Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Để bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước được thực thi nghiêm minh sẽ tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật, vì vậy hoạt động thi hành án dân sự có ý nghĩa thực sự quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật, đặc biệt là trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì thế, thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng đã trở thành nguyên tắc cơ bản được ghi nhận xuyên suốt trong các Hiến pháp của Việt Nam (Điều 137 Hiến pháp 1980, Điều 136 Hiến pháp 1992 và Điều 106 Hiến pháp năm 2013).

Hoạt động THADS thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình thì cần phải có một cơ chế quản lý công tác THA phù hợp. Cơ chế quản lý phù hợp sẽ thúc đẩy, tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động THADS. Chính vì thế, công tác quản lý THADS có tác động trực tiếp và hết sức quan trọng đối với hoạt động THADS.

Cơ chế quản lý THADS được Tòa án chuyển giao cho Bộ Tư pháp quản lý thống nhất từ trung ương đến địa phương từ năm 1993 theo Nghị của Quối hội khóa IX ngày 06/10/1992 và Pháp lệnh THADS năm 1993, đến nay công tác QLNN về THADS đã có những chuyển biến tích cực, nhưng cũng đã bộc lộ nhiều khó khăn, tồn tại làm giảm đi hiệu quả hoạt động của các cơ quan THADS cần được khắc phục như: hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án còn thiếu đồng bộ, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chồng chéo, công tác hạch định chính sách, kiện toàn tổ chức- bộ máy còn chậm, công tác thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ làm công tác THADS chưa tương xứng, cơ sở vật chất chưa đồng bộ, đầy đủ… so với yêu cầu chung của nhiệm vụ đặt ra trong bối cảnh chúng ta đang từng bước hiện đại hóa nền hành chính quốc gia.

Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả lựa chọn đề tài “ Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai” làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành luật hành chính.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, thực trạng QLNN về THADS, trong khuôn khổ của một luận văn, tác giả tập trung nguyên cứu các khái niệm, đặc điểm, nội dung của QLNN về THADS; thực tiễn QLNN về THADS trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Đưa ra những yêu cầu và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về THADS và nâng cao hiệu quả công tác QLNN về THADS.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là công tác QLNN về THADS trên địa bàn tỉnh Gia Lai từ năm 2010 đến năm nay.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu là phân tích thực trạng công tác QLNN về THADS trên địa bàn tỉnh Gia Lai, từ đó đánh giá những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác QLNN về THADS trong thời gian tới.

Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn:

Một là, nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung của QLNN đối với lĩnh vực THADS trong giai đoạn hiện nay ở Nước ta.

Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật QLNN về THADS và thực trạng hoạt động QLNN về THADS từ thực tiễn tỉnh Gia Lai. Từ đó chỉ ra những mặt được, những điểm yếu cần khắc phục và nguyên nhân của tình trạng đó.

Ba là, phân tích các yêu cầu và đê xuất những giải pháp tăng cường nâng cao hiệu quả công tác QLNN về THADS trong điều kiện cải cách hành chính nhà nước hiện nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Trong quá trình thực hiện, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, luật học so sánh để tiếp cận, nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.

– Luận văn đã góp phần hệ thống và làm rõ hơn các vấn đề về lý luận QLNN về THADS.

– Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo của cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và các cơ quan có liên quan trong việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập.

7. Kết cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của Luận văn gồm có 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại tỉnh Gia Lai

Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ

NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Những vấn đề chung về thi hành án dân sự

1.1.1. khái niệm thi hành án dân sự

Hiện nay, quan niệm THADS còn nhiều ý kiến khác nhau, là đề tài tranh luận chưa có hồi kết trên diễn đàn khoa học pháp lý, bởi vì hoạt động THA nói chung và hoạt động THADS nói riêng chứa đựng nhiều đặt thù, phức tạp.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, hoạt động THADS là một hoạt động tư pháp.

Quan điểm thứ hai cho rằng, hoạt động THADS là hoạt động hành chính

Quan điểm thứ ba cho rằng, hoạt động THADS là hoạt động hành chính – tư pháp, vì nó vừa mang tính hành chính, vừa mang yếu tố của tính tư pháp. Bởi lẽ, THADS không chỉ đơn thuần là hoạt động mang tính hành chính hay tư pháp, cũng không phải giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng. Bản chất của hoạt động THADS thể hiện rõ cả hai đặc điểm, đó là tính hành chính và tính tư pháp.

Để đưa ra khái niệm THADS phù hợp với pháp luật nước ta hiện nay, cần làm rõ khái niệm thế nào là “dân sự” trong THADS. Hiện nay có hai ý kiến khác nhau về vấn đề này.

Ý kiến thứ nhất thì dân sự được hiểu theo nghĩa hẹp. Quan hệ dân sự bao gồm quan hệ về tài sản và nhân thân phi tài sản trong giao lưu dân sự.

Ý kiến thứ hai hiểu dân sự theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại bản án, quyết định có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định.

Tác giả đồng ý với quan điểm của ý kiến thứ hai. Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam thì “dân sự” trong THA cần được hiểu một cách cụ thể. Đó là: Bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản bán, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải THA và phán quyết, quyết định của trọng tài thương mại [Điều 1 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014)].

Từ sự phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm THADS như sau: THADS là hoạt động hành chính – tư pháp, do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định để tổ chức thực hiện trên thực tế bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự

Từ khái niệm THADS, có thể đưa ra 4 đặc điểm cơ bản của THADS như sau:

Thứ nhất, THADS là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước.

Thứ hai, THADS là hoạt động tổ chức thực hiện trên thực tế các bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định khác theo quy định pháp luật.

Thứ ba, THADS phải đảm bảo quyền yêu cầu, tự nguyện và thỏa thuận thi hành án của đương sự.

Thứ tư, THADS là hoạt động có ý nghĩa trong việc xác định tính hiệu quả của hoạt động tố tụng.

1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Hiện nay, các nhà khoa học pháp lý chưa thống nhất đưa ra được khái niệm QLNN đối với hoạt động THADS. Vì vậy, để hình dung được nội hàm của thuật ngữ này, cần thiết phải đi từ khái niệm quản lý nhà nước.

Thuật ngữ “quản lý nhà nước” được sử dụng phổ biến trong đời sống thường nhật, trong khoa học pháp lý, hành chính, chính trị… Xét về cấu trúc ngôn ngữ thuật ngữ “quản lý nhà nước” được tạo hai thành tố là “quản lý” và “nhà nước”, vì vậy để làm rõ khái niệm quản lý nhà nước cần phải hiểu “quản lý” và “nhà nước”.

Theo điều khiển học thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay một quá trình, căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc tương ứng để cho hệ thống hay quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích đã định trước.Với quan niệm trên thì quản lý được hiểu là sự chỉ huy, điều khiển, điều hành.

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, một hiện tượng chính trị, xã hội phức tạp. Nhà nước hiện diện với tư cách là một hình thái, một tổ chức rộng lớn nhất của xã hội. Nhà nước gắn liền với hệ thống các quan hệ xã hội của con người, cùng tham gia vào nhận thức, hành vi và hoạt động của con người, có khả năng tổ chức cuộc sống, trong đó cả đời sống kinh tế, văn hóa-xã hội và nhiều vấn đề khác trên lãnh thổ quốc gia của mình. Như vậy, Nhà nước là cấu trúc xã hội, bảo đảm sự phát triển toàn diện trật tự xã hội, hoàn toàn không đối lập sự phát triển tự do của xã hội.

Dưới góc độ khoa học pháp lý, có thể hiểu một cách chung nhất, QLNN là thuật ngữ chỉ “hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của các cơ quan trong bộ máy nhà nước nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước trên cơ sở các quy luật phát triển của xã hội, nhằm mục đích ổn định và phát triển đất nước” [16, tr 155]. Tuy nhiên, để hiểu rõ hơn thuật ngữ này, cần tiếp cận theo hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp.

Theo nghĩa rộng, QLNN là hoạt động của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực hiện các chức năng quản lý xã hội.

Theo nghĩa hẹp, QLNN là hoạt động chấp hành, điều hành của Nhà nước. Theo cách hiểu này thì QLNN đồng nhất với hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

Nói đến QLNN đối với hoạt động THADS là nói đến hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động THADS được ổn định và phát triển. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cùng với đó, công dân cũng có trách nhiệm phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định. Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo hoạt động THADS thực hiện có hiệu quả, đóng góp vào sự ổn định và phát triển xã hội.

Như vậy, QLNN về THADS được hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền (chủ thể QLNN) trong việc sử dụng quyền lực nhà nước để xây dựng và sử dụng phương tiện pháp luật trong lĩnh vực THADS. QLNN về THADS là một bộ phận của quản lý “ hành chính-tư pháp” [39].

1.3. Chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Chủ thể của hoạt động QLNN về THADS là các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền được Nhà nước trao quyền về QLNN đối với hoạt động THADS. Chủ thể QLNN về THADS gồm có:

– Chủ thể quản lý theo lãnh thổ: Chính phủ (khoản 2, Điều 166 Luật THADS) và UBND các cấp gồm: UBND cấp tỉnh và UBND cấp (Điều 172, Điều 174 Luật THADS).

– Chủ thể quản lý theo ngành: Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng là cơ quan QLNN trong lĩnh vực THADS (Điều 167, Điều 168 Luật THADS).

1.4. Nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

1.4.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự

1.4.2. Thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thi hành án dân sự

1.4.3. Bồi thường nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự

1.4.4. Quản lý Chấp hành viên thi hành án dân sự

1.4.5. Quản lý tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ thi hành án dân sự

1.4.6. Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

1.4.7. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai
Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Chương 2

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI TỈNH GIA LAI

2.1. Thực trạng pháp luật quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác THADS, với việc ban hành nhiều chủ trương, chính sách về THADS phù hợp với tình hình đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước, tạo cơ sở nền tảng vững chắc trong công tác THADS.

Tuy nhiên, Luật THADS triển khai thi hành đã bộc lộ nhiều hạn chế nhất định, một số nội dung cải cách tư pháp triển khai chưa đồng bộ, chưa kịp thời thể chế hóa thành luật; nhận thức về cải cách tư pháp trong lĩnh vực THADS chưa nhất quán… trong công tác QLNN về THADS còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được với yêu cầu nhiệm vụ trong bối cảnh từng bước hiện đại hóa nền hành chính quốc gia.

– Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về THADS: Công tác ban hành VBQPPL về THADS được Đảng và Nhà nước chú trọng, với mục tiêu có một hệ thống VBQPPL về THADS đầy đủ, thống nhất và đồng bộ.

Thực hiện các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ thi hành án dân sự: Hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ THADS được quy định tại chương 3 Luật THADS (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), và nhiều VQQPPL khác..

– Bồi thường nhà nước trong lĩnh vực THADS: Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực THADS được quy định trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (chương IV), Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong hoạt động THADS …

– Quản lý Chấp hành viên thi hành án dân sự: Luật THADS (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và Nghị định 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS và công chức làm công tác THADS.

Quản lý tài chính, cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ thi hành án dân sự : Quy định tại Điều 24, Điều 25 Luật THADS, và Chương 3 Nghị định 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ.

Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động THADS: Kiểm tra hoạt động THADS được quy định Luật THADS; thanh tra hoạt động THADS được quy định chủ yếu tại Luật Thanh tra năm 2010. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động THADS được thiết kế cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định tại Mục 1 và 2, Chương VI Luật THADS.

Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Luật THADS đã dành một chương, với 04 điều quy định về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS (Chương VII, từ Điều 162 đến Điều 165). Việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực THADS còn được thực hiện trên cơ sở Luật Xử lý vi phạm hành chính; Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

2.2. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại tỉnh Gia Lai

Gia Lai là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực phía bắc cao nguyên Trung Bộ; có diện tích tự nhiên lớn thứ hai toàn quốc (15.536 Km2), có 17 đơn vị hành chính cấp huyện, dân số trên 1,3 triệu người . Với địa bàn miền núi, có diện tích tự nhiên lớn, mật độ phân bố dân cư không đồng đều, thu nhập người dân thấp, đời sống người dân còn nhiều khó khăn, đó là thách thức lớn đối với Ngành THADS, nhưng được sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, cùng với sự năng động, nhiệt huyết, không ngại khó khăn, gian khổ, cố gắng vượt lên khó khăn của đội ngũ cán bộ làm công tác THADS đã phấn đầu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, góp phần ổn định đời sống an ninh, chính trị, an toàn – xã hội và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn tỉnh Gia Lai. Kết quả công tác THADS trong năm năm qua đã có những chuyển biến mạnh mẽ, số vụ việc giải quyết và giá trị tiền, tài sản thi hành đạt kết quả đáng khích lệ, nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài nhiều năm đã được giải quyết, bảo vệ lợi ích của nhà nước, đảm bảm quyền và lợi ích cho tập thể, tổ chức và công dân.

Những kết quả đạt được đó, toàn Ngành THADS tỉnh Gia Lai đã được Nhà nước trao tặng Huân chương lao động hạng III, Cờ thi đua của Chính phủ, Bộ Tư pháp, UBND tỉnh Gia Lai, cùng nhiều Bằng khen, giấy khen khác.

Quản lý về hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ: Công tác hướng dẫn nghiệp vụ được coi là công việc thường xuyên của Cục THADS tỉnh. Kịp thời chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Chi cục THDAS huyện.

Quản lý về bộ máy tổ chức – chấp hành viên.: Tổ chức bộ máy Cục THADS tỉnh Gia Lai ngày được hoàn thiện, thành lập 05 phòng chuyên môn và tương đương, và 17 Chi cục THADS cấp huyện. Lãnh đạo Cục THADS và các Chi cục THADS huyện đều là chấp hành viên sơ cấp. chấp hành viên trung cấp. Chấp lượng đội ngũ CHV ngày càng được nâng cao, toàn tỉnh có 72 Chấp hành viên (trong đó có 6 CHV trung cấp và 66 CHV sơ cấp; tất cả CHV có bằng Cử nhân luật, đã bồi dưỡng qua lớp nghiệp vụ THADS và QLNN ngạch chuyên viên, 6 CHV sơ cấp đã dự thi chức danh CHV trung cấp.Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác quản lý về tổ chức cán bộ trong thời gian còn những hạn chế, bất cập, chất lượng công chức chưa đồng đều về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ lẫn năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn và khả năng ứng dụng các kỹ năng, công nghệ thông tin vào công tác nghiệp vụ.

Quản lý về ngân sách, cơ sở vật chất – kỹ thuật.: Công tác quản lý ngân sách, cơ sở vật chất – kỹ thuật được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương đã quan tâm giải quyết về đất đai, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách địa phương. Cục THADS tỉnh và 16/17 Chi cục THADS huyện đã có trụ sở làm việc khang trang, xây dựng kho vật chứng theo cụm và tại các Chi cục THADS huyện. Các chế độ chính sách, trang phục, công cụ hỗ trợ, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động THA được quan tâm giải quyết kịp thời.

Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo : Được tổ chức thực hiện thường xuyên, chặt chẽ, qua đó đã phát hiện những sai phạm và có các hình thức xử lý tránh nhiệm đối với cán bộ, công chức THADS.

Xử phạt vi phạm hành chính: Chưa được chú trọng, trong những năm qua, THADS tỉnh Gia Lai chưa thực hiện việc xử phạt vi phạm hành chính nào.

2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại tỉnh Gia Lai

2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại tỉnh Gia Lai

Uư điểm: Trong nhiều năm qua, Cơ quan THADS tỉnh Gia Lai liên tục thụ lý mới số việc và tiền, tài sản liên tục tăng so với cùng kỳ năm trước, kinh tế khó khăn, thị trường bất động sản vẫn chưa thật sự khởi sắc, công tác THADS trên địa bàn gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, song toàn Ngành đã thi hành hoàn thành và vượt mức chỉ tiêu được giao. Tổ chức bộ máy tiếp tục được quan tâm củng cố, kiện toàn; công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ được thực hiện bài bản, hiệu quả; năng lực, kỹ năng quản lý chỉ đạo, điều hành của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có tiến bộ; kỷ cương, kỷ luật được siết chặt và tăng cường; ý thức trách nhiệm nề nếp làm việc của đội ngũ công chức, người lao động có chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng cơ quan THADS trong sạch, vững mạnh.

Nguyên nhân:

Thứ nhất, công tác THADS tỉnh Gia Lai luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, sự phối hợp nhịp nhàng của tập thể lãnh đạo Cục THADS tỉnh và sự đồng thuận của đội ngũ cán bộ, công chức toàn tỉnh, sự phối hợp kịp thời của chính quyền địa phương và các cơ quan, ban, ngành có liên quan.

Thứ hai, tăng cường công tác kiểm tra, tự kiểm tra hoạt động THADS tại các cơ quan THADS.

Thứ ba, tăng cường công tác theo dõi, đôn đốc CHV trong việc phân loại án, đồng thời giao chỉ tiêu THA đến từng CHV để họ lên kế hoạch tổ chức thi hành đạt hiệu quả.

Thứ tư, hằng năm, tiến hành mở các đợt thi đua cao điểm về giải quyết án tồn đọng để chào mừng các ngày lễ lớn.

2.3.2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tại tỉnh Gia Lai

Tồn tại, hạn chế:

Một là, mặc dù công tác xây dựng thể chế được quan tâm chỉ đạo, thực hiện, song đến nay, một số văn bản quan trọng trong QLNN về THADS chậm ban hành; chất lượng văn bản chưa đáp ứng yêu cầu, chậm tiến độ.

Hai là, công tác tổ chức cán bộ chưa thật sự “đi trước một bước”, chấp lượng tham mưu của Phòng Tổ chức-cán bộ còn hạn chế; công tác đánh giá, quy hoạch, luân chuyển còn chậm thực hiện; tuyển dụng công chức chưa thu hút được nguồn nhân lực chấp lượng cao vào công tác trong các cơ quan THADS;

Ba là, trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý còn chưa đồng đều, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ, thậm chí là yếu kém trong chỉ đạo, điều hành; số lượng CHV sơ cấp, CHV trung cấp chưa đủ đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ.

Bốn là, chưa có cơ chế bảo đảm sự an toàn cho tính mạng, sức khỏe của CHV và gia đình trong khi thi hành công vụ.

Năm là, công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của Cục THADS tỉnh với các Chi cục THADS huyện trong một số trường hợp chưa kịp thời, có việc còn chậm, chất lượng hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu; chưa thật sự là chổ dựa vững chắc cho các đơn vị cấp huyện.

Sáu là, kinh phí, cơ sở vật chất và trang thiết bị làm việc cho các cơ quan THADS chưa đáp ứng yêu cầu của công tác THADS, Bảy là, công tác kiểm tra, tự kiểm tra chưa thật sự đạt hiệu quả.

Tám là, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tuy đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện, song chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu, vẫn còn nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo kéo dài chưa giải quyết dứt điểm.

Chín là, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động QLNN còn chưa thường xuyên và chưa đáp ứng được yêu cầu “điện tử hóa” góp phần cải cách thủ tục hành chính.

Nguyên nhân:

Thứ nhất, công tác quản lý chỉ đạo, điều hành của Cục THADS tỉnh tuy có nhiều chuyển biến song vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của thực tiễn, chưa có biện pháp, giải pháp quyết liệt, đột phá, thiếu sâu sát trong việc thực hiện nhiệm vụ.

Thứ hai, chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu,.

Thứ ba, công tác phối hợp với các đơn vị, ban, ngành có liên quan, phối hợp với chính quyền địa phương trong công tác THADS còn thiếu chủ động, hiệu quả chưa cao.

Thứ tư, một số vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp kéo dài xảy ra đã lâu, đòi hỏi mất nhiều thời gian nghiên cứu hồ sơ, xác minh; có vụ việc đã giải quyết qua nhiều cấp, nhiều lần, đúng pháp luật, nhưng người dân vẫn tiếp tục khiếu nại, trong khi chưa có cơ chế chấm dứt giải quyết, gây dư luận không tốt trong xã hội .

Thứ năm, chế độ đãi ngộ đối với công chức THADS tuy đã được quan tâm nhưng chưa thật sự là động lực thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc.

Thứ sáu, kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ quan THADS tuy đã được quan tâm song vẫn còn có khó khăn, kinh phí chi hoạt động thường xuyên chưa đáp ứng yêu cầu công tác.

Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai
Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Gia Lai

Chương 3

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH GIA LAI

3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Thứ nhất, cần hoàn thiện pháp luật về THADS: Luật THADS được ban hành và các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần hoàn thiện công tác THADS, tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan THADS và CHV thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi và kiện toàn hệ thống tổ chức đã bộc lộ một số hạn chế nhất định.

Thứ hai, mặc dù trong thời gian qua, hệ thống tổ chức cơ quan THADS ngày càng hoàn thiện, kết quả THADS về việc, về tiền và giá trị tài sản luôn tăng hằng năm, đạt và vượt chỉ tiêu do Quốc hội giao cho toàn Ngành THADS, nhưng án tồn đọng giảm không đáng kể, một số vụ việc kéo dài không thi hành được gây bức xúc và bất bình trong nhân dân. Do vậy, yêu cầu thực tiễn đạt ra phải sớm đổi mới công tác THADS một cách toàn diện.

Thứ ba, trước yêu cầu hiện nay về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi ngày càng cao đối với vai trò công tác THADS. Đó là đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế, đảm bảo trật tự, kỷ cương pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đảm bảo các quyền cơ bản của con người. Do đó, cần làm tốt công tác QLNN về THADS để hoạt động THADS đạt hiệu quả cao, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ngày càng hoàn thiện.

Thứ tư, công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, đòi hỏi công tác THA nói chung và THADS nói riêng cần phải sớm đổi mới để đáp ứng yêu cầu đặt ra ngày càng cao của xã hội, đảo bảo hoạt đồng đồng bộ với cơ quan xét xử, tránh hiện trạng quả tải trong công tác THADS, đặc biệt công tác xã hội hóa hoạt động THADS, cần đặt ra yêu cầu QLNN về THADS phải đổi mới một cách toàn diện công tác THADS cho phù hợp với tình hình mới hiện nay.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Thứ nhất, đổi mới hệ thống mô hình, tổ chức các cơ quan quản lý THA, cơ quan THA.

Hiện nay, hệ thống mô hình, tổ chức cơ quan quản lý THA, cơ quan THA có quá nhiều cơ quan cùng quản lý, gồm có: Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, sự không thống nhất cơ quan quản lý THA và cơ quan THA đã nãy sinh nhiều bất cập, sự thiếu tập trung thống nhất trong quản lý công tác THA.

Để khắc phục tình trạng phân tán, thiếu sự phối hợp, chỉ đạo, điều hành thống nhất trong công tác THA hiện nay, Việt Nam cần sớm tổ chức hoạt động THA theo mô hình các nước trên thế giới đang thực hiện, đó là thống nhất giao Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ QLNN thống nhất về công tác THA như Nghị Quyết 48-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW đã khẳng định.

Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện pháp luật THA.

Luật THADS được ban hành và được áp dụng thi hành đến nay gặp nhiều bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn, Quốc hội khóa XII đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật THADS, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015. Để đảm bảo khi Luật có hiệu lực thì có văn bản hướng dẫn thi hành cũng có hiệu lực đi vào cuộc sống, tránh chậm trể, Bộ Tư pháp tiến hành rà soát văn bản quy phạm pháp luật về THADS, và kịp thời xây dựng, ban hành các VBQPPL hướng dẫn thi hành Luật.

Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật THADS được ban hành cũng chỉ là giải pháp đáp ứng nhu cầu thực tiễn công tác THADS hiện nay. Để có giải pháp bền vững trong công tác THADS, khắc phục những bất cập, tình trạng thiếu tập trung thống nhất, sự gắn kết giữa THADS và THAHS làm giảm hiệu lực, hiệu quả công tác THA, thì cần có lộ trình xây dựng một văn bản thống nhất về THA là Bộ luật THA điều chỉnh toàn diện hệ thống và trình tự thủ tục THADS, THA hành chính, THAHS. Xây dựng Bộ luật THA trên cơ sở hệ thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều chỉnh là cần thiết, đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện công tác THA, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, là cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan THA, góp phần tạo sự chuyển biến cơ bản trong công tác THA, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng, kéo dài.

Thứ ba, kiện toàn và hoàn thiện cơ chế quản lý tổ chức bộ máy – cán bộ.

– Tiếp tục kiện toàn, hoàn thiện bộ máy, bổ sung biên chế cho cơ quan THADS để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Xây dựng chính sách tuyển dụng phù hợp để thu hút nguồn nhân sự chấp lượng cao, để tuyển dụng đủ biên chế cho các cơ quan THADS nhằm từng bước khắc phục tình trạng quá tại công việc. Khắc phục tình trạng thiếu Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh và cấp huyện. Cần bổ sung biên chế cho các cơ quan THADS tương ứng với số lượng biên chế của ngành Tòa án, để thực hiện hoàn thành các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.

– Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo của Thủ trưởng cơ quan THADS nhằm nâng cao trách nhiệm của Chấp hành viên, cán bộ công chức THA trong việc thực thi nhiệm vụ.

– Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng dân vận, giáo dục cho CHV, cán bộ, công chức các cơ quan THADS, đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ được giao;

– Tiếp tục tổ chức triển khai có hiệu quả Đề án quy hoạch phát triển nguồn nhân lực cán bộ Ngành Tư pháp nói chung và THADS nói riêng theo định hướng đến năm 2020.

– Thường xuyên rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ cán bộ THADS trên cơ sở đó để điều chỉnh sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách hợp lý. Mở rộng việc luân chuyển cán bộ ra ngoài phạm vị cơ quan THADS nhằm thu hút những người có năng lực vào làm việc trong cơ quan THADS, kể cả cán bộ lãnh đạo.

– Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu, sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách hợp lý cho công chức làm công tác THADS, khuyến khích khen thưởng công chức khi có thành tích trong công tác, đổi mới chính sách tiền lương, nhà ở cho công chức trong Ngành. Có chính sách thu hút cán bộ về công tác tại vùng sâu, vùng xa, khó khăn, biên giới, hải đảo.

Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.

– Tổ chức Hội nghị quán triệt Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS, các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành và ban hành kế hoạch triển khai thi hành Luật. Các cơ quan THADS địa phương cần tiếp tục tích cực, chủ động, đánh giá các văn bản pháp luật hiện hành về THADS, tập hợp để đưa ra các kiến nghị phản ánh các yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đối với các cơ quan chuyên môn trong việc xây dựng hướng dẫn thi hành luật.

– Tiếp tục cải tiến công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ, văn bản hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ cần có tính định hướng, bảm đảm sự ổn định, tránh thay đổi nhiều gây nhiều khó khăn cho việc thực hiện ở địa phương; tập trung chỉ đạo giải quyết những vụ án lớn, phức tạp kéo dài.

– Chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan đẩy nhanh xây dựng Quy chế, Quy trình đảm bảo chất lượng, đúng tiến độ; tranh thủ sự ủng hộ, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, Ban chỉ đạo THADS trong công tác thi hành những vụ án lớn, những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp kéo dài.

– Tăng cường phối hợp với Tòa án, các Ngành có liên quan trong việc nâng cao hiệu quả công tác THAHC; phối hợp chặt chẽ với các Trại giam, Trại tạm giam trong việc thu, trả tiền, tài sản của người phải THA.

– Xây dựng, ban hành bộ thủ tục cải cách hành chính trong lĩnh vực THADS, xây dựng trang thông tin điện tử các cơ quan THADS nhằm đáp ứng yêu cầu của Luật sửa đổi, bổi sung một số điều Luật THADS về việc đăng tải thông tin người phải THA chưa có điều kiện thi hành và tăng cường công tác chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ được nhanh chóng, kịp thời, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS sâu rộng trong quần chúng nhân dân.

Thứ năm, đảm bảo điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho QLNN về THADS.

Tập trung, đẩy nhanh tiến độ xây dựng trụ sở, kho vật chứng, đầu tư trang thiết bị làm việc cho các cơ quan THADS theo Đề án của Chính phủ, nhanh chóng giải quyết tình trạng thiếu, phải đi thuê trụ sở làm việc, kho vật chứng; tranh thủ sự ủng hộ của UBND cùng cấp trong việc hỗ trợ đầu tư xây dựng trụ sở, giải phóng mặt bằng… thực hiện kịp thời việc đầu tư mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các cơ quan THADS, tăng cường kinh phí hoạt động cho các cơ quan THADS; xây dựng hệ thống các công cụ hỗ trợ về tài chính mang tính chất đặc thù nhằm kịp thời hỗ trợ những khu vực khó khăn hoặc hỗ trợ thực hiện các vụ án lớn, có ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.

Thứ sáu, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo công tác THADS.

– Triển khai có hiệu quả kế hoạch kiểm tra công tác THADS hằng năm, thường xuyên tiến hành tự kiểm tra và tổ chức kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, khắc phục những sai phạm và có biện pháp xử lý; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra có trọng tâm, trọng điểm, kiểm tra đúng quy trình, kết luận đúng mẫu. Cần có cơ chế kiểm soát cũng như mở rộng sự giám sát của nhân dân để hạn chế thấp nhất những sai phạm, tiêu cực trong THADS.

– Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cần tập trung cao độ giải quyết 100% đơn thư, khiếu nại, tố cáo đúng trình tự thủ tục; giải quyết có hiệu quả số vụ việc trọng điểm, phức tạp kéo dài, hạn chế tối đa việc khiếu nại vượt cấp.

Thứ bảy, XPVPHC trong lĩnh vực THADS phải được thực hiện nghiêm minh; CHV THADS trong khi thi hành công vụ phải triệt để thi hành pháp luật; kiên quyết lập biên bản đối với các hành vi VPHC và ban hành quyết định xử phạt (trường hợp thuộc thẩm quyền) hoặc đề nghị người có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt VPHC đối với người có hành vi VPHC, nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa người vi phạm nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ THA, vừa là để CHV tiếp tục thực hiện các trình tự, thủ tục tiếp theo để THA đạt hiệu quả.

Thứ tám, các giải pháp khác

– Xã hội hóa công tác THADS.

– Nâng cao chất lượng công tác thi đua – khen thưởng.

– Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về .

KẾT LUẬN

Thi hành án dân sự là hoạt động có tầm quan trọng của Nhà nước nhằm đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thực thi. Phán quyết của Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước sẽ là quyết định trên giấy, nếu không được tổ chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động THADS kém hiệu quả sẽ gây tổn hại đến trật tự, kỷ cương, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy THADS có vai trò rất lớn trong việc góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

QLNN về THADS là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước trong lĩnh vực THADS nhằm tác động có tổ chức và điều hành bằng quyền lực nhà nước đối với hoạt động THADS do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, tập thể, tổ chức và công dân. QLNN về THADS được xác định là một bộ phận của QLNN trong lĩnh vực hành pháp – tư pháp. Chấp hành luật pháp và ban hành VBQPPL về THADS; tổ chức điều hành để đưa VBQPPL vào thực tiễn; cơ cấu, tổ chức bộ máy – cán bộ; đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động; kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực THADS.

Thực tiễn QLNN về THADS nói chung và tại tỉnh Gia Lai nói riêng hiện nay còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết triệt để để hoạt động THADS đồng bộ với hoạt động của Tòa án và các cơ quan nhà nước khác trong nền hành chính quốc gia hiện đại, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và cải cách hành chính quốc gia. Qua nghiên cứu và giải quyết vấn đề QLNN về THADS từ thực tiễn tỉnh Gia Lai, tác giả để xuất các biện pháp sau đây để nâng cao hiệu quả QLNN về THADS, đó là:

– Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác QLNN về THADS: Lãnh đạo các cơ quan chức năng xây dựng và ban hành VBQPPL về THADS trên cơ sở thể chế hóa đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, đổi mới tổ chức và hoạt động bộ máy THADS, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong lĩnh vực THADS, tăng cường kiểm tra, giám sát của Đảng đối với các cơ quan quản lý và tổ chức THADS.

– Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật THADS.

– Xây dựng bộ máy quản lý về THADS theo hướng thống nhất, để đảm bảo sự lãnh đạo thông suốt trong chỉ đạo, điều hành.

– Nâng cao chấp lượng đội ngũ làm công tác THADS.

– Bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện, ngân sách phục vụ cho hoạt động THADS;

– Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý THADS, để kịp thời xử lý những vi phạm và khắc phục thiếu sót phát sinh trong quá trình THADS.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HANH CHINH\NGO THANH NGHI\LUAN VAN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *