Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Nước ta trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Bên cạnh đó, vẫn còn gặp nhiều khó khăn và thách thức, nhất là tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Một trong những khó khăn lớn đó là tình hình tội phạm có chiều hướng ngày càng gia tăng và phức tạp, hành vi phạm tội được thực hiện tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cấu kết chặt chẽ với nhiều đối tượng, tổ chức ở nước ngoài, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.

Trong những năm qua, cùng với sự phát triển chung của cả nước, tình hình kinh tế – xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã chuyển biến tích cực, nhiều khu kinh tế, khu công nghiệp được hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả. Khu vực kinh tế vừa và nhỏ phát triển mạnh, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, diện mạo xã hội có nhiều thay đổi rõ rệt, kể cả nông thôn và thành thị nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã làm cho một bộ phận thanh thiếu niên hư hỏng, không lo tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà chạy theo lối sống thực dụng, ích kỷ, có lối hành xử theo kiểu xã hội đen, côn đồ, hung hãn; NCTN phạm tội không chỉ trẻ hóa về độ tuổi, sự tinh vi, xảo quyệt trong hành vi mà còn lập băng nhóm phạm tội có tổ chức như: trộm cắp, cướp giật, giết người, mua bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy. Và thậm chí có nhiều loại tội phạm trước đây NCTN ít hoặc không thực hiện thì nay có xu hướng gia tăng như: nhóm tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng …

Trước diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội của tình hình tội phạm nói chung và tình hình NCTN phạm tội nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Vấn đề nâng cao chất lượng xét xử, phục vụ cho đấu tranh và phòng chống tội phạm được đặt ra như là một yêu cầu cấp bách và cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Thực tiễn trong công tác xét xử tại địa bàn tỉnh Quảng Nam, việc áp dụng pháp luật hình sự đối với NCTN phạm tội của TAND hai cấp đã đem lại những kết quả nhất định.Song bên cạnh đó,vẫn còn một số trường hợp Tòa án để xảy ra sai sót, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo là NCTN. Nguyên nhân của những sai sót đó thì nhiều, trong đó phải kể đến một số nguyên nhân chính như: quy định của pháp luật còn hạn chế, bất cập, việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật chưa được kịp thời, kinh nghiệm và năng lực của những người tiến hành tố tụng chưa đáp ứng được yêu cầu … Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để làm luận văn thạc sỹ luật học. Đề tài này nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong quá trình xét xử đối với NCTN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.Từ đó, đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội là hết sức cần thiết.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu lý luận về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, những quy định của pháp luật có liên quan đến việc xét xử vụ án hình sự đối với người chưa thành niên và thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ đó, đề ra các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện nhằm bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN phạm tội.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

– Nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện một số vấn đề lý luận chung về QĐHP đối với NCTN phạm tội theo pháp luật hình sự.

– Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử vụ án hình sự đối với bị cáo là NCTN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam để tìm ra những bất cập của pháp luật hình sự hiện hành về QĐHP đối với NCTN phạm tội.

– Nghiên cứu những bất cập của pháp luật hình sự hiện hành, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả QĐHP đối với NCTN phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu:

Luận văn chủ yếu tập trung phân tích và làm sáng tỏ những quy định về QĐHP đối với NCTN phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành.

Phạm vi nghiên cứu:

Tác giả nghiên cứu luận văn này dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự, liên quan đến việc xét xử vụ án hình sự đối với NCTN và thực tiễn áp dụng các quy định này trong phạm vi tỉnh Quảng Nam, giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2014 để phân tích, đánh giá, làm rõ những vấn đề thuộc nội dung luận văn.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận:

Để hoàn thành luận văn này, tác giả đã dựa vào phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với NCTN phạm tội và những quy định của pháp luật có liên quan đến NCTN.

Phương pháp nghiên cứu:

Ngoài phương pháp luận nêu trên, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê hình sự… Các phương pháp nghiên cứu này được vận dụng một linh hoạt để đạt được hiệu quả cao.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa lý luận:

Luận văn này có những đóng góp nhất định về mặt lý luận cũng như thực tiễn. Thông qua những đề xuất, kiến nghị từ thực tiễn xét xử, luận văn góp phần hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật có liên quan đến QĐHP khi xét xử vụ án hình sự đối với NCTN. Đồng thời, có thể sử dụng luận văn này để làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập, công tác cũng như nghiên cứu khoa học.

Ý nghĩa thực tiễn:

Ngoài ra ý nghĩa lý luận đã trình bày, trên cơ sở phân tích làm sáng tỏ những vấn đề về lý luận, luận văn góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, nâng cao kỹ năng trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Do vậy, luận văn này cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác xét xử trong thực tiễn.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương với các nội dung cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về QĐHP đối với NCTN phạm tội

Chương 2: Thực tiễn QĐHP đối với NCTN phạm tội tại tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả của QĐHP đối với NCTN phạm tội

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI

CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Chương 1 của luận văn là chương mang tính chất lý luận. Trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề cơ bản sau:

Thứ 1: Những vấn đề lý luận chung về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, bao gồm:

  • Các hình phạt được quy định đối với người chưa thành niên phạm tội:

Hình phạt theo quy định tại Điều 26 Bộ luật hình sự: “là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội”. Theo đó, hệ thống hình phạt bao gồm: hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Trong đó, hình phạt chính gồm có: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình; còn hình phạt bổ sung gồm có: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền (khi không áp dụng là hình phạt chính), trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính).

Tuy nhiên, đối với NCTN phạm tội thì chỉ được áp dụng các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn và không được áp dụng các hình phạt bổ sung đối với họ. Luận văn này cũng đã tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự hiện hành đối với các hình phạt được áp dụng đối với NCTN phạm tội

– Khái niệm, nguyên tắc và căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

Trên cơ sở phân tích, tác giả đã đưa ra khái niệm: “QĐHP là một giai đoạn, một nội dung của áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể được quy định trong điều luật (khoản điều luật) theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội thể hiện trong bản án buộc tội”.

QĐHP đối với NCTN phạm tội không nằm ngoài những mục đích, ý nghĩa nêu trên mà còn mục đích nhằm giáo dục, tạo điều kiện để NCTN nhanh chóng cải tạo bản thân, nhận thức được hành vi nào đúng, hành vi nào là pháp luật cấm, sửa chữa lỗi lầm, để họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Điều này đã được thể chế hóa tại Điều 69 của Bộ luật hình sự: “Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”.

NCTN có những đặc thù riêng nên QĐHP đối với NCTN cũng đòi hỏi có những nguyên tắc riêng. “Các nguyên tắc quyết định hình phạt là những tư tưởng xuất phát, tư tưởng chỉ đạo được quy định trong pháp luật hình sự và do giải thích mà có, xác định và định hướng hoạt động của Tòa án khi áp dụng chế tài luật hình sự đối với người phạm tội”. Với tư cách là những tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Tòa án khi QĐHP đối với người phạm tội nói chung, NCTN phạm tội nói riêng, các nguyên tắc QĐHP là một trong những nội dung quan trọng của chính sách hình sự của Nhà nước ta.

Nguyên tắc QĐHP đối với NCTN phạm tội gồm các nguyên tắc sau: nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc cá thể hoá hình phạt và nguyên tắc công bằng.

Ngoài ra, luận văn còn tìm hiểu về căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội.

Theo quy định tại Điều 45 BLHS quy định căn cứ QĐHP: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.

Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt của NCTN nên khi xét xử, ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc QĐHP được quy định tại Điều 45 của BLHS, đó là khi QĐHP phải căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS thì việc QĐHP đối với NCTN phạm tội phải tuân thủ các quy định đối với NCTN phạm tội tại chương X BLHS.

Thứ 2: Tác giả nghiên cứu lịch sử phát triển các quy định về quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam, để qua đó thấy được sự kế thừa, phát phát triển có chọn lọc của các quy định của pháp luật.Vì vậy, tác giải đã tìm hiểu QĐHP đối với NCTN phạm tội trước khi ban hành BLHS năm 1999 và QĐHP đối với NCTN phạm tội theo quy định của pháp luật hiện hành.

Tóm lại,qua nghiên cứu về những vấn đề lý luận về QĐHP đối với NCTN phạm tội, tác giả tập trung phân tích các hình phạt được áp dụng đối với NCTN phạm tội. Trên cơ sở đó, đưa ra khái niệm, nguyên tắc và căn cứ QĐHP đối với NCTN phạm tội theo BLHS hiện hành. Ngoài ra, tác giả còn nghiên cứu về lịch sử phát triển các quy định về QĐHP đối với NCTN phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ để làm tiền đề cho việc nghiên cứu về thực trạng áp dụng chế định này từ thực tiễn xét xử của Toà án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam. Từ đó đưa ra những bất cập của pháp luật hình sự về QĐHP ở chương 2.

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chương 2

THỰC TIỄN QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TẠI TỈNH QUẢNG NAM

Chương 2 là chương tập trung nghiên cứu thực tiễn xét xử, thực tiễn QĐHP đối với NCTN phạm tội trên địa bàn tỉnh Quảng Nam bằng việc nghiên cứu các vụ án cụ thể của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam.

Trước hết, tác giả tìm hiểu về tình hình xét xử vụ án hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Quảng Nam để thấy được số lượng bị cáo là NCTN phạm tội cũng như các loại hình phạt, mức hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo là NCTN phạm tội.

Từ những số liệu thống kê xét xử vụ án hình sự sơ thẩm của TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam từ năm 2010 – 2014, qua số liệu thống kê tại các bảng biểu thấy rằng thấy rằng, TAND hai cấp khi QĐHP đã số áp dụng hình phạt tù đối với NCTN phạm tội là nghiêm khắc. Từ thực tiễn QĐHP khi xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với NCTN của TAND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ít nhiều chưa đáp ứng được nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội, những quy định tại phần chung và những quy định đối với NCTN phạm tội được quy định chương X của BLHS.

Qua việc nghiên cứu thực tiễn công tác xét xử trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cho thấy: Đa số các bản án đã xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp để xảy ra sai sót trong quá trình xét xử, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo trong áp dụng pháp luật hình sự, làm ảnh hưởng đến tình hình đấu tranh phòng, chống tội phạm và mục đích của hình phạt chưa đạt như mong muốn. Thực tiễn xét xử cho thấy một số sai sót chủ yếu của TAND hai cấp thường xảy ra tập trung ở các vấn đề sau:

– Sai sót trong việc áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội khi quyết định hình phạt

– Sai sót trong việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội

– Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội chưa sát với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội.

– Quy định về quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật chưa được áp dụng thống nhất và nhất quán.

– Sai sót trong việc áp dụng điểm, khoản, điều luật đối với người chưa thành niên phạm tội

– Sai sót trong việc áp dụng án treo đối với người chưa thành niên phạm tội

Từ nghiên cứu thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân hai cấptỉnh Quảng Nam thấy rằng việc áp dụng QĐHP đối với NCTN phạm tội còn bộc lộ những bất cập của các quy định của pháp luật hình sự như sau:

Thứ nhất: về tuổi chịu TNHS được quy định tại khoản 1 Điều 12 BLHS.

Thứ hai: quy định về việc QĐHP nhẹ hơn quy định của BLHS đối với NCTN phạm tội tại Điều 47 BLHS.

Thứ ba: về nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội được quy định tại Điều 69 BLHS.

Thứ tư: về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với NCTN phạm tội quy định tại Điều 70 BLHS.

Thứ năm: về các hình phạt được áp dụng đối với NCTN phạm tội định tại Điều 71 BLHS.

Thứ sáu: về hình phạt cải tạo không giam giữ quy định tại Điều 73 BLHS.

Thứ bảy: về hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với NCTN phạm tội quy định tại Điều 74 BLHS

Thứ tám: quy định về tổng hợp hình phạt đối với NCTN tại Điều 75 BLHS.

Tóm lại, từ việc nghiên cứu thực tiễn QĐHP đối với NCTN phạm tội tại địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả đã tìm hiểu những vụ án thực tế và đưa ra được những sai sót, tồn tại. Qua đó tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại trên mà chủ yếu tập trung nghiên cứu về những bất cập của quy định pháp luật về QĐHP nói chung và QĐHP đối với NCTN nói riêng làm cơ sở để đề ra những giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả khi QĐHP đối với NCTN phạm tội.

Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chương 3

CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI

NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Để nâng cao hiệu quả khi QĐHP đối với NCTN phạm tội đòi hỏi phải có một giải pháp đồng bộ. Với đề tài, qua việc nghiên cứu luật thực định cũng như thực tiễn của công tác xét xử, tác giả đề xuất một số giải pháp sau:

Thứ 1: Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, cụ thể như sau:

Khoản 1 Điều 12 BLHS cần phải sửa đổi, bổ sung như sau:

“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ trường hợp điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật này có quy định khác”.

Điều 47 BLHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật, nếu trường hợp áp dụng Điều 74 của Bộ luật này thì không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”

Điều 69 sửa đổi và bổ sung theo hướng như sau:

“ Điều 69: Nguyên tắc xử lý đối với NCTN phạm tội

1. Việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm , phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Lợi ích tốt nhất của NCTN phải là mối quan tâm hàng đầu trong quá trình xử lí họ.

Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của NCTN, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm, cũng như bảo vệ các thông tin cá nhân, cũng như quyền trợ giúp pháp lý của NCTN trong quá trình xử lý.

2. NCTN từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội được miễn TNHS nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ được gia đình hoặc cơ quan tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

3. Việc truy cứu TNHS NCTN phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết nhất và phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp tư pháp hay miễn hình phạt đối với NCTN phạm tội thì Tòa án áp dụng một trong các hình phạt quy định tại Điều 71 Bộ luật này.

5. Giữ nguyên

6. Giữ nguyên…”

Điều 70 BLHS cần sửa đổi và bổ sung như sau: Đặt tên Mục là “Các biện pháp tư pháp” và tách Điều 70 BLHS thành 04 điều luật riêng và đặt tên cho từng điều luật cụ thể như sau:

Điều 70. Các biện pháp tư pháp được áp dụng đối với NCTN phạm tội (Giữ nguyên khoản 1 Điều 70BLHS).

Điều 70a. Giáo dục tại xã, phường, thị trấn

  1. (Giữ nguyên đoạn 1 khoản 2 Điều 70BLHS).

2. ( Giữ nguyên đoạn 2 khoản 2 Điều 70 BLHS và bổ sung them “Trường hợp NCTN không chấp hành nghiêm chỉnh, đầy đủ những nghĩa vụ và yêu cầu trên, thì khi hết thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn, Tòa án có thể gia hạn thêm từ ba tháng đến một năm hoặc chuyển sang áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng”.

Điều 70b. Giáo dục tại trường giáo dưỡng

1. (Giữ nguyên khoản 3 Điều 70 BLHS) và bổ sung thêm “Không áp dụng biện pháp này nếu từ thời điểm từ khi NCTN tính đến thời điểm họ đã thành niên ít hơn một năm”.

2. Người được giáo dục tại trường giáo dưỡng phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và dưới sự quản lý, giáo dục của nhà trường

Điều 70c. Chấm dứt trước thời hạn việc chấp hành biện pháp tư pháp (Giữ nguyên khoản 4 Điều 70 BLHS)

Điều 71 sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 71. Các hình phạt được áp dụng đối với NCTN phạm tội

NCTN phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo;Lao động phục vụ cộng đồng;Trục xuất khi người phạm tội là người nước ngoài;Phạt tiền;Cải tạo không giam giữ;Tù có thời hạn”.

  • Bổ sung thêm quy định về hình phạt cảnh cáo, lao động phục vụ cộng đồng, trục xuất thành một điều luật riêng. Cụ thể là:

“Điều 71a. Hình phạt cảnh cáo

  1. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì hình phạt cảnh cáo được áp dụng khi người đó phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, nếu phạm tội lần đầu, gây thiệt hại không lớn,có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 46 và không có tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại Điều 48 Bộ luật này.
  2. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì hình phạt cảnh cáo được áp dụng khi người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng nhưng gây thiệt hại không lớn.”

“Điều 71b. Hình phạt lao động phục vụ cộng đồng

  1. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì hình phạt lao động phục vụ cộng đồng được áp dụng khi người đó phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng tương ứng với độ tuổi chịu TNHS tại Điều 12 của Bộ luật này, để thực hiện một số công việc cụ thể để phục vụ cộng đồng trong thời hạn từ ba tháng đến một năm.
  2. Khi quyết định hình phạt lao động phục vụ cộng đồng, Tòa án phải cân nhắc đánh giá về độ tuổi, trình độ nhận thức, tình trạng sức khỏe, khả năng thực tế của người chưa thành niên và nguyện vọng của người đó nhằm xác định loại công việc và thời gian lao động cho phù hợp để không ảnh hưởng thời gian học tập, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần của người chưa thành niên, cũng như các công việc chính của người đó.Thời gian lao động phục vụ cộng đồng do Tòa án quyết định từ ba mươi giờ đến một trăm năm mươi giờ và được áp dụng như sau:

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá hai giờ trong một ngày và không quá ba ngày trong một tuần;

Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thì thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá ba giờ trong một ngày và không quá năm ngày trong một tuần”.

“Điều 71c. Hình phạt trục xuất

Khi NCTN phạm tội là người nước ngoài phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng, nếu phạm tội lần đầu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS thì Toà án có thể buộc người nước ngoài bị kết án phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trục xuất được Toà án áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung khi điều luật trong phần các tội phạm quy định.

Điều 73 BLHS sửa đổi, bổ sung lại như sau:

Điều 73. Hình phạt cải tạo không giam giữ

  1. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng khi người đó phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, nếu phạm tội lần đầu và có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.
  2. Đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được áp dụng theo quy định chung tại Điều 31 Bộ luật này, nhưng Tòa án không khấu trừ thu nhập đối với người phạm tội.
  3. Thời gian cải tạo không giam giữ đối NCTN phạm tội không quá một phần hai thời hạn thấp nhất đến không quá một phần hai thời hạn cao nhất mà điều luật đã quy định”.

Điều 74 sửa đổi, bổ sung như sau:

“Điều 74. Hình phạt tù có thời hạn

Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:

1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu khoản của điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù tương ứng với khoản mà điều luật quy định.

2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu khoản của điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù tương ứng với khoản mà điều luật quy định”.

Sửa đổi, bổ sung Điều 75 BLHS như sau:

“Điều 75: Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

  1. Nếu các tội đều thực hiện khi người phạm tội đang trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, hình phạt tổng hợp trong trường hợp này không được vượt quá 15 năm tù.
  2. Nếu các tội được thực hiện khi người phạm tội đang trong độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thì hình phạt tổng hợp trong trường hợp này không được vượt quá 21 năm tù.
  3. Trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, có tội thực hiện khi đang trong độ tuổi từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi, có tội thực hiện khi đang trong độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì hình phạt được tổng hợp như sau:

Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi đang ở độ tuổi đủ 14 đến dưới 16 tuổi thì hình phạt tổng hợp không quá 15 năm tù.

Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi đang ở độ tuổi đủ 16 đến dưới 18 tuổi thì hình phạt tổng hợp không quá 21 năm tù.

  1. Trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.
  2. Trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, nếu các tội phạm đều bị tuyên cải tạo không giam giữ thì hình phạt tổng hợp không được vượt quá 2 năm.
  3. Trường hợp người chưa thành niên phạm nhiều tội, nếu các tội phạm đều bị tuyên phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt phải chấp hành”.

“Điều 75b Tổng hợp hình phạt trong trường hợp nhiều bản án đối với người chưa thành niên phạm tội.

  1. Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó, quyết định hình phạt chung theo quy định của Điều 75 của bộ luật này.

Thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

  1. Trường hợp một người đang chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với hình phạt chưa chấp hành của bản án trước thành hình phạt chung theo quy định của Điều 75 BLHS.
  2. Trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì chánh án Tòa án ra quyết định tổng hợp các hình phạt của các bản án theo quy định của các khoản 1 và khoản 2 của điều này”.

Thứ 2: Một số kiến nghị khác hoàn thiện về kỹ thuật lập pháp hình sự, tác giả đề xuất:

– Sửa đổi tên chương X BLHS. Theo đó, chương X cần sửa thành “Trách nhiệm hình sự đối với NCTN phạm tội”. Để bảo đảm tính khoa học trong kỹ thuật lập pháp cần quy định dưới chương X là “ Mục” và dưới Mục là từng “Điều” như đã trình bày nêu trên.

– Bổ sung điều luật mới về các biện pháp tư pháp và hình phạt cảnh cáo, hình phạt lao động phục vụ cộng đồng và hình phạt trục xuất đối với NCTN phạm tội là người nước ngoài, tổng hợp hình phạt trong trường hợp nhiều bản án đối với người chưa thành niên phạm tội. Sửa tên gọi các “hình phạt” cho bảo đảm tính khoa học và phân biệt với các chế tài trong pháp luật hành chính.

Trên đây là những kiến nghị hoàn thiện quy định về pháp luật hình sự đối với NCTN phạm tội để các nhà làm luật tham khảo trong quá trình sửa đổi toàn diện BLHS. Tuy nhiên, việc nghiên cứu, đánh giá tất cả điều, khoản, chương, mục của BLHS để tiếp tục hoàn thiện vẫn luôn có ý nghĩa thời sự và cấp thiết, đòi hỏi các nhà khoa học trong lĩnh vực tư pháp và các nhà khoa học – thực tiễn trong lĩnh vực tư pháp, các nhà làm luật ở nước ta hiện nay tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện hơn.

Thứ 3: Các giải pháp về mặt tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội như:

– Tăng cường công tác hướng dẫn thi hành pháp luật và tổng kết từ thực tiễn xét xử; Xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên trách giải quyết án người chưa thành niên phạm tội; Triển khai thành lập Tòa gia đình và người chưa thành niên; Tăng cường xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội theo hướng áp dụng các biện pháp tư pháp, miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; Nâng cao hiệu quả công tác tái hòa nhập cộng đồng cho người chưa thành niên phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt.

Như vậy, chương 3 của luận văn, tác giả đã đưa ra các giải pháp về hoàn thiện BLHS liên quan đến QĐHP đối với NCTN phạm tội. Ngoài giải pháp về hoàn thiện pháp luật, luận văn còn đưa ra các giải pháp về hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự và các giải pháp về tổ chức thực hiện để nâng cao hiệu quả quyết định hình phạt đối với NCTN phạm tội trên cơ sở thực tiễn xét xử tại tỉnh Quảng Nam.

KẾT LUẬN

QĐHP là hoạt động tư duy của Hội đồng xét xử, cụ thể là hoạt động tư duy của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngay sau khi xác định được tội danh đối với hành vi phạm tội của người bị kết án. Nếu định tội danh là tiền đề, là cơ sở cho việc QĐHP thì QĐHP là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử. QĐHP chính xác, đúng pháp luật và công bằng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động xét xử của Toà án. Do vậy, ngoài việc định tội chính xác, Toà án còn phải tuân theo những nguyên tắc, căn cứ về QĐHP được quy định trong BLHS và tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của từng địa phương nơi xảy ra tội phạm và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án.Do đó, tùy theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành và nhu cầu cá nhân mà họ cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Khi QĐHP đối với NCTN phạm tội, Toà án phải xác định mục đích chính trong các hình phạt đối với họ nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chửa sai lầm để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Do vậy, cần áp dụng các chính sách hình sự để giảm nhẹ đặc biệt cho đối tượng này. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành thì Toà án chỉ có thể lựa chọn một trong bốn hình phạt là: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn.

Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự khi QĐHP đối với NCTN phạm tội của TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được thì việc áp dụng chế tài đối với NCTN phạm tội vẫn còn áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất đối với họ là hình phạt tù có thời hạn, ít áp dụng các chế tài khác mà pháp luật hình sự quy định, việc áp dụng pháp luật hình sự để QĐHP trong thời gian qua đôi lúc chưa đạt được kết quả như mong muốn. Điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những hạn chế, bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến việc xử lý người chưa thành niên phạm tội cũng như những hạn chế, sai sót của các cấp Tòa án. Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi các cơ quan chức năng có thẩm quyền cần phải sớm xem xét sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay. Đồng thời, Đảng và Nhà nước ta cũng cần phải quan tâm hơn nữa đến việc đào tạo nguồn nhân lực mà đặc biệt là đội ngũ Thẩm phán chuyên xét xử các vụ án hình sự đối với NCTN để tiến đến thành lập Tòa gia đình và NCTN. Cũng như tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất, các trang thiết bị làm việc để hệ thống TAND hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ chính trị ngày càng nặng nề mà Đảng và nhân dân đã giao phó, được quy định trong Hiến pháp năm 2013 “…là cơ quan thực hiện quyền tư pháp”. Có như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của NCTN phạm tội mới được bảo vệ một cách triệt để và có hiệu quả.

Từ thực tiễn xét xử các vụ án hình sự của TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam, luận văn “Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” tập trung nghiên cứu và làm rõ nội dung sau đây:

1. Luận văn đã nghiên cứu, phân tích, luận giải và làm rõ các hình phạt áp dụng đối với NCTN phạm tội, cơ sở của những quy định này theo pháp luật hình sự hiện hành. Từ đó làm rõ khái niệm, nguyên tắc và căn cứ QĐHP đối với NCTN phạm tội.

2. Đối chiếu với những vấn đề lý luận về QĐHP đối với NCTN phạm tội, trên cơ sở nghiên cứu luật thực định, luận văn đã nêu lên tình hình xét xử vụ án hình sự đối với NCTN phạm tội tại TAND hai cấp tỉnh Quảng Nam trong 5 năm (từ năm 2010 đến năm 2014) để đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về QĐHP đối với NCTN phạm tội.Trên cơ sở đó, luận văn chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật hình sự hiện hành về QĐHP đối với NCTN phạm tội.

3. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn QĐHP đối với NCTN phạm tội từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam theo pháp luật hình sự hiện hành, luận văn đã đề xuất hai nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QĐHP đối với NCTN phạm tội phạm tội nói chung cũng như tại tỉnh Quảng Nam nói riêng. Các nhóm giải pháp mà luận văn đưa ra tập trung vào việc hoàn thiện pháp luật hình sự về những vấn đề có liên quan đến QĐHP đối với NCTN phạm tội, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp. Các giải pháp nâng cao hiệu quả QĐHP đối với NCTN phạm tội như: Tăng cường công tác hướng dẫn thi hành pháp luật và tổng kết từ thực tiễn xét xử; Xây dựng đội ngũ Thẩm phán chuyên trách giải quyết án NCTN phạm tội; Triển khai thành lập Toà gia đình và NCTN phạm tội; Tăng cường xử lý đối với NCTN phạm tội theo hướng áp dụng các biện pháp tư pháp, miễn TNHS hoặc miễn hình phạt; Nâng cao hiệu quả công tác tái hoà nhập cộng đồng cho NCTN phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt.

Chỉ khi nào hoàn thiện những vấn đề nêu trên thì Toà án mới có những căn cứ chuẩn mực để quyết định một hình phạt đúng pháp luật, công bằng đối với mỗi tội phạm và người phạm tội, nhằm đạt được mục đích hình phạt và đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm đối với NCTN phạm tội trong thời kỳ đổi mới.

Luận văn đã tập trung giải quyết tương đối cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn QĐHP đối với NCTN phạm tội; tác giả hy vọng luận văn góp phần đưa BLHS nói riêng và pháp luật hình sự nói chung trở thành công cụ hữu hiệu trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm.Việc tiếp tục nghiên cứu đề tài này không chỉ có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn trong việc hoạch định và thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong thời gian tiếp theo, mà còn là nhiệm vụ của các nhà khoa học, những người đang làm việc trong cơ quan tư pháp.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HINH SU\NGUYEN QUOC THIEN\SAU BAO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *