỳ theo tính chất, mức độ trọng yếu và các bằng chứng bổ sung mà KTV đánh giá mức độ cần thiết đề đưa ra ý kiến phù hợp.

1.1.3. Chức năng của kiểm toán độc lập

Chức năng của kiểm toán độc lập là kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, trung thực và hợp lý của các số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan và trên cơ sở kết quả kiểm toán đưa ra những kết luận đánh giá việc tuân thủ pháp luật, chính sách, chế độ tài chính kế toán và hiệu quả hoạt động của đơn vị. Từ đó có thể thấy, kiểm toán độc lập có ba chức năng chính là: Chức năng kiểm tra, thẩm định thông tin; chức năng xác nhận và chức năng tư vấn.

Chức năng kiểm tra, thẩm định thông tin là chức năng cơ sở mà KTV sẽ sử dụng các phương pháp đặc thù để tiến hành kiểm tra, thẩm định tính đúng đắn, trung thực, hợp lý, hợp pháp của thông tin. Chức năng này gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của hoạt động kiểm toán. Kiểm tra và thẩm định là hình thức kiểm tra sau khi các hoạt động tài chính diễn ra. Quan hệ giữa kiểm tra và thẩm định với các hoạt động kiểm toán là quan hệ giữa “cái chung và cái riêng”, giữa cái tổng thể và phương diện biểu hiện ra với tính chất là các nghiệp vụ cụ thể của tổng thể đó. Thông qua chức năng kiểm tra và thẩm định thì KTV dựa trên các bằng chứng xác nhận thực trạng tài chính của doanh nghiệp, xác nhận tính đúng đắn của thông tin đã được ghi nhận trên báo cáo tài chính. Việc xác nhận đó đồng nghĩa với việc giải tỏa trách nhiệm cho những người cung cấp thông tin.

Qua kiểm tra, thẩm định và xác nhận từ góc nhìn của kiểm toán, KTV sẽ thấy những mặt mạnh và mặt yếu của thực trạng tài chính và đưa ra những ý kiến tư vấn cho cán bộ quản lý nhằm thiết lập lại kỷ cương hệ thống tài chính và hướng tới hiệu quả, chất lượng.

Hoạt động kiểm toán giúp cho các đơn vị phát hiện ra những nội dung mà pháp luật quy định còn chưa chặt chẽ, bất cập để kiến nghị các cơ quan hữu quan sửa đổi cho phù hợp. Trong quá trình kiểm toán, nếu phát hiện những dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì KTV phải thông báo với cơ quan thi hành pháp luật để cơ quan này thực hiện nhiệm vụ.

1.2. Khái niệm, đặc điểm, chức năng, loại hình doanh nghiệp của doanh nghiệp kiểm toán độc lập

1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp kiểm toán độc lập

DNKT độc lập là doanh nghiệp thực hiện chức năng của kiểm toán độc lập. Như vậy DNKT độc lập trước tiên phải là một doanh nghiệp được thành lập và tổ chức hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, chịu sự điều chỉnh chung của pháp luật về doanh nghiệp. Ngoài ra doanh nghiệp để thực hiện chức năng kiểm toán độc lập phải đảm bảo các quy định về điều kiện hoạt động của kiểm toán độc lập theo quy định của pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành về ngành nghề kinh doanh kiểm toán độc lập.

Có thể khái niệm, DNKT độc lập là doanh nghiệp được thành lập và tổ chức hoạt động theo pháp luật về doanh nghiệp và đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán độc lập theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp kiểm toán độc lập

Kiểm toán độc lập là một trong các loại hình được phân theo chủ thể kiểm toán, ngoài ra còn có kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ. Kiểm toán độc lập là hoạt động đặc trưng của kinh tế thị trường. DNKT độc lập là doanh nghiệp thực hiện chức năng kiểm toán, do vậy nó có những đặc điểm riêng đó là:

– Khác với kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ, DNKT độc lập thực hiện kiểm toán hoặc tư vấn theo yêu cầu của khách hàng, chủ thể bên ngoài DNKT. Đây là loại hình dịch vụ được pháp luật thừa nhận và bảo hộ, được quản lý chặt chẽ bởi cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và hiệp hội nghề nghiệp. Quan hệ giữa DNKT và khách hàng là quan hệ mua bán dịch vụ, khách hàng phải trả phí dịch vụ cho DNKT theo thỏa thuận. Kiểm toán nhà nước và kiểm toán nội bộ thực hiện kiểm toán theo yêu cầu quản lý của chủ thể kiểm toán, nhà nước hoặc chủ doanh nghiệp.

– DNKT độc lập là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có điều kiện, chịu sự quản lý, kiểm soát chặt chẽ của nhà nước. Chất lượng dịch vụ của DNKT độc lập có tính ảnh hưởng lớn đến hiệu quả quản lý của doanh nghiệp được kiểm toán, hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư, hiệu quả quản lý của cơ quan quản lý nhà nước.

– DNKT độc lập là loại hình doanh nghiệp mang tính đối nhân nhiều hơn đối vốn, mặc dù DNKT độc lập có loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên và phải có vốn pháp định. Tuy nhiên do yêu cầu quản lý về ngành nghề nên yêu cầu về vốn đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên kiểm toán độc lập vẫn là thứ yếu. Trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, pháp luật đều quy định chủ sở hữu DNKT hoặc sở hữu vốn chi phối của DNKT đều phải là kiểm toán viên hành nghề.

– Do tính chuyên nghiệp và đòi hỏi chuyên môn cao của kiểm toán độc lập nên DNKT độc lập có phạm vi hoạt động chỉ hạn chế trong các ngành nghề dịch vụ và tư vấn liên quan đến kiểm toán, kế toán. DNKT độc lập không được kinh doanh các ngành nghề khác ngoài phạm vi quy định của pháp luật.

1.2.3. Chức năng của doanh nghiệp kiểm toán độc lập

Hoạt động kiểm toán độc lập là hoạt động kiểm toán rất phổ biến ở các nước có nền kinh tế phát triển, vì thế hoạt động kiểm toán nói chung thường được coi là hoạt động kiểm toán độc lập. Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động kiểm toán độc lập ra đời và trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho những người sử dụng kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính họ được cung cấp có được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và các thông tin đó có trung thực và hợp lý hay không.

Ở nhiều quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển quy định chỉ có các báo cáo tài chính đã được DNKT thực hiện kiểm toán độc lập mới có giá trị pháp lý và đáng tin cậy. Do đó, chức năng của DNKT độc lập trong hoạt động kiểm toán độc lập thể hiện như sau:

Thứ nhất, DNKT độc lập tạo niềm tin cho những người quan tâm, có thể kể đến là:

– Các cơ quan Nhà nước cần có thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Cơ quan thuế sẽ căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán để tính và thu thuế trừ khi có nghi vấn mới kiểm tra lại. Về nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, các doanh nghiệp thường muốn nộp ít để chiếm chiếm dụng phần thiếu phải nộp Nhà nước nên họ sẽ khai tăng các khoản chi phí để làm giảm lợi nhuận và như thế thuế phải nộp sẽ ít đi. Tuy nhiên nếu được kiểm toán thì sai phạm này sẽ được phát hiện và điều chỉnh.

– Người lao động cũng cần thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, về phân phối lợi nhuận, về thực hiện chính sách tiền lương và bảo hiểm…Nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng thông qua hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh.

– Khách hàng, nhà cung cấp và những nhà quan tâm khác cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh và tài chính của các đơn vị được kiểm toán về nhiều mặt: Số lượng và chất lượng của sản phẩm hàng hoá, có cấu tài sản và khả năng thanh toán, hiệu năng và hiệu quả các bộ phận cung ứng, tiêu thụ hoặc sản xuất ở đơn vị được kiểm toán.

– Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay vốn cũng phải hiểu rõ tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng để quyết định cho vay, thu hồi vốn hoặc không cho vay. Hoạt động kiểm toán sẽ giúp ngân hàng hoặc những người cho vay làm việc đó.

– Trong các quan hệ kinh tế, thông qua các dịch vụ mà DNKT độc lập cung cấp, các doanh nghiệp đã có sự tin cậy lẫn nhau, trung thực trình bày về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để các doanh nghiệp đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thông qua DNKT độc lập sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc các bên phải tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tư nước ngoài đã được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu cầu quản lý của nhà đầu tư và đối tượng quan tâm khác. Do vậy kiểm toán độc lập ra đời đã đáp ứng tốt nhu cầu của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, góp phần cải thiện môi trường đầu tư.

Thứ hai, DNKT độc lập góp phần hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nề nếp hoạt động tài chính kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị nói chung. Hoạt động tài chính bao gồm những mối quan hệ đa dạng, luôn luôn biến đổi và được cấu thành bởi hàng loạt nghiệp vụ cụ thể. Để hướng các nghiệp vụ này vào mục tiêu giải quyết tốt các mối quan hệ trên không chỉ cần có định hướng đúng và thực hiện tốt mà cần thường xuyên soát xét việc thực hiện để hướng các nghiệp vụ vào quỹ đạo mong muốn.

Thứ ba, DNKT độc lập góp phần nâng cao hiệu quả và năng lực quản lý của doanh nghiệp được kiểm toán. Rõ ràng kiểm toán không chỉ có chức năng xác minh mà còn có chức năng tư vấn. Các chủ doang nghiệp không thể kiểm soát hết các nghiệp vụ tài chính kế toán đã xảy ra trong doanh nghiệp. Vì vậy họ thường kiểm soát thông qua người phụ trách kế toán. Để biết được một cách chính xác, trung thực tình hình tài chính kế toán của mình vào kỳ hạn nào đó, người chủ doanh nghiệp thường mời các KTV chuyên nghiệp độc lập có uy tín thực hiện việc kiểm tra và nhận xét bảng báo cáo tài chính của doanh nghiệp mình do người phụ trách kế toán lập ra.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\LUẠT KINH TE\TRAN HOANG HA\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *