Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Nước ta là một nước nông nghiệp, do lịch sử quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước nên phần lớn dân cư nước ta sống quần tụ theo từng dòng họ và theo phạm vi làng, xã. Cùng với văn minh lúa nước, làng (bản, thôn, xóm…) đã trở thành nét văn hóa riêng của người Việt Nam từ muôn đời nay.

Luôn chiếm một vị trí quan trọng trong các cuộc chiến tranh chống xâm lược của ngoại bang, nông thôn là nơi cung cấp người và của để chiến thắng quân thù. Trong hàng ngàn năm phát triển, nông thôn là nơi hình thành và lưu giữ nhiều nét bản sắc văn hóa của dân tộc. Ngày nay, nông thôn vừa là nơi cung cấp lương thực thực phẩm cho tiêu dùng xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nông sản hàng hóa cho xuất khẩu, nhân lực cho các hoạt động kinh tế và đời sống của đô thị, vừa là nơi tiêu thụ hàng hóa do các nhà máy ở thành phố sản xuất ra.

Trong thời kỳ nào Đảng ta cũng chăm lo đến phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đất nước ta bước vào công cuộc đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngày càng hội nhập sâu hơn với kinh tế thế giới. Nền kinh thế thị trường và hội nhập có nhiều ưu điểm như giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng, tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy vậy, bên cạnh những ưu điểm thì nền kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều hạn chế. Do việc phân bổ nguồn lực kinh tế tuân theo quy luật vận động của hệ thống thị trường, cho nên, những vùng, địa phương khó khăn, ít tài nguyên khoáng sản và không có vị trí địa lý thuận lợi thì vẫn phát triển chậm, đời sống của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, phân cực giàu nghèo ngày càng sâu sắc, nhất là ở nông thôn vùng sâu, vùng xa. Một thực tế đang diễn ra là do nông thôn chậm phát triển nên áp lực di dân từ nông thôn ra thành thị ngày càng lớn làm ảnh hưởng đến quá trình ổn định và phát triển của các đô thị.

Đến nay, tuy quá trình đô thị hóa đã diễn ra khá mạnh mẽ nhưng vẫn còn hơn 70% dân số sinh sống và hơn 54% lao động làm việc ở nông thôn. Trước thực trạng nêu trên, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp để hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và hội nhập như triển khai thực hiện chương trình đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135) và đầu tư cho các huyện nghèo theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP, ngày 27/12/2008 của Chính phủ… Các địa phương cũng đã có nhiều cố gắng để xây dựng nông thôn mới nhưng nông thôn nước ta có phạm vi rất rộng lớn, kinh tế của nông thôn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên nhìn chung nông thôn nước ta còn rất nghèo. Cùng với đặc điểm địa hình phức tạp, nhiều sông suối chia cắt và cách lập làng theo tập quán có từ lâu đời nên nông thôn ta phát triển còn lộn xộn, mỗi nơi làm theo một cách, chưa theo một chuẩn mực thống nhất nào.

Nghị quyết số 26-NQ/TƯ của Ban Chấp hành Trung ương ngày 05/8/2008, “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” đã chỉ rõ: Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế – xã hội bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước. Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân phải dựa trên cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng lĩnh vực, để giải phóng và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, trước hết là lao động, đất đai, rừng và biển; khai thác tốt các điều kiện thuận lợi trong hội nhập kinh tế quốc tế cho phát triển lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn; phát huy cao nội lực; đồng thời tăng mạnh đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến cho nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết, phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực tự cường vươn lên của nông dân…

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về “Nông nghiệp, nông dân và nông thôn”, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới” (Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009) và “Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới” tại Quyết định số 800/- TTg ngày 06/4/2010 nhằm thống nhất chỉ đạo việc xây dựng nông thôn mới trên cả nước.

Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới (NTM) được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 6 năm 2010 với 19 tiêu chí Quốc gia được chia thành 5 nhóm gồm 39 chỉ tiêu cụ thể. Đây là một chương trình phát triển tổng hợp cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng hệ thống chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội; là Chương trình cả Đảng và Nhà nước cùng chăm lo phát triển đời sống của nhân dân trên địa bàn nông thôn.

1.2. Huyện Hòa Vang, Thành phố Đà Nẵng

Huyện Hòa Vang có diện tích tự nhiên 73.691 ha[1], gồm: Đất nông nghiệp 66.063 ha[2], đất phi nông nghiệp 6.706 ha và đất chưa sử dụng 923 ha. Tổng dân số trên địa bàn huyện 123.024 người, mật độ dân số 167 người/km2. Cơ cấu lao động bình quân trong ngành nông, lâm, thủy sản: 38,5%; công nghiệp, xây dựng: 27,1%; thương mại, dịch vụ: 34,4%.

Đảng bộ huyện Hòa Vang hiện có 33 chi, đảng bộ trực thuộc gồm 17 đảng bộ, 16 chi bộ và 241 chi bộ dưới cơ sở với 3.600 đảng viên (trong đó có 11 đảng bộ xã, với 118 thôn).

Trong những năm qua Huyện luôn nhận được sự đầu tư, giúp đỡ của trung ương, thành phố. Hạ tầng kinh tế-xã hội của huyện không ngừng được đầu tư, mở rộng; hệ thống đường liên thôn, liên xã, đường thôn, xóm, kiệt hẽm được nhựa hóa hoặc bêtông hóa đã làm thay đổi diện mạo nông thôn Hòa Vang; các công trình thủy lợi, giao thông nội đồng, kênh mương nội đồng không ngừng được đầu tư xây dựng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp; hệ thống trường học, cơ sở vật chất văn hóa thôn, xã ngày càng hoàn thiện; đầu tư xây dựng mới, cải tạo một số chợ nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa; các điểm phục vụ bưu chính viễn thông, internet đến thôn được mở rộng; cơ cấu kinh tế nông thôn được chuyển dịch theo hướng tích cực; số hộ nghèo, nhà tạm ngày càng giảm; hệ thống cung cấp nước sạch hợp vệ sinh được đầu tư, mở rộng; hệ thống tổ chức chính trị từ xã đến thôn ngày càng vững mạnh, công tác quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Qua kết quả khảo sát ban đầu so với 19 tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới (năm 2010) thì hầu hết các xã trên địa bàn huyện đều đạt ở mức khá: Đạt từ 9-15 tiêu chí có 04 xã, đạt từ 5-8 tiêu chí có 6 xã và chỉ có 01 xã đạt mức 4 tiêu chí; một số tiêu chí đạt cao như: Điện, Bưu điện, an ninh chính trị (11/11 xã đạt), Y tế, (có 10/11 xã đạt), văn hóa (9/11 xã đạt), hệ thống chính trị (8/11 xã).

Tuy nhiên, “bên cạnh những thuận lợi vẫn còn nhiều khó khăn như: công tác quy hoạch chưa được thực hiện, đặc biệt quy hoạch đất ở cho khu vực nông thôn; hạ tầng giao thông được đầu tư song vẫn còn hạn chế; nhà ở nông thôn xây dựng chủ yếu là tự phát; thu nhập bình quân đầu người so với mức bình quân chung của thành phố còn thấp; việc huy động nguồn lực đóng góp của nhân dân còn khó khăn,… Do vậy, ngoài yếu tố nội lực, để thực hiện được Chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới, huyện còn phụ thuộc lớn vào sự hỗ trợ, đầu tư từ Trung ương, thành phố và sự chung tay góp sức của các tổ chức, cá nhân”[3]; “quá trình đô thị hóa đã làm nảy sinh những khó khăn, áp lực to lớn về giải phóng mặt bằng, giải quyết việc làm, đời sống cho các hộ nông dân bị thu hồi đất; hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội còn thiếu và chưa đồng bộ, nhất là hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và đời sống, môi trường sống, môi trường sản xuất khu vực nông thôn ở nhiều nơi vẫn còn tình trạng ô nhiễm nặng, nhưng thiếu các giải pháp khắc phục; việc xây dựng thương hiệu, xúc tiến thương mại, phát triển thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa chưa được quan tâm đúng mức, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa chưa cao, tình trạng sản xuất nông nghiệp còn manh mún[4].

Do đó, việc nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm, chính sách và phương thức tổ chức, triển khai các chương trình phát triển nông thôn; đề xuất phương pháp, cơ chế và cách tiếp cận phù hợp để giải quyết những tiêu chí còn tồn tại, xây dựng điển hình, nhân rộng địa bàn và đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình xây dựng NTM ở Đà Nẵng nói chung và huyện Hòa Vang nói riêng là rất cần thiết.

Với nhận thức trên, tôi chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” đăng ký làm đề tài Luận văn cao học Quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích:

– Phân tích tình hình thực tiễn xây dựng NTM và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt Chương trình xây dựng NTM ở huyện Hòa Vang – Thành phố Đà Nẵng (theo 19 tiêu chí quốc gia)

3.2. Nhiệm vụ:

– Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp đổi theo quan điểm của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta.

– Phân tích thực trạng (kết quả, thành tựu, hạn chế, nguyên nhân…) của Chương trình xây dựng NTM trên địa bàn huyện Hòa Vang – Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị trong quản lý nhà nước về xây dựng NTM ở địa bàn huyện Hòa Vang

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1.Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới mà cụ thể là Chương trình xây dựng NTM dựa trên các tiêu chí được nêu trong Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 6 năm 2010 (với 19 tiêu chí Quốc gia được chia thành 5 nhóm gồm 39 chỉ tiêu cụ thể)

4.2.Phạm vi nghiên cứu

– Địa bàn nghiên cứu: Huyện Hòa Vang – Thành phố Đà Nẵng

-Thời gian: Từ năm 2009 đến nay

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận: Đề tài được thực hiện dựa trên quan điểm mác –xít về phát triển bền vững; các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân, nông thôn (nhất là các quan điểm được nêu trong Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và Văn kiện Đại hội XI)

5.2. Phương pháp nghiên cứu:

– Thống kê định lượng, tổng hợp, phân tích, so sánh, kết luận;

– Tham khảo ý kiến các chuyên gia, các nhà khoa học và thảo luận.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

– Nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta và vận dụng vào điều kiện cụ thể thành phố Đà Nẵng

– Tổng kết và rút ra bài học kinh nghiệm sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Đảng (khóa X) ngày 5-8-2008 “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”; đánh giá kết quả sau hơn hai năm triển khai “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới” của Chính phủ. Góp phần cụ thể hóa Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc Hội Nông dân Việt Nam lần thứ VI (nhiệm kỳ 2013 – 2018)

– Kết quả nghiên cứu của Luận văn sẽ góp phần cụ thể hóa “Chương trình hành động số 30-CTr/TU ngày 25-10-2008 về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời kỳ 2009-2015”

– Kết quả nghiên cứu còn là tư liệu để các cơ quan nghiên cứu (Học viện, Viện nghiên cứu, các Trường Đại học…) vận dụng vào công tác nghiên cứu và giảng dạy vấn đề xây dựng NTM.

7. Kết cấu đề tài: Ngoài Phần Mở đầu; Kết luận và Kiến nghị, Tư liệu tham khảo; Đề tài được kết cấu thành 3 chương

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

1.1. Cơ sở lý luận của xây dựng nông thôn mới

1.1.1. Khái niệm về nông thôn mới và xây dựng nông thôn mới

1.1.1.1. Khái niệm nông thôn mới

Đã có một số diễn giải và phân tích về khái niệm thế nào là nông thôn mới. Nông thôn mới trước tiên phải là nông thôn chứ không phải là thị tứ; đó là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền thống. Nếu so sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông thôn mới phải bao hàm cơ cấu và chức năng mới (Cù Ngọc Hưởng, 2006).

Ngày 04 tháng 6 năm 2010 Thủ Tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020. Tại quyết định này, mục tiêu chung của Chương trình được xác định là: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, nông thôn mới là nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, xã hội dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ vững.

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1.1.1.2. Khái niệm xây dựng nông thôn mới

Từ Quyết định số 491/QĐ-TTg và Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ thì “Xây dựng nông thôn mới là xây dựng nông thôn đạt 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới”.

1.1.2. Đơn vị nông thôn mới

Khoản 3 Điều 23 Thông tư 54/2009/TT-BNN&PTNT ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới quy định: Ban chỉ đạo nông thôn mới Trung ương kiểm tra việc công nhận xã nông thôn mới ở các tỉnh để xét công nhận huyện, tỉnh đạt chuẩn nông thôn mới cho các huyện có 75% số xã trong huyện đạt nông thôn mới và tỉnh có 75% số huyện trong tỉnh đạt nông thôn mới.

Như vậy đơn vị nông thôn mới có 3 cấp:

– Xã nông thôn mới (đạt 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia nông thôn mới);

– Huyện nông thôn mới (khi có 75% số xã nông thôn mới);

– Tỉnh nông thôn mới (khi có 75% số huyện nông thôn mới).

1.1.3. Chức năng của nông thôn mới

1.1.3.1. Chức năng sản xuất nông nghiệp hiện đại

Nông thôn mới phải là nơi sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng cao theo hướng sản xuất hàng hóa, không phải là tự cung tự cấp, phát huy được đặc sắc của địa phương ( đặc sản). Khác với nông thôn truyền thống, sản xuất nông nghiệp của nông thôn mới bao gồm cơ cấu các nghành nghề mới, các điều kiện sản xuất nông nghiệp hiện đại hoá, ứng dụng phổ biến khoa học kỹ thuật tiên tiến và xây dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại.

1.1.3.2. Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống

Trải qua lịch sử phát triển hàng ngàn năm, các làng xóm ở nông thôn thường được hình thành dựa trên những cộng đồng có cùng phong tục, tập quán, họ tộc. Người dân trong các làng xóm thường cư xử với nhau dựa trên quan hệ huyết thống và phong tục, tập quán. “Cũng chính văn hoá quê hương đã sản sinh ra những sản phẩm văn hoá tinh thần quý báu như lòng kính lão yêu trẻ, giúp nhau canh gác bảo vệ, giản dị tiết kiệm, thật thà đáng tin, yêu quý quê hương.vv.., tất cả được sản sinh trong hoàn cảnh xã hội nông thôn đặc thù. Các truyền thống văn hoá quý báu này đòi hỏi phải được giữ gìn và phát triển trong một hoàn cảnh đặc thù. Môi trường thành thị là nơi có tính mở cao, con người cũng có tính năng động cao, vì thế văn hoá quê hương ở đây sẽ không còn tính kế tục. Do vậy, chỉ có nông thôn với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và tụ cư theo dân tộc, dòng tộc mới là môi trường thích hợp nhất để giữ gìn và kế tục văn hoá quê hương. Ngoài ra, các cảnh quan nông thôn với những đặc trưng riêng đã hình thành nên màu sắc văn hoá làng xã đặc thù, thể hiện các tư tưởng triết học như trời đất giao hoà, thuận theo tự nhiên với sự tôn trọng tự nhiên, mưu cầu phát triển hài hoà cũng như chú trọng sự kế tục phát triển của các dân tộc” (Cù Ngọc Hưởng, 2006).

1.1.3.3. Chức năng sinh thái

Nói đến nông nghiệp là nói đến cây trồng. Cây trồng, một mặt cung cấp cho con người những nông sản cần thiết, một mặt có tác dụng cải tạo môi trường, làm đẹp cảnh quan… do đó, nông nghiệp nói riêng và nông thôn nói chung có chức năng sinh thái.

Nếu như nền văn minh công nghiệp phá vỡ mối quan hệ hài hòa vốn có giữa con người và thiên nhiên thì sản xuất nông nghiệp lại mang chức năng phục vụ hệ thống sinh thái. Từ vườn cây, ao cá, cánh đồng lúa, trang trại cà phê, tiêu…, hệ thống tưới tiêu, hồ đập thủy lợi… làm cho con người gần gũi, gắn chặt với thiên nhiên.

1.1.4. Chủ thể xây dựng nông thôn mới

Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới, người dân phải tham gia từ khâu quy hoạch, đồng thời góp công, góp của và phần lớn trực tiếp lao động sản xuất trong quá trình làm ra của cải vật chất, giữ gì bản sắc văn hóa dân tộc… đồng thời, cũng là người hưởng lợi từ thành quả của nông thôn mới, chính vì vậy, người dân là chủ thể xây dựng nông thôn mới.

“Có người cho rằng chủ thể xây dựng nông thôn phải là chính quyền. Tuy nhiên, trên thực tế, người nông dân mới thực sự là chủ thể xây dựng nông thôn. Đó không phải là do nhà nước không có đủ tiềm lực kinh tế để đóng vai trò chủ thể này, mà cho dù tiềm lực kinh tế của nhà nước có mạnh đi chăng nữa thì cũng không thể thiếu sự tham gia đóng góp tích cực của chính tầng lớp nông dân. Hiển nhiên nói người nông dân ở đây không phải chỉ đơn thuần là cá thể nông dân, mà phải được hiểu là các tổ chức nông dân” (Cù Ngọc Hưởng, 2006).

1.1.5. Nguồn gốc động lực xây dựng nông thôn mới

1.1.5.1. Động lực từ đô thị hóa

Nông thôn là một phần của các quốc gia, do đó, không thể giải quyết các vấn đề của nông thôn nếu như tách riêng nó với các khu vực khác của quốc gia. Trong các hoạt động kinh tế – xã hội của nông thôn bao giờ cũng có mối liên hệ mật thiết với đô thị và ngược lại. Chính vì vậy, “xây dựng nông thôn mới nếu chỉ dựa vào nguồn đầu tư từ nhà nước hay chỉ tiến hành trong nội bộ nông thôn sẽ không tạo ra được động lực cũng như tính linh hoạt, mà cần phải đặt nó trong bối cảnh phát triển thành thị và nông thôn đồng hành với nhau, dựa trên những quan điểm hệ thống. Thực tế, các vấn đề về nông nghiệp cần phải được giải quyết thông qua phát triển công nghiệp, các vấn đề về nông dân phải giải quyết thông qua phi nông hóa, phát triển nông thôn phải song hành cùng phát triển thành thị” (Cù Ngọc Hưởng, 2006).

1.1.5.2. Động lực từ công nghiệp hóa

“Quá trình đi lên hiện đại hóa của một quốc gia cũng chính là quá trình chuyển dịch từ nông nghiệp truyền thống sang công nghiệp hiện đại, đồng thời cũng là quá trình người nông dân tự do chuyển đổi thân phận của mình. Trong quá trình này, nguồn lực lao động sẽ chuyển dịch không ngừng từ nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, từ nông thôn sang thành thị, đó cũng chính là quá trình phi nông hóa người nông dân. Giải phóng thân phận phi nông hóa của nông dân là yêu cầu để phát triển nông thôn, đồng thời cũng là nhu cầu tất yếu của chính bản thân người nông dân” (Cù Ngọc Hưởng, 2006).

Việc lao động nông nghiệp chuyển dịch sang các lĩnh vực phi nông nghiệp sẽ tạo điều kiện cho nông nghiệp ở nông thôn chuyển từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Mặt khác, quá trình này sẽ giúp cho những người nông dân ở lại sản xuất nông nghiệp ở nông thôn có điều kiện tích tụ ruộng đất, từ đó phát triển kinh tế theo hướng trang trại, chuyên canh, đưa cơ giới, khoa học kỹ thuật cao áp dụng vào sản xuất, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp. Như vậy, sự nghiệp công nghiệp hóa là động lực to lớn để thúc đẩy nhanh quá trinh xây dựng nông thôn mới.

1.1.5.3. Động lực từ các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp và các tổ chức hợp tác

Sản xuất nông nghiệp tất yếu sẽ từng bước xóa bỏ sản xuất đơn lẻ của các hộ nông dân, tiến tới hình thành sự liên kết giữa các hộ và phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã… “Một trong những nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng nông thôn mới là phát triển hiện đại hóa nông nghiệp. Hiện đại hóa nông nghiệp ở đây phải được hiểu là ngoài các điều kiện sản xuất hiện đại như thủy lợi, làm đất, đường sá giao thông, viễn thông thông tin..vv., nó còn bao hàm chuyên nghiệp hóa trong các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Một khi đã thực hiện kinh doanh gia đình và phát triển kinh tế thị trường trong nông nghiệp, thì nhất định cũng phải thực hiện chuyên nghiệp hóa các doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây còn là cơ sở để gia tăng sức cạnh tranh quốc tế cho nông nghiệp. Ngoài ra, trong điều kiện thị trường, thì chỉ có sự tham gia của các tổ chức nông dân mới có thể nâng cao giá trị nông sản phẩm, đây cũng chính là chức năng cũng như trách nhiệm của các tổ chức hợp tác nông dân. Trong quá trình đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nông thôn hay tổ chức các hệ thống dịch vụ xã hội hóa cũng như tham gia vào gia công sản xuất nông sản phẩm, tổ chức đào tạo xã viên để nâng cao tố chất cho người nông dân..vv..trong tất cả các quá trình này, tổ chức hợp tác nông dân phát huy vai trò không thể thay thế (Cù Ngọc Hưởng, 2006).

1.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng nông thôn mới

1.2.1. Các quan điểm của Đảng về xây dựng NTM trước Đại hội VI

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề Nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

Đại hội Đảng lần thứ III (năm 1960): Trong bối cảnh đất nước ta đang tạm bị chia cắt thành 2 miền, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ngày càng ác liệt, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã xác định: Đưa miền Bắc từ nền kinh tế chủ yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể… từ tình trạng kinh tế rời rạc và lạc hậu, xây dựng thành một nền kinh tế cân đối và hiện đại. Chủ trương của Đảng là: “…xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp và lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ…” (Văn kiện Đại hội, Ban chấp hànhTrung ương Đảng Lao động Việt Nam, xuất bản tháng 9 – 1960, tr.182-183).

Tiếp theo, Hội nghị Trung ương 5 khóa III (năm 1961) đã ra Nghị quyết về vấn đề phát triển nông nghiệp, trong đó nêu lên phương hướng cải tiến công cụ và cơ giới hóa nông nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).

– Đại hội IV (năm 1976): Sau khi miền Nam hoàn toàn được giải phóng, Đảng ta đã chủ trương: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh tế nước ta từ nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa… kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công – nông nghiệp” (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, tháng 12 năm 1976, tr 68). Đại hội đã xác định kế hoạch 5 năm 1976 – 1980 là: “Tập trung cao độ lực lượng của cả nước, của các ngành, các cấp, tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp… nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần hàng tiêu dùng thông thường…”

– Đại hội V: Từ thực tiễn 30 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và những năm sau thống nhất đất nước, Đảng ta ngày càng thấy rõ vai trò của sản xuất nông nghiệp. Đại hội V đã chỉ rõ: “Trong 5 năm 1981 – 1985 và những năm 80 cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công – nông nghiệp hợp lý”.

Như vậy, từ Đại hội III đến Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, chúng ta có thể khẳng định rằng, tuy chưa chưa đề cập đến cụm từ “Nông thôn mới” nhưng Đảng ta luôn xác định nông nghiệp có một vị trí rất quan trọng, là mặt trận hàng đầu, đồng thời đã đề ra nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại.

1.2.2. Các quan điểm của Đảng về xây dựng NTM từ Đại hội VI đến nay

– Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI: Đại hội VI đã đề ra những quan điểm và chính sách đổi mới, trước hết là đổi mới kinh tế; phấn đấu đưa nông nghiệp trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa; thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần; xác định cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế.

Đại hội chỉ rõ: “… nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế – xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường tiếp theo” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb.Sự thật, Hà Nội, 1987, tr 20).

Từ những tư tưởng chỉ đạo trên và rút kinh nghiệm từ khoán theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khóa IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) đã thổi vào nông nghiệp, nông thôn nước ta một luồng gió mới, cuộc sống của người dân đã được cải thiện nhanh chóng.

– Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII:

Đại hội VII đã chỉ rõ: “Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế – xã hội” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr 67).

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa VII) đã xác định một hệ thống quan điểm nhằm tiếp tục đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn mới là:

– Đặt sự phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa…

– Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần…

– Gắn sản xuất với thị trường; đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới…

– Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài; bảo vệ và phát triển tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới. Đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới hệ thống chính trị trong nông thôn.

– Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII:

Đại hội VIII đã khẳng định: “Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 80).

Nghị quyết Đại hội VIII cũng chỉ rõ phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời chỉ rõ nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là:

+ Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong, ngoài nước.

+ Thưc hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa…

+ Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị.

+ Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.

Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

+ Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 87).

Tiếp theo, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII đã xác định các những nội dung cần đẩy mạnh trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, đó là: Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn; giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới các hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa.

Ngày 10 tháng 11 năm 1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ra Nghị quyết số 06 – NQ/TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn.

– Đại hội IX của Đảng: Đại hội IX đã chủ trương phải rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020, nước ta trở thành một nước công nghiệp, đồng thời chỉ rõ phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển vắn hóa – xã hội, tăng cường các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.

  1. Nếu trừ diện tích tạm thời chuyển cho Quận Cẩm Lệ (năm 2012), diện tích tự nhiên của huyện là 73.489 ha
  2. Đất trồng cây hằng năm: 4.680,13 ha; đất trồng cây lâu năm: 1.310,02 ha; đất lâm nghiệp: 50.938,99 ha; đất nuôi trồng thủy sản: 109,49 ha
  3. Đảng bộ thành phố Đà Nẵng, Huyện ủy Hòa Vang: Báo cáo kết quả lãnh đạo, chỉ đạothực hiện Chỉ thị số 18-CT/TU, ngày 19-3-2012của Ban Thường vụ Thành ủy về “Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố”. Báo cáo số 112 – BC/HU, Hòa Vang 13/3/2013
  4. Duyên Anh: Triển khai thực hiện Chỉ thị số 18-CT/TU về xây dựng nông thôn mới. Báo Đà Nẵng Thứ Sáu, 30/03/2012

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN HOC VIEN HANH CHINH\HOC VIEN HANH CHINH\LE THI BICH THUAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *