Quản lý nhà nước về tôn giáo – từ thực tiễn huyện Hòa Vang

Quản lý nhà nước về tôn giáo - từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Quản lý nhà nước về tôn giáo – từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1. Lý do chọn đề tài

Hòa Vang là huyện duy nhất của thành phố Đà Nẵng (không tính Huyện đảo Hoàng Sa), nằm ở ngoại thành ở phía Tây của thành phố. Huyện có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế, đồng thời cũng là địa bàn tập trung nhiều tổ chức tôn giáo, có đông chức sắc, nhà tu hành, tín đồ… với nhiều hoạt động tôn giáo diễn ra đa dạng, phong phú. Hiện nay, trên địa bàn huyện có 5 tổ chức tôn giáo đang hoạt động hợp pháp, ổn định, với khoảng 22.572 tín đồ, có 184 chức sắc, tu sỹ; 38 cơ sở tôn giáo và nhiều cơ sở chuyên dùng khác. Hoạt động tôn giáo của các tổ chức tôn giáo ở huyện Hòa Vang trong thời gian qua nhìn chung diễn ra bình thường, ổn định, tuân thủ pháp luật, thuần túy tôn giáo. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây có một số biến động do chịu tác động của tình hình hoạt động tôn giáo trong nước có nhiều diễn biến phức tạp. Cụ thể, tình trạng khiếu kiện, tranh chấp, xin lại các cơ sở có nguồn gốc tôn giáo xảy ra ngày càng nhiều hơn, trở thành hiện tượng phổ biến trong hầu hết các tôn giáo. Nhiều tổ chức, hệ phái Tin lành đã lợi dụng hoặc hiểu sai chính sách pháp luật nhà nước về tôn giáo và Chỉ thị 01/2005/CT-TTg để truyền đạo, phát triển điểm nhóm, hội thánh cơ sở dưới nhiều hình thức. Một số vụ tụ tập truyền đạo của các nhóm theo các hệ phái Tin lành chưa được Nhà nước công nhận pháp nhân, có yếu tố nước ngoài, hoạt động truyền đạo tiềm ẩn những yếu tố bất ổn về an ninh chinh trị, gây xung đột văn hóa, tập quán trong một bộ phận nhân dân. Trong khi đó, việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo của chính quyền địa phương còn lúng túng, thiếu đồng bộ; công tác xây dựng lực lượng cốt cán, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được quan tâm đúng mức; nhận thức đối với tôn giáo và hoạt động tôn giáo của chính quyền cấp xã ở một số nơi chưa thống nhất. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nghiên cứu tìm ra giải pháp khắc phục. Đây chính là cơ sở thúc đẩy học viên chọn đề tài “Quản lý nhà nước về tôn giáo – từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng” để thực hiện luận văn thạc sĩ chuyên ngành luật hành chính của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn

3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu:

Luận văn nghiên cứu thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện, đồng thời góp phần làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn trong chính sách, pháp luật hiện hành về tôn giáo của nước ta từ cấp độ cơ sở.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

– Khái quát tình hình kinh tế – văn hóa – xã hội, quản lý nhà nước về tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

– Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

– Đề xuất phương hướng, giải pháp để giải quyết các vấn đề đặt ra, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

– Gợi mở một số vấn đề lý luận, thực tiễn nhằm hoàn thiện khuôn khổ chính sách, pháp luật hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo của nước ta từ cấp độ cơ sở.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

– Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hoạt động của các tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và tác động của nhà nước với hoạt động của các tôn giáo này.

– Phạm vi nghiên cứu:

Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, để phân tích so sánh, đề tài đề cập khái quát đến hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo ở một số địa phương khác của thành phố Đà Nẵng, bao gồm Quận Liên Chiểu và Quận Cẩm Lệ.

Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về tôn giáo trong giai đoạn từ khi có các Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương khóa IX về Công tác tôn giáo (tức là từ năm 2003 đến nay).

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa của luận văn

Qua những phân tích về thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, luận văn đã làm rõ thêm một số vấn đề lý luận, thực tiễn về quản lý nhà nước về tôn giáo từ cấp độ cơ sở.

Luận văn cũng làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản lý nhà nước về tôn giáo tại huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở địa phương trong thời gian tới.

Với những điểm mới như trên, luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về tôn giáo, đồng thời có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy và bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang và các địa phương khác của thành phố Đà Nẵng.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Mục lục, Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước về tôn giáo.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước với hoạt động tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO

    1. 1.1. Khái quát chung về tôn giáo
      1. 1.1.1. Lịch sử hình thành thuật ngữ “tôn giáo”

Tôn giáo là một thuật ngữ không thuần Việt, được du nhập từ nước ngoài vào cuối thế kỷ XIX. Xét về nội dung, thuật ngữ tôn giáo khó có thể hàm chứa được tất cả nội dung đầy đủ của nó từ cổ đến kim, từ Đông sang Tây.

Thuật ngữ “Tôn giáo” sử dụng hiện nay ở nước ta vốn có nguồn gốc từ phương Tây. Nó có một quá trình biến đổi lâu dài để trở thành phổ quát trên toàn thế giới mà trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều quan niệm, định nghĩa khác nhau của nhiều dân tộc.

      1. 1.1.2. Quan niệm về tôn giáo

1.1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những vị lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, các ông đã để lại những tư tưởng lý luận quý báu về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trong đó có những nhận định khoa học và cách mạng về vấn đề tôn giáo.

Khi nghiên cứu về nguồn gốc của tôn giáo, C.Mác đã chỉ ra rằng:

“Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa tìm thấy bản thân mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người. Nhưng con người không phải là một “sinh vật trừu tượng, ẩn náu đâu đó ngoài thế giới. Con người chính là thế giới con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo”

Quản lý nhà nước về tôn giáo - từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về tôn giáo – từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

1.1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo, tín ngưỡng phản ánh những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo, tín ngưỡng và vận dụng sáng tạo vào điều kiện Việt Nam.

Nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo đó là tư tưởng đoàn kết tôn giáo, hòa hợp dân tộc, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu mối quan hệ chặt chẽ giữa tôn giáo với dân tộc một cách giản dị, dễ hiểu nhưng rất độc đáo và sâu sắc: Kính Chúa gắn liền với yêu nước, phụng sự Thiên chúa và phụng sự Tổ quốc, nước có vinh thì đạo mới sáng, nước có độc lập thì tôn giáo, tín ngưỡng mới được tự  do.

Hồ Chí Minh cũng nêu rõ những giá trị đạo đức và văn hóa nhất định của tôn giáo:

“Chúa Giê-su dạy: đạo đức là bác ái.

Phật Thích ca dạy: đạo đức là từ bi.

Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa”

    1. 1.2. Vài nét về tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, có truyền thống văn hóa lâu đời, có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên một lãnh thổ với văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống khác nhau mang đậm bản sắc tộc người. Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đều có những sắc thái riêng, song lại giống nhau ở một điểm là đều có tập tục thờ đa thần.

Tôn giáo của người Việt được tạo ra từ các luồng tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, đó là: Tín ngưỡng bản địa và tục thờ đa thần; tôn giáo ngoại sinh (là những tôn giáo được sinh ra từ nước ngoài như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo…, rồi sau đó được truyền bá vào Việt Nam); tôn giáo nội sinh (là tôn giáo được hình thành ngay ở Việt Nam như Đạo Cao đài, Phật giáo Hòa hảo, đạo Tứ Ân Hiếu nghĩa..) và các hiện tượng tôn giáo mới. Trong quá trình truyền bá, các tôn giáo ngoại sinh luôn phải thích ứng với hình thái văn hóa tín ngưỡng của người Việt Nam, do vậy cũng có nhiều biến đổi, không còn nguyên dạng như trước nữa; nói cách khác, các tôn giáo ngoại sinh khi vào Việt Nam đã được văn hóa Việt Nam đồng hóa.

Dù là tôn giáo ngoại sinh hay nội sinh thì tín đồ các tôn giáo này vẫn bị chi phối bởi hệ thứ đa thần giáo, bởi tinh thần bao dung tôn giáo, đứng về phía dân tộc, Yêu nước là một truyền thống quý báu của các tín đồ và tuyệt đại đa số chức sắc tôn giáo ở Việt Nam. Hơn ai hết, đồng bào các tôn giáo hiểu rất rõ rằng Tổ quốc có độc lập, tôn giáo mới tự do.

Là một nước đa tôn giáo nhưng tín đồ các tôn giáo ở Việt nam nhìn chung đều gắn bó với dân tộc, đồng thời là một nhân tố xã hội và văn hóa tích cực góp phần làm cho nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Việt Nam là một đất nước rất ôn hòa trong quan hệ giữa các tôn giáo; có truyền thống đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân trong quá trình dựng nước và giữ nước. Việc chung sống hòa thuận và bao dung giữa các tôn giáo cùng với cái nhìn nhân ái, nhân bản của con người và xã hội Việt Nam đã tạo ra một bức tranh sinh động về tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam: Thuần túy nhưng phong phú, đan xen nhưng không mâu thuẫn. Đặc biệt, ở Việt Nam ngày nay, sự hòa thuận giữa các tôn giáo và Nhà nước đã thể hiện rất rõ. Vì thế, ở Việt Nam không xảy ra xung đột tôn giáo. Đại đoàn kết toàn dân tộc trong đó có đoàn kết các tôn giáo là nguồn sức mạnh và là nhân tố quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    1. 1.3. Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Việt Nam
      1. 1.3.1. Khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo

QLNN về tôn giáo có thể hiểu theo hai nghĩa, rộng và hẹp.

Theo nghĩa rộng, QLNN về tôn giáo là quá trình dùng quyền lực của các cơ quan trong bộ máy nhà nước để tác động, điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình tôn giáo và hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân diễn ra phù hợp với pháp luật, đạt được mục tiêu cụ thể của chủ thể quản lý.

Theo nghĩa hẹp, QLNN về tôn giáo là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh các hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân diễn ra theo đúng quy định của pháp luật.

      1. 1.3.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước về tôn giáo

Từ khái niệm quản lý nhà nước về tôn giáo như trên, có thể khẳng định rằng quản lý nhà nước về tôn giáo có đầy đủ các đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước, đó là:

– Hoạt động mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước;

– Hoạt động có mục tiêu chiến lược, có chương trình và có kế hoạch để thực hiện mục tiêu;

– Hoạt động có tính chất chấp hành và điều hành trên cơ sở pháp luật, nhưng có tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành và xử lý các công việc cụ thể;

– Hoạt động mang tính liên tục và tương đối ổn định; có tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ, là một hệ thống thông suốt từ Trung ương đến cơ sở, cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện mệnh lệnh và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên; không có sự cách biệt tuyệt đối về mặt xã hội giữa người quản lý và người bị quản lý

Do đó, đặc điểm của QLNN về tôn giáo được xem xét ở những mặt sau:

Một là, ở một quốc gia đa tôn giáo như nước ta thì các tín đồ tôn giáo phải luôn đặt lợi ích dân tộc, quốc gia lên trên hết và phấn đấu vì mục tiêu chung là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Nhà nước không phân biệt đối xử về nghĩa vụ và quyền lợi công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo, giải quyết hài hòa giữa mặt công dân và mặt tín đồ.

Hai là, phát huy tính khoan dung, hòa đồng giữa các tôn giáo nhằm đoàn kết các tôn giáo để đảm bảo ổn định chính trị – xã hội, đồng thời chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào có đạo, thực hiện có hiệu quả chính sách xóa đói giảm nghèo ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đông đồng bào tín đồ tôn giáo đang gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Ba là, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhưng luôn đề cao cảnh giác chống những âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch.

      1. 1.3.3. Nội dung quản lý nhà nước về tôn giáo

Để thực hiện nội dung QLNN về tôn giáo, có thể kể tới một số nội dung cơ bản sau đây:

Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo; tổ chức bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tôn giáo; tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tôn giáo; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo; kiểm tra, xử lý các vi phạm về tôn giáo.

    1. 1.4. Trách nhiệm của các chủ thể trong quản lý nhà nước về tôn giáo
    2. Bộ Nội vụ – cơ quan của Chính phủ, giúp hính phủ quản lý nhà nước về tôn giáo; Ban Tôn giáo Chính phủ – cơ quan của Bộ Nội vụ, tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ quản lý nhà nước về tôn giáo; Các bộ, ngành khác có liên quan phối hợp với Bộ Nội vụ trong quản lý nhà nước về tôn giáo ( Bộ Công an, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Mặt trân Tổ quốc Việt Nam…); Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện chức năng quản lý về tôn giáo ở địa phương.
    3. 1.5. Vai trò của quản lý nhà nước về tôn giáo

Ở Việt Nam, quản lý nhà nước về tôn giáo nhằm thực hiện các mục tiêu như sau;

      1. – Tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền tự do tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam về tôn giáo
      2. – Tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam về tôn giáo
      3. – Phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý những hành vi lợi dụng hoạt động tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và xâm hại an ninh trật tự
    1. 1.6. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về tôn giáo ở một số địa phương thuộc thành phố Đà Nẵng
      1. Quản lý nhà nước về tôn giáo ở Quận Liên Chiểu; Quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung tâm thành phố Đà Nẵng; Bài học kinh nghiệm cho huyện Hòa Vang.

Chương 2

THỰC TIỄN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO

Ở HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

    1. 2.1. Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
      1. – Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
      2. – Điều kiện văn hóa, xã hội
    2. 2.2. Khái quát về các tôn giáo chính trên huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Hiện tại, tổng số cơ sở tôn giáo trên địa bàn huyện là 38, trong đó:

– Phật giáo: 13 khuôn hội chùa cơ sở

– Công giáo: 16 cơ sở (07 giáo xứ, 06 giáo họ, 02 dòng Phao lô và 01 dòng Mến Thánh giá).

– Cao đài: 02 Thánh thất

– Các hệ phái Tin lành: có 03 hệ phái, có 01 thánh đường và 02 điểm nhóm.

– Minh sư đạo: có 02 chùa.

Thể hiện qua biểu đồ sau:

Hình 2.1: Các tôn giáo chính ở huyện Hòa Vang,

thành phố Đà Nẵng

Cũng tính ở thời điểm hiện tại, tổng số chức sắc, tu sỹ các tôn giáo ở huyện Hòa Vang là 184, trong đó có 154 chức sắc và 30 tu sỹ, phân bổ như sau:

– Phật giáo: 115 chức sắc

– Công giáo: 41 (29 chức sắc, 12 tu sỹ)

– Cao đài: 9 (4 chức sắc, 5 tu sỹ)

– Các hệ phái Tin lành: 11 (4 chức sắc, 7 tu sỹ)

– Minh sư đạo: 8 (2 chức sắc, 6 tu sỹ)

Thể hiện qua biểu đồ sau:

Hình 2.2: Chức sắc các tôn giáo chính ở huyện Hòa Vang,

thành phố Đà Nẵng

Về tín đồ, hiện tại, tổng số tín đồ của các tôn giáo chính trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng là 22.572 người, trong đó:

– Phật giáo: 5.810

– Công giáo: 14.752

– Cao đài: 430

– Các hệ phái Tin lành: 679

– Minh sư đạo: 901

Thể hiện qua biểu đồ sau:

Hình 2.3: Tín đồ của các tôn giáo chính ở huyện Hòa Vang,

thành phố Đà Nẵng

    1. 2.3. Quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
      1. – Công tác xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản pháp quy về tôn giáo

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về tôn giáo; công tác xây dựng và ban hành văn bản pháp quy về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng; công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tôn giáo và tổ chức thực hiện pháp luật về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

      1. – Thực trạng bảo đảm các điều kiện cho quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
      2. Công tác kiện toàn, củng cố bộ máy, củng cố đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo từ huyện đến xã được quan tâm, có chế độ ưu đãi với đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; công tác bồi dưỡng, tập huấn công tác tôn giáo.
    1. 2.4. Kết quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
      1. Quản lý hoạt động tôn giáo; quản lý hoạt động xã hội của tổ chức, cá nhân tôn giáo; quản lý hoạt động hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân tôn giáo.
    2. 2.5. Những tồn tại trong quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và nguyên nhân
      1. 2.5.1. Những tồn tại

Trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đạt được, QLNN về tôn giáo trên địa bàn huyện Hòa Vang cũng còn một số tồn tại cơ bản như sau:

– Về triển khai thi hành Pháp lệnh và các văn bản hướng dẫn thi hành

Việc tuyên truyền, phổ biến Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, các chủ trương mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo tuy đã triển khai sâu rộng trong hệ thống chính trị, hệ thống chức sắc, chức việc các tôn giáo, song còn có không ít cấp ủy và chính quyền cơ sở vẫn còn xem nhẹ, chưa xác định được đây là nhiệm vụ chính trị lâu dài, chưa nhận thức đầy đủ về tính nhạy cảm, phức tạp và các mối quan hệ quốc tế khác liên quan. Có nơi còn máy móc, có tâm lý ngại tiếp xúc với chức sắc tôn giáo, trong khi có nơi còn buông lỏng, thả nổi, tạo cơ hội cho số chức sắc tạo việc đã rồi, gây phức tạp cho công tác quản lý và xử lý, nhất là ở xã. Mặt khác, đội ngũ cán bộ làm tôn giáo các cấp không ổn định, thường xuyên thay đổi, công tác bố trí cán bộ làm tôn giáo chưa đạt tiêu chuẩn, yêu cầu đề ra. Vì vậy việc triển khai, đưa tinh thần Pháp lệnh và Nghị định liên quan vào thực tế cuộc sống ở chính quyền cơ sở còn nhiều hạn chế; việc giải quyết các vụ việc ở cơ sở có lúc chưa linh hoạt, trong giải thích, vận động còn thiếu kỹ năng, gây bức xúc trong chức sắc, tín đồ, tạo sơ hở cho các phần tử xấu lợi dụng kích động.

Tình trạng trên một phần là do Pháp lệnh, Nghị định và các văn bản hướng dẫn của Trung ương còn thiếu quy định cụ thể về chế tài xử lý hành chính đối với lĩnh vực tôn giáo. Điều này đã tạo tâm lý dè dặt, lúng túng trong xử lý đối với các hoạt động truyền đạo, tụ tập hoạt động tôn giáo trái với quy định của pháp luật. Ngoài ra sự hợp tác, tuân thủ pháp luật của tổ chức, cá nhân tôn giáo phần nào hạn chế, một số chức sắc có trình độ, am hiểu về pháp luật đã tìm mọi cách lách luật, không chấp hành sự hướng dẫn của chính quyền địa phương. Các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là số chưa có tư cách pháp nhân luôn tìm cách mở rộng ảnh hưởng bằng việc tranh thủ hoạt động, cố tạo dần sự công khai hóa để tiến tới xin công nhận tư cách pháp nhân. Trong khi đó, công tác chỉ đạo của địa phương phải chờ đợi từ Trung ương. Do vậy, khi giải quyết vấn đề, mỗi nơi làm mỗi cách, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa cao. Một số chức sắc, nhà tu hành bị chi phối bởi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, của các phần tử cực đoan nên đã có những hoạt động gây rối trật tự và tiếp tay cho kẻ xấu khiến cho quản lý nhà nước về tôn giáo gặp rất nhiều khó khăn.

– Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc triển khai thực hiện Pháp lệnh, Nghị định

Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Thực tế cho thấy việc lĩnh hội văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo, sự am hiểu về giáo lý, giáo luật của tổ chức tôn giáo và quan điểm chỉ đạo, xử lý ở mỗi vị lãnh đạo, mỗi ngành, địa phương là khác nhau nên trong công tác phối hợp đôi lúc vẫn chưa có sự thống nhất, đồng bộ, thậm chí còn đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.

Ban Tôn giáo huyện là cơ quan chủ trì phối hợp và trực tiếp tham mưu Huyện ủy, UBND Huyện, Phòng Nội vụ về quản lý nhà nước về tôn giáo trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, trong bộ máy tổ chức nhà nước, vị thế của Ban Tôn giáo chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được giao, nên trong cơ chế phối hợp, chỉ đạo các đơn vị trực thuộc còn rất nhiều hạn chế.

Tuy việc phân cấp quản lý cho từng ngành, địa phương về giải quyết các nội dung liên quan đến tôn giáo đã được quy định cụ thể tại Nghị định số 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ, nhưng khi có vụ việc phát sinh, nhất là những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều cơ quan quản lý thì tình trạng sợ trách nhiệm, đùn đẩy công việc cho nhau của các đơn vị vẫn còn. Việc cung cấp thông tin cho nhau trong phát hiện, xử lý các hoạt động tôn giáo vẫn còn dè dặt. Một số tổ chức, cá nhân hoạt động dưới hình thức tín ngưỡng, mê tín dị đoan hoặc dưới mô hình một tổ chức chưa phân biệt là tôn giáo, tín ngưỡng, hay mê tín dị đoan, khi bị phát hiện, chính quyền địa phương lúng túng trong xử lý, các cơ quan chức năng liên quan chỉ nắm tình hình nên cách giải quyết vấn đề vẫn còn bỏ ngỏ.

      1. 2.5.2. Nguyên nhân

– Nguyên nhân từ các quy định của Pháp lệnh

Đối với quy định của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo có những điều, khoản, điểm nêu chưa rõ ràng, khó hiểu và khó vận dụng trong thực tiễn, ảnh hưởng nhất định đến công tác hưỡng dẫn, quản lý của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.

Như: tại khoản 4, Điều 3 Pháp lệnh quy định: “Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm ban hộ tự hoặc ban quản trị chùa của đạo Phật…”, nhưng trong thực tế hiện nay ngoài chùa của đạo Phật còn có những chùa do cộng đồng dân cư làng xã xây dựng gọi là chùa làng nằm trong cụm cơ sở tín ngưỡng (đình, đền, am, miếu). Chính điều này dẫn đến phát sinh một số vụ việc mâu thuẫn giữa cộng đồng dân cư và Giáo hội Phật giáo trong việc quản lý các chùa (vấn đề này cũng tương đối phổ biến ở các tỉnh, thành phố phía Bắc.

Khoản 1, Điều 11 Pháp lệnh quy định “Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo”. Quy định này không nêu rõ chức sắc, nhà tu hành được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở trong hệ thống giáo hội mà chức sắc, nhà tu hành tin theo; trong khi trên thực tế, các hoạt động tôn giáo của chức sắc luôn gắn liền với các hoạt động tôn giáo trong phạm vi toàn giáo hội.

– Pháp lệnh chưa đầy đủ phái áp dụng văn bản khác.

– Nguyên nhân từ thực tiễn thi hành văn bản quy phạp pháp luật.

Quản lý nhà nước về tôn giáo - từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về tôn giáo – từ thực tiễn huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ TÔN GIÁO

Ở HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

    1. 3.1. Quan điểm về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
      1. Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước về tôn giáo; thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo tại Nghị quyết 25 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo; chú trọng kiện toàn tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo; nâng cao chất lượng của công tác phối hợp giữa các Ban, Ngành và chính quyền các cấp tại địa phương trong công tác tôn giáo; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về tôn giáo cho cán bộ cơ sở và chức sắc, tín đồ, đồng bào theo đạo; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính trong quản lý nhà nước về tôn giáo.
    2. 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng
      1. 3.2.1. Các giải pháp áp dụng trực tiếp ở địa phương

Thứ nhất, cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo cả hệ thống chính trị, đảm bảo có sự thống nhất trong nhận thức, hành động thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với tôn giáo, từ đó tạo được sự đồng thuận, đồng bộ trong triển khai, quản lý của các cấp trong hệ thống chính trị đối với các tôn giáo tại địa phương. Đồng thời, cần đôn đốc các ngành chức năng và chính quyền địa phương liên quan trong công tác tham mưu giải quyết các nhu cầu chính đáng của tổ chức tôn giáo, nhất là liên quan đến lĩnh vực đất đai, cơ sở tôn giáo, theo hướng nhất thiết phải giao cho một ngành chủ trì giải quyết kịp thời, đúng quy định của pháp luật.

Thứ hai, tăng cường củng cố, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là lực lượng cốt cán trong vùng đồng bào có đạo, đẩy mạnh công tác củng cố kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhất là ở các vùng trọng điểm, theo hướng ổn định, đảm bảo tiêu chuẩn về năng lực, đạo đức, nhiệt tình và có trình độ chuyên môn liên quan đến tôn giáo.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách, chủ trương, quy định pháp luật về tôn giáo cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tôn giáo và chức sắc, chức việc của các tổ chức tôn giáo, đưa tinh thần của Nghị quyết 25/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định 92/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nhanh chóng đi vào cuộc sống, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của chức sắc và đồng bào theo đạo trên địa bàn huyện Hòa Vang.

Thứ tư, không ngừng nâng cao chất lượng công tác phối hợp giữa các ban, ngành, đoàn thể và chính quyền các cấp trong công tác tôn giáo, nâng cao chất lượng giao ban định kỳ giữa các ngành chức năng và chính quyền địa phương nhằm tạo được sự đồng thuận cao trong quá trình xử lý công việc. Từng bước đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác cải cách hành chính trong quản lý các tôn giáo tại địa phương.

Thứ năm, quan tâm và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hợp pháp sinh hoạt theo đúng Hiến chương, Điều lệ của Giáo hội, đảm bảo cho các tôn giáo trên địa bàn huyện diễn ra thuần túy, bình thường và trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa đấu tranh với các tổ chức tôn giáo trái phép, các đối tượng cực đoan lợi dụng tôn giáo để gây mất an ninh trật tư, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân.

Thứ sáu, đối với đạo Tin lành thì không khuyến khích, không tạo điều kiện phát triển, cũng không ngăn cấm đồng bào theo đạo Tin lành, cần chủ động ngăn chặn sự phát triển không bình thường, những hoạt động tôn giáo trái pháp luật và tăng cường QLNN về đạo Tin lành theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, trong đó có vấn đề đăng ký sinh hoạt điểm nhóm Tin lành. Kiên quyết và xử lý nghiêm những kẻ hoạt động lợi dụng đạo Tin lành chống phá Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, ảnh hưởng an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

      1. 3.2.2. Các giải pháp gián tiếp từ cấp trung ương và thành phố Đà Nẵng

Thứ nhất, liên quan đến Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo và Nghị định hướng dẫn thi hành.

Nên quy định rõ đối tượng, phạm vi áp dụng về tôn giáo và tín ngưỡng. Bởi vì khác với hoạt động tôn giáo, hoạt động tín ngưỡng là loại hình hoạt động không có tổ chức, song lại thu hút đại đa số quần chúng nhân dân tham gia. Loại hình hoạt động này rất phong phú, được thực hiện dưới nhiều hình thức như thờ cúng tổ tiên tại gia đình, thờ những người có công với cộng đồng, dân tộc và các hoạt động tín ngưỡng dân gian được tổ chức ở khắp các vùng miền trên cả nước. Có thể nói các hình thức tín ngưỡng là tiền đề hình thành các loại hình tôn giáo, chính vì vậy cần phải bổ sung một số khái niệm vào Pháp lệnh, Nghị định như: Sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, công trình tôn giáo, biểu tượng tôn giáo, tín ngưỡng tôn giáo – tín ngưỡng dân gian, lễ hội tín ngưỡng tôn giáo – lễ hội tín ngưỡng dân gian

– Nên quy định vấn đề đặt, dựng tượng, đài, bia, tháp ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự, vì vậy, để phù hợp với thực tế đề nghị bổ sung nội dung này vào Pháp lệnh.

– Nên bổ sung quy định về quản lý, sử dụng con dấu của các tổ chức tôn giáo, nhất là tổ chức có nguồn gốc hoạt động trước 1975.

Thứ hai, liên quan việc phân cấp thẩm quyền giữa Trung ương, UBND các cấp; Ban Tôn giáo, Sở Nội vụ và Phòng Nội vụ quận, huyện.

– Việc phân cấp thẩm quyền trong Pháp lệnh đã cụ thể. Tuy nhiên, theo quy định tại điều 19, việc đăng ký của các Hội đoàn chỉ đăng ký với cơ quan nhà nước cấp quận, huyện trở lên, nhưng thực tế cho thấy các hội đoàn trong Công giáo ở tổ chức tôn giáo cơ sở thực hiện theo chủ trương của từng Giáo phận và Hội đồng Giám mục Việt Nam còn Phật giáo hiện nay chủ yếu do tổ chức tôn giáo cấp cở sở tự lập ra, gắn liền với hoạt động của các tổ chức cơ sở. Do vậy, cần phải có sự phân cấp quản lý nhà nước thật cụ thể.

Thứ ba, liên quan đến vấn đề xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của tổ chức, cá nhân tôn giáo khi thực hiện các hoạt động tôn giáo và một số kiến nghị khác

– Việc xử lý các đối tượng truyền đạo trái pháp luật hiện nay còn nhiều bất cập và lúng túng, ngoài việc lập biên bản và giải tán, chính quyền cơ sở chưa có căn cứ pháp lý nào để xử phạt các đối tượng, đặc biệt là những đối tượng đã nhiều lần vi phạm. Vì vậy Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với cơ quan chức năng liên quan tham mưu và ban hành văn bản quy phạm pháp luật về xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo để làm cơ sở cho chính quyền địa phương xử lý và quản lý tốt các hoạt động truyền đạo trái pháp luật.

– Hiện nay các tổ chức tôn giáo tăng cường việc khôi phục các Hội đoàn trước 1975 và công khai tổ chức các hoạt động khi chưa đăng ký và chưa có sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tiêu biểu là trong Giáo hội Công giáo. Đây là các tổ chức huy động rất đông lực lượng trẻ của Giáo hội, hoạt động thường xuyên và có sự chỉ đạo cụ thể của chức sắc đứng đầu Giáo phận. Nếu không điều chỉnh sẽ ảnh hưởng lâu dài đến quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng và an ninh chính trị của quốc gia nói chung. Vì vậy Ban Tôn giáo Chính phủ, cụ thể là Vụ Công giáo nghiên cứu và ban hành văn bản chỉ đạo cụ thể để giải quyết thực trạng trên.

– Hiện nay, cùng với việc mở rộng cơ sở thờ tự, tăng cường truyền giáo để thu hút tín đồ, các tổ chức tôn giáo đã công khai việc xin mở trường học, trường dạy nghề để góp phần vào công tác xã hội hóa. Đây là việc làm mang tính xã hội có ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu không có quy định rõ ràng, cụ thể về giới hạn của tổ chức tôn giáo trong vấn đề dạy học, dạy nghề và chức năng quản lý theo thẩm quyền của các cơ quan có liên quan sẽ gây khó khăn cho quản lý khi các tổ chức này đi vào hoạt động. Vì vậy, đề nghị Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp với cơ quan chức năng liên quan ở Trung ương nghiên cứu, tham mưu và đề xuất cơ quan có thẩm quyền có hướng dẫn cụ thể để giúp các địa phương xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.

Thứ tư, liên quan đến công tác chỉ đạo của UBND thành phố Đà Nẵng

– Để đảm bảo tình hình tôn giáo giáo trong thời gian đến được ổn định, đề nghị UBND thành phố cần tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các ban, ngành có liên quan đến công tác tôn giáo, đặc biệt là quan tâm đến chính sách đối với chức sắc các tôn giáo trên địa bàn, tạo điều kiện để họ tham gia vào Đảng, các tổ chức đoàn thể xã hội và Ủy ban Mặt trận các cấp của thành phố.

– UBND thành phố cũng cần chỉ đạo các cơ quan có liên quan, nhất là đối với các trường Đại học, Cao Đẳng, Trung cấp trên địa bàn thành phố đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với nhân dân nói chung và sinh viên nói riêng, qua đó nâng cao nhận thức về tôn giáo nói chung và hạn chế việc phát triển đạo trái phép và trái pháp luật của các tổ chức tôn giáo trong tầng lớp sinh viên, thanh niên và tri thức.

– UBND cũng cần có chủ trương, hỗ trợ chính sách về việc xây dựng lực lượng nòng cốt, cốt cán trong các tổ chức tôn giáo để phục vụ cho công tác nắm tình hình, công tác vận động chức sắc, quần chúng, tín đồ các tôn giáo để thực hiện theo đúng qui định của pháp luật, đúng đường hướng hành đạo trong Hiến chương của từng tôn giáo theo phương châm “sống tốt đời, đẹp đạo”.

– Ngoài ra, UBND huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện một số nội dung sau:

Một là, thống nhất nhận thức và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác tôn giáo, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Hai là, coi trọng công tác vận động quần chúng, tôn trọng đức tin và vấn đề sinh hoạt tôn giáo hợp pháp của công dân. Thường xuyên tiếp xúc chức sắc để tranh thủ, xây dựng mối quan hệ gần gũi, thân thiện “Dùng đạo giải quyết việc đạo”, lấy cái hợp pháp để đấu tranh, cô lập cái bất hợp pháp.

Ba là, chủ động trong thông tin, bao gồm chủ động nắm và kịp thời trao đổi thông tin để thống nhất trong toàn hệ thống chính trị; đặc biệt chú trọng đến thông tin đối ngoại về những kết quả đạt được trong công tác tôn giáo giúp dư luận quốc tế hiểu đúng, đầy đủ về tình hình tôn giáo trong nước, không để thế lực thù địch xuyên tạc.

Bốn là, công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới, tôn giáo mới du nhập cần thận trọng, làm thí điểm cho kết quả tốt mới thực hiện diện rộng, không chạy theo số lượng và ấn định thời gian hoàn thành. Coi trọng giải quyết công việc cấp cơ sở, làm tốt công tác thẩm tra, chặt chẽ về thủ tục trước khi cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo.

Năm là, đối với những trường hợp sinh hoạt đạo, truyền đạo trái pháp luật thì phải kiên trì và sử dụng nhiều biện pháp đấu tranh ngăn chặn, xử lý kịp thời đúng pháp luật thì sẽ có hiệu quả.

Sáu là, định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và tổ chức bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tôn giáo, nhất là cán bộ cơ sở để đáp ứng yêu cầu công tác trong tình hình hiện nay./.

KẾT LUẬN

Tôn giáo là một thực tế xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử nhân loại, gắn liền với đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội và là nhu cầu tâm linh, tinh thần của một bộ phận nhân dân. Trong xã hội hiện nay, chúng ta đang chứng kiến nhiều biến động kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học, kỹ thuật, công nghệ sâu sắc, đồng thời cũng nổi lên những vấn đề có tính toàn cầu liên quan đến mọi người, mọi quốc gia. Những biến động lớn lao ấy không thể không tác động đến tâm lý con người. Không gì thay thế sự trống trải, xáo trộn, hụt hẫng về tình cảm, sự thất vọng về tương lai tốt hơn là tín ngưỡng, tôn giáo, vì vậy con người tìm đến với tôn giáo để tìm thấy sự an ủi, vỗ về, xoa dịu bớt nỗi đau buồn trần thế. Mặt khác cũng cần thấy rằng tôn giáo không chỉ nảy sinh từ dốt nát và nghèo đói mà ngược lại đời sống vật chất được nâng cao người ta cũng cần tôn giáo như sinh hoạt tinh thần đáp ứng nhu cầu tâm linh không thể phủ nhận. Tất cả những điều này cho thầy các hoạt động tôn giáo ở nước ta nói chung và trên địa bàn huyện Hòa Vang nói riêng sẽ tiếp tục phát triển có nhiều diễn biến phức tạp.

QLNN về tôn giáo ở huyện Hòa Vang trong thời gian vừa qua bên cạnh những kết quả đạt được còn bộc lộ một số hạn chế, do đó trong thời gian tới huyện Hòa Vang cần phải quan tâm giải quyết một số vấn đề tồn tại cả về chính sách cũng như cách thức quản lý sao cho phù hợp với tình hình hiện nay.

Từ những yêu cầu trên, luận văn đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể đối với công tác QLNN về tôn giáo ở huyện Hòa Vang, qua đó nhằm phát huy những thành tựu và khắc phục những hạn chế của công tác này ở địa phương. Hy vọng rằng luận văn sẽ góp một phần nhỏ để cùng các cơ quan chức năng của huyện làm tốt công tác QLNN về tôn giáo trong thời gian tới trên địa bàn huyện./

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HANH CHINH\NGUYEN DUY PHUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *