Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

1. Tính cấp thiết của đề tài

Chính sách việc làm là một trong những chính sách cơ bản của mỗi quốc gia. Chính sách việc làm có mục tiêu xã hội là nâng cao phúc lợi cho người dân, thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo cho người dân hòa nhập xã hội, giảm dần sự tách biệt xã hội. Chính sách việc làm ở nước ta thời gian qua đã từng bước thực hiện được mục tiêu đó.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX xác định: “ Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát triển nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và nhu cầu bức xúc của nhân dân”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng đã xác định rõ: “ Phát triển thị trường lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung – cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm”.

Trong những năm qua, các cơ chế, chính sách về việc làm được đánh giá kịp thời và sửa đổi bổ sung ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động, người sử dụng lao động và tuân thủ các quy luật kinh tế thị trường; tuy nhiên vẫn còn có nhiều hạn chế, bất cập, cần tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh. Nếu chính sách việc làm không được quan tâm xây dựng và triển khai thực hiện một cách tích cực, thường xuyên, khoa học sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của mỗi địa phương nói riêng – trong đó có tỉnh Quảng Ngãi.

Quảng Ngãi là một tỉnh thuộc vùng duyên hải miền Trung, với quy mô dân số 1.218.621 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động là 771.991 người, chiếm tỉ lệ 63%. Cơ cấu lao động trong ngành nông – lâm – ngư chiếm tỉ lệ 48%; công nghiêp – xây dựng 28%; dịch vụ 24%. Tỉ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị 3,9%, nông thôn 1,7%; Tốc độ phát triển dân số bình quân 1,32%/năm, nguồn lao động bổ sung vào lực lượng lao động hàng năm lớn, nhưng mức độ giải quyết việc làm cho người lao động còn thấp so với nhu cầu đặt ra. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề, đặt ra cho các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương cần tập trung giải quyết nhằm ổn định và tăng trưởng, phát triển kinh tế – xã hội ở Quảng Ngãi.

Xuất phát từ áp lực về lao động và việc làm ngày càng gia tăng nên vấn đề này đã được nhiều cơ quan, các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Là một cán bộ công tác tại Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Ngãi với nhiệm vụ nghiên cứu, tham mưu giúp UBND tỉnh trong việc xây dựng, ban hành cơ chế chính sách và tổ chức triển khai thực hiện chính sách việc làm trên địa bàn tỉnh, nhằm giải quyết tốt nhu cầu việc làm của lao động địa phương, bản thân thấy đây là vấn đề cấp bách và sát hợp với thực tế công việc cần nghiên cứu nên tôi chọn đề tài: “Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” nhằm đánh giá đúng thực trạng việc thực hiện chính sách việc làm trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua để từ đó đưa ra những quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách việc làm trong thời gian đến làm luận văn thạc sĩ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ, nghiên cứu của luận văn

* Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở nhận thức lý luận, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về Chính sách việc làm và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ngãi, qua đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách giải quyết việc làm ở Quảng Ngãi trong thời gian đến.

* Nhiệm vụ nghiên cứu :

– Khái quát những vấn đề cơ bản lý luận về thực hiện chính sách việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề thực hiện chính sách việc làm ở nước ta hiện nay làm cơ sở cho việc phân tích tình hình thực hiện chính sách việc làm ở Quảng Ngãi.

– Đánh giá đúng thực trạng thực hiện chính sách việc làm ở Quảng Ngãi ; những tồn tại, nguyên nhân của thực trạng đó.

– Nghiên cứu đề xuất quan điểm, những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thực hiện chính sách việc làm trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của địa phương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

– Đối tượng nghiên cứu chủ yếu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách việc làm ở tỉnh Quảng Ngãi.

– Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2005- 2015 và giải pháp thực hiện đến năm 2020.

– Về không gian: Địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

– Về thời gian: Giai đoạn 2005- 2015.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

* Phương pháp luận:

– Luận văn được viết dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật về lao động, việc làm và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài.

– Luận văn được viết trên cơ sở kế thừa những nghị quyết, chỉ thị về lao động việc làm của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.

* Phương pháp nghiên cứu:

– Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

– Kết hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân tích, so sánh, thống kê, phương pháp chuyên gia và tổng hợp, dựa trên những tài liệu thực tiễn của các ngành có liên quan đến phạm vi nghiên cứu để làm rõ vấn đề mà đề tài đề cập.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

– Làm rõ ý nghĩa kinh tế – xã hội của việc thực hiện chính sách việc làm cho người lao động từ thực tiễn của tỉnh Quảng Ngãi.

– Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách việc làm cho người lao động ở địa phương và nguyên nhân.

– Đề xuất phương hướng, giải pháp sát thực để hoàn thiện chính sách việc làm nhằm mục tiêu tăng cường thực hiện tốt chính sách việc làm cho người lao động ở địa phương.

Kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng, sở, ban, ngành có liên quan đến việc hoạch định chính sách, chiến lược giải quyết việc làm cho người lao động ở địa phương tỉnh Quảng Ngãi cũng như các địa phương khác có điều kiện kinh tế – xã hội tương đồng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, kết cấu luận văn gồm có 3 chương.

Chương 1: Những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách việc làm.

Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Chương 3: Mục tiêu, quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VIỆC LÀM

    1. 1.1. Dân số

Dân số là cơ sở để hình thành lực lượng lao động. Dân số biến động có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến quy mô, cơ cấu cũng như sự phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động.

Ở Việt Nam hiện nay, theo Bộ Luật lao động quy định độ tuổi lao động là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi ( với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi ( với nữ)- Sổ tay thống kê thông tin thị trường lao động ở Việt Nam, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội,1999.

Dân số hoạt động kinh tế: Theo khuyến nghị của APR (tổ chức khu vực Châu á Thái Bình Dương về điều tra dân số và nhà ở) năm 1980, thì dân số hoạt động kinh tế gồm những người có việc làm và những người thất nghiệp [1, tr.31,32].

    1. 1.2. Lực lượng lao động

Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO): Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có tham gia lao động và những người không có việc làm đang tích cực tìm kiếm việc làm [1, tr.34].

Theo thuật ngữ về lĩnh vực lao động – việc làm của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì lực lượng lao động là những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người thất nghiệp. Lực lượng lao động đồng nghĩa với dân số hoạt động kinh tế; lực lượng lao động là bộ phận hoạt động của nguồn lao động .

    1. 1.3. Nguồn lao động

Nguồn lao động và lực lượng lao động là những khái niệm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc tính toán cân đối lao động, việc làm trong xã hội. Việc quy định độ tuổi lao động tuỳ mỗi nước có quy định khác nhau, thậm chí khác nhau ở các giai đoạn của mỗi nước. Điều đó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ở nước ta, theo quy định của Bộ Luật lao động (2012) độ tuổi lao động đối với nam từ đủ 15-60 tuổi và nữ là từ đủ 15-55 tuổi [1, tr.36].

– Thị trường lao động

Theo ILO: Thị Trường lao động là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua một quá trình để xác định mức độ có việc làm của lao động cũng như mức độ tiền lương và tiền công [1, tr.38].

Như vậy, thị trường lao động được cấu thành bởi ba yếu tố: Cung lao động; cầu lao động và giá cả sức lao động. Giữa ba yếu tố này có mối liên quan, ảnh hưởng lẫn nhau.

    1. 1.4. Năng suất lao động

Năng suất lao động là “Sức sản xuất của lao động cụ thể có ích”. Nói lên kết quả hoạt động của con người trong một đơn vị thời gian nhất định.

Từ định nghĩa năng suất lao động của C.Mác, mức năng suất lao động được xác định bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian lao động.

Các khái niệm dân số, dân số hoạt động kinh tế, nguồn lao động, lực lượng lao động, năng suất lao động liên quan trực tiếp tới chính sách việc làm, hoạt động giải quyết việc làm; đó là các chuẩn mực cơ bản để xác định, thống kê, đánh giá và thông tin về tình trạng đủ việc làm, thiếu việc làm, thất nghiệp.

Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
    1. 1.5. Khái niệm về việc làm, giải quyết việc làm và chính sách việc làm

Khái niệm về việc làm

Ở Việt Nam trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh, tập thể). Theo cơ chế đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm, thất nghiệp…

Điều 9, Chương II về việc làm của Bộ Luật lao động Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành quy định: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm. Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm”.

Quan điểm trên, đã góp phần mở rộng quan niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen chân vào trong các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan điểm của Bộ Luật lao động đã nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.

Khái niệm giải quyết việc làm

Văn kiện đại hội X của Đảng đã nêu rõ: “Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân”.

Giải quyết việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao động và vai trò của nhà nước. Vì vậy, “giải quyết việc làm là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế, xã hội từ vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm”.

Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu việc làm của toàn xã hội, đòi hỏi nhà nước phải có chính sách về việc làm, những chiến lược, kế hoạch cụ thể thực hiện chính sách việc làm đáp ứng nhu cầu việc làm của cá nhân người lao động.

Chính sách việc làm [18, tr.2]

Chính sách việc làm đầu tiên ở nước ta đã được Nhà nước ban hành với những quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp hoàn toàn đổi mới, phù hợp với cơ chế thị trường, đánh dấu một bước phát triển về lý luận trong lĩnh vực việc làm và đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống xã hội.

Có thể khẳng định: Chính sách việc làm là một nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của Nhà nước, nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển đổi cơ cấu lao động, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tạo nhiều việc làm, giảm thất nghiệp ở thành thị và tăng quỹ thời gian lao động được sử dụng ở nông thôn; góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân. Nhà nước quy định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm và hàng năm; tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động.

Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội quan trọng, đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Dưới góc độ chính sách, để hạn chế thất nghiệp, một mặt phải tạo ra chỗ làm mới, mặt khác phải tạo điều kiện cho người lao động tránh được nguy cơ thất nghiệp, đồng thời có chính sách trợ cấp cho người lao động khi họ có nguy cơ thất nghiệp.

Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho lực lượng lao động của toàn xã hội, như các chính sách: khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động, chính sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt (lao động nữ, lao động là người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội…), chính sách hợp tác và xuất khẩu lao động.

Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách như: Chính sách dân số; chính sách giáo duc – đào tạo – dạy nghề, chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách công nghệ. Có thể nhận thấy: Giáo dục – đào tạo – dạy nghề tốt thì cơ hội việc làm tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được tình trạng thất nghiệp về lâu dài và giảm áp lực trong việc giải quyết việc làm hàng năm. Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông thôn lẫn thành thị là một vấn đề được tính toán đến khi xây dựng chính sách cơ cấu kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ hoặc theo thành phần kinh tế). Việc lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử dụng nhiều lao động đôi khi có hiệu qủa kinh tế – xã hội hơn là nhập những công nghệ quá hiện đại (sử dụng ít lao động và sử dụng lao động trình độ cao).

Thực hiện tốt chính sách việc làm, nguồn nhân lực được sử dụng có hiệu quả thì hiện tượng thất nghiệp sẽ giảm đi, như vậy chính sách bảo hiểm xã hội sẽ giảm được chi phí cho các trợ cấp thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách việc làm cho người lao động, giúp họ tham gia vào quá trình sản xuất là yêu cầu của sự phát triển của nền kinh tế. Bất kỳ một đất nước nào, giải quyết tốt vấn đề việc làm cho người lao động thì đất nước đó nhất định có nền kinh tế phát triển nhanh chóng, ngay cả khi đất nước đó có điều kiện tự nhiên không thuận lợi, ít tài nguyên, thậm chí hay bị thiên tai đe dọa. Ví dụ như nước Nhật luôn coi trọng nguồn lực con người trong việc phát triển kinh tế, giải quyết tốt việc làm cho người lao động để từ đó tận dụng triệt để cả thể lực và trí lực con người cho công cuộc phát triển kinh tế, đất nước từ sau chiến tranh thế giới lần thứ II.

    1. 1.6. Thiếu việc làm và thất nghiệp

* Thiếu việc làm

Theo ILO thì người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu thêm việc làm [1, tr.54].

Từ khái niệm này có thể hiểu như sau: Người thiếu việc làm là người lao động đang có việc làm nhưng họ làm việc không hết thời gian theo pháp luật quy định hoặc làm những công việc mà tiền lương thấp không đáp ứng đủ nhu cầu của cuộc sống, họ muốn tìm thêm việc làm để bổ sung thu nhập.

* Thất nghiệp

Theo ILO, cho rằng: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc, nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công đang thịnh hành”[1, tr.57]. Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm.

    1. 1.7. Vai trò của chính sách việc làm cho người lao động đối với sự phát triển kinh tế – xã hội

Chính sách việc làm cho người lao động có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Bởi vì, con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển kinh tế và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế – xã hội.

Lý luận và thực tiễn đã khẳng định: Bất kỳ một quá trình sản xuất nào cũng đều là sự kết hợp của ba yếu tố cơ bản đó là sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động.

Sự phát triển kinh tế – xã hội suy cho cùng là nhằm mục tiêu phục vụ con người, làm cho cuộc sống mỗi người ngày càng tốt đẹp hơn, xã hội ngày càng văn minh hơn. Từ lý luận và thực tiễn đã chứng minh thực hiện tốt chính sách việc làm đối với người lao động là cơ sở để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; góp phần thúc đẩy quá trình phát triển cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy, thực hiện chính sách việc làm cho người lao động không chỉ là trách nhiệm của cơ quan trực tiếp quan hệ đến lao động, việc làm mà còn là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp và cả bản thân người lao động.

Trong quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá, nhiều vùng nông thôn biến thành đô thị, nhiều diện tích đất nông nghiệp biến thành các khu công nghiệp, đường giao thông, trung tâm thương mại và đất khu dân cư. Tính chung, trong 20 năm (1995-2015), trung bình mỗi năm cả nước mất khoảng 50 nghìn ha đất nông nghiệp cho các nhu cầu phi nông nghiệp. Trong khi đó, diện tích đất nông nghiệp lại giảm xuống kéo theo giảm việc làm cho nông dân. Ruộng đất ít, lao động thừa, việc làm thiếu và thu nhập thấp, đời sống nông dân còn nghèo, khoảng cách chênh lệch nông thôn và thành thị có xu hướng gia tăng. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để tạo việc làm mới cho lao động nói chung, nông thôn nói riêng là mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội.

    1. 1.8. Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách việc làm cho người lao động

– Nhân tố về điều kiện tự nhiên

Đối với mỗi quốc gia nói chung, mỗi địa phương hay vùng, miền nói riêng nếu điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý, môi trường sinh thái, nguồn lao động chất lượng, tình hình an ninh chính trị thuận lợi thì sẽ có nhiều dự án, nhiều chương trình kinh tế – xã hội đầu tư và như vậy sẽ có điều kiện hơn trong thực hiện chính sách giải quyết việc làm cho người lao động và ngược lại.

– Nhân tố về dân số

Dân số, lao động, việc làm và nguồn nhân lực là yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Tăng trưởng dân số với tốc độ và quy mô hợp lý là nguồn cung cấp nguồn nhân lực vô giá. Tuy nhiên, nếu dân số phát triển quá nhanh, quy mô phát triển lớn, vượt khả năng đáp ứng và yêu cầu của xã hội, thì tăng trưởng dân số không phải là yếu tố tích cực mà lại là gánh nặng cho nền kinh tế.

Theo số liệu điều tra, trong tổng số 51,4 triệu lao động, chỉ có gần 7,8 triệu người đã được đào tạo, chiếm 15,4%. Ở thành thị, lao động được đào tạo chiếm 30,9%, trong khi đó nông thôn chỉ có 9%. Sự chênh lệch này là rất lớn, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế chung. Trong khi đó, số lượng lao động từ nông thôn đến thành thị tìm việc làm hàng năm là rất lớn.

Ngoài ra, vấn đề di dân từ nông thôn ra đô thị gây ra các áp lực kinh tế – xã hội và chính trị còn nguy hiểm hơn so với tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên. Quá trình đô thị hoá gây hậu quả trực tiếp đến vấn đề việc làm. Để có thể thu hút hết số lao động này, cần phải nhanh chóng tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc

Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta, nhân tố dân số đã được Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội từng thời kỳ. Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển xã hội, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, cần phải xác định khi nguồn lực lao động tăng quá nhanh lại chưa sử dụng hết sẽ là lực cản, gây sức ép về đời sống và việc làm.

– Nhân tố về chính sách vĩ mô

Để thực hiện tốt chính sách việc làm cho người lao động, vấn đề quan trọng nhất là nhà nước phải tạo các điều kiện và môi trường thuận lợi để người lao động tự tạo việc làm trong cơ chế thị trường thông qua những chính sách cụ thể. Có thể có nhiều chính sách tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc làm, hợp thành một hệ thống chính sách hoàn chỉnh có quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau hướng vào phát triển cả cung và cầu về lao động, đồng thời làm cho cung và cầu phù hợp với nhau. Thực chất là tạo ra sự phù hợp giữa cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động.

+ Nhóm chính sách khuyến khích phát triển những lĩnh vực, hình thức và vùng có khả năng thu hút được nhiều lao động trong cơ chế thị trường như: Chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách phát triển khu vực phi kết cấu, chính sách di dân và phát triển vùng kinh tế mới, chính sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, chính sách khôi phục và phát triển làng nghề…

+ Nhóm chính sách việc làm cho các đối tượng là người có công và chính sách xã hội đặc biệt khác như: Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người tàn tật, đối tượng xã hội….

+ Chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội, nhưng phương thức và biện pháp giải quyết việc làm mang nội dung kinh tế đồng thời liên quan đến những vấn đề thuộc về tổ chức sản xuất kinh doanh như: Tạo môi trường pháp lý, vốn, lựa chọn và chuyển giao công nghệ, cơ sở hạ tầng, thị trường tiêu thụ sản phẩm…

– Nhân tố liên quan đến giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ

+ Về giáo dục – đào tạo:

Tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học – công nghệ của đất nước đó. Trình độ khoa học – công nghệ lại phụ thuộc vào các điều kiện giáo dục. Giáo dục – đào tạo giúp cho người lao động có đủ tri thức, năng lực, sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của công việc. Người lao động qua quá trình đào tạo sẽ có nhiều cơ hội để thực hiện các công việc mà xã hội phân công, sắp xếp.

+ Về Khoa học – công nghệ:

Khoa học – công nghệ đã làm biến đổi cơ cấu đội ngũ lao động. Bên cạnh những ngành nghề truyền thống đã xuất hiện những ngành nghề mới, cùng với nó là xu hướng tri thức hoá công nhân, chuyên môn hoá lao động, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc.

Tuy nhiên, trong thực tế, ở những nước sản xuất kém phát triển thường có mâu thuẫn: Nếu công nghệ sản xuất tiên tiến với các dây chuyền sản xuất tự động hoá, chuyên môn hoá cao thì trình độ người lao động chưa bắt kịp dễ dẫn đến tình trạng một bộ phận người lao động bị gạt ra khỏi quá trình sản xuất kinh doanh. Vì thế, bên cạnh công việc đào tạo nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, vấn đề lựa chọn áp dụng mức độ công nghệ nào trong dây chuyền kinh doanh phải tính toán thận trọng. Bởi vì, chính sách khoa học – công nghệ có tác động mạnh mẽ đến chính sách việc làm cho người lao động.

– Nhân tố toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế

Toàn cầu hoá bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, là những thách thức và nguy cơ lớn đối với tình trạng việc làm ở tất cả các nước trên thế giới. Số lượng việc làm ở khu vực này có thể tăng lên nhưng lại giảm đi ở khu vực khác, một số loại việc làm sẽ mất đi nhưng một số loại việc làm mới xuất hiện.

Trong điều kiện thế giới ngày nay, để khai thác và sử dụng tốt các yếu tố bên ngoài, đồng thời phải phát huy tối đa nội lực, kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp trong giải quyết việc làm một cách năng động, hiệu quả, bền vững, tránh được những rủi ro, cần có những nghiên cứu mang tính hệ thống tình hình thế giới, khu vực và các mối quan hệ giữa các điều kiện bên trong và bên ngoài, nhận thức và vận dụng đúng đắn quan hệ đó khi xây dựng chiến lược, chính sách việc làm.

    1. 1.9. Kinh nghiệm thực hiện chính sách việc làm cho người lao động ở một số tỉnh ở nước ta
      1. 1.9.1 Kinh nghiệm của Nam Định

Nam Định có dân số 1.905.300 người, diện tích tự nhiên 1652,6km2 , mật độ dân số bình quân 1.113 người/km2 . Thời kỳ bao cấp, ngành công nghiệp nhẹ của Nam Định khá phát triển, đặc biệt là công nghiệp dệt may đã tạo việc làm, đảm bảo đời sống cho trên 2 vạn lao động.

Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
Thực hiện chính sách việc làm từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Bước vào thời kỳ đổi mới, khi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhất là vào thời kỳ 1986-1995, nền kinh tế của Nam Định gặp rất nhiều khó khăn. Thị trường truyền thống của Liên Xô và Đông Âu không còn, công nghệ sản xuất cũ lạc hậu, năng suất lao động thấp, giá thành sản phẩm cao, hàng hoá tồn đọng lớn, kinh doanh thua lỗ… nhiều doanh nghiệp, xí nghiệp công nghiệp bị phá sản, ngành công nghiệp của Nam Định bước vào thời kỳ suy thoái nghiêm trọng.

Sản xuất nông nghiệp của Nam Định cũng gặp không ít khó khăn, kinh tế nông nghiệp chậm phát triển so với các tỉnh lân cận. Nhìn chung, đời sống của người lao động gặp rất nhiều khó khăn, sức ép về lao động, việc làm ngày càng trở lên bức xúc, gay gắt.

Sau gần 30 năm đổi mới, Nam Định đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn phát triển kinh tế tạo mở việc làm và đã thu được những kết quả quan trọng. Kinh nghiệm của Nam Định có thể khái quát như sau:

– Tập trung đầu tư phát triển công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định đã xây dựng chương trình sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp giai đoạn 2001-2010 với những mục tiêu giải pháp như: Khôi phục phát triển làng nghề, xây dựng khu công nghiệp và cụm công nghiệp, điểm công nghiệp có tính khả thi cao, phù hợp với tình hình thực tế địa phương.

– Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

– Tập trung xây dựng cụm công nghiệp, điểm công nghiệp nông thôn góp phần đẩy nhanh quá trình phân công lại lao động nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

– Phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, bền vững theo hướng sản xuất hàng hoá.

Để đẩy nhanh phát triển nông nghiệp, Nam Định đã tập trung đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Thực hiện áp dụng các tiến bộ khoa học – công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp nhằm tăng năng suất, chất lượng và giá trị cây trồng, vật nuôi. Đặc biệt đã đẩy mạnh phát triển nuôi trồng thuỷ sản với nhiều loại hình tổ chức sản xuất và quy mô phù hợp mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách tỉnh, tạo mở được nhiều việc làm mới.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\CHINH SACH CONG\CAO DINH HÒA

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *