Quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi đua khen thưởng là một chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến nay, nhiều sắc lệnh, văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng được Nhà nước ban hành làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng và khuyến khích, động viên phong trào thi đua yêu nước phát triển.

Hiện nay, trước xu thế mở cửa hội nhập, giao lưu và đa phương hóa các quan hệ quốc tế, việc thay đổi nhận thức, quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác thi đua khen thưởng vừa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vừa nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay.

Ở tỉnh Quảng Nam, thực tiễn công tác thi đua, khen thưởng trong những năm qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Việc ban hành các chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng và tuyên dương, khen thưởng một số mô hình mới, nhân tố mới, gương người tốt, việc tốt đạt được một số kết quả khích lệ. Từ thực tế đó, việc nghiên cứu Đề tài: “Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” sẽ giải quyết những vấn đề ra về mặt lý luận và thực tiễn hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

  • Mục đích nghiên cứu

Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

  • Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu, luận văn có nhiệm vụ:

– Nghiên cứu, đánh giá làm rõ vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

– Phân tích thực trạng về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.

– Đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm tăng cường, đổi mới quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen của địa phương, chủ yếu ở tỉnh Quảng Nam từ năm 2005 đến nay, có so sánh, đối chiếu những thời kỳ trước đó.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng. Đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh.

5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn

Luân văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học, góp phần tạo sự nhận thức đúng, đầy đủ, toàn diện các phương diện của công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở địa phương.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu, nguồn tham khảo trong quá trình nghiên cứu, học tập.

6. Cơ cấu của Luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục; nội dung của luận văn gồm 03 chương, 09 mục.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG

VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,
KHEN THƯỞNG

Trong chương này, tác giả đã tập trung làm rõ khái niệm, nội dung về thi đua, khen thưởng và mối quan hệ giữa thi đua với khen thưởng. Nhấn mạnh sự cần thiết phải có sự quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và đi sâu phân tích ý nghĩa, vai trò của từng nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

Những nội dung trên là tiền đề, cơ sở lý luận để giải quyết những vấn đề đặt ra từ thực trạng quản lý về thi đua, khen thưởng ở tỉnh Quảng Nam và đề xuất những tiêu chí, phương hướng nhằm đổi mới công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.

1.1. Một số vấn đề lý luận về thi đua, khen thưởng

1.1.1. Khái niệm thi đua

Trong mục này, tác giả làm rõ khái niệm, nguồn gốc của phong trào thi đua và đưa ra định nghĩa về thi đua đó là đem tài năng, sức lực ra nhằm thúc đẩy lẫn nhau đạt thành tích tốt nhất trong học tập, sản xuất, công tác và chiến đấu. Trên cơ sở đó, tác giả đã rút ra một số đặc điểm của thi đua như: Thi đua là hoạt động có tổ chức. Thi đua là hoạt động tự nguyện. Thi đua là hoạt động có mục tiêu và đích đến rõ rệt.

Đồng thời, tác giả đã thể hiện quan điểm của bản thân trong việc đánh giá mối quan hệ giữa thi đua với cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay và cho rằng thi đua không chỉ là hợp tác lao động sản xuất, đoàn kết phát triển, mà bao hàm cả sự cạnh tranh, sự ganh đua để cùng tồn tại. Cạnh tranh để loại bỏ cái “lạc hậu, cũ kỹ, lỗi thời” của thi đua và sự hình thành nên cái mới, cái tiến bộ, ngược lại thi đua sẽ “kìm hãm” những mặt trái của cạnh tranh mà kinh tế thị trường đem lại. Do vậy, việc kết hợp hài hòa giữa thi đua với cạnh tranh là cần thiết.

1.1.2. Khái niệm khen thưởng

Trong mục này, tác giả đã đưa ra khái niệm về khen đó là thể hiện sự hài lòng, bằng việc ghi nhận, đánh giá tốt về người nào đó, tổ chức nào đó, còn thưởng là việc tặng, cho bằng tiền, hoặc hiện vật theo quy định của pháp luật.

Tác giả cũng cho rằng khen thưởng là phạm trù xuất hiện từ lâu, cùng với sự hình thành và phát triển của các triều đại phong kiến nước ta gắn với các hình thức thưởng – phạt của nhà nước.

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, khen thưởng không những thể hiện sự ghi nhận của Nhà nước bằng lợi ích vật chất, tinh thần mà còn có ý nghĩa, tác dụng thúc đẩy thi đua, phát triển sản xuất, tạo động lực khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa.

1.1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng

Tác giả đã đưa ra những mối liên hệ giữa thi đua với khen thưởng đó là: thi đua và khen thưởng xét về bản chất đó là một tiến trình để dẫn đến một kết quả. Nó có mối quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng qua lại lẫn nhau.

Thi đua là nguyên nhân và khen thưởng là kết quả. Qua kết quả thi đua sẽ lựa chọn, ghi nhận những tập thể và cá nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc phản ánh, đánh giá kết quả từ phong trào thi đua.

1.2. Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng

1.2.1 Sự cần thiết phải quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng

Tác giả cho rằng cần thiết phải có sự quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng bởi đây là lĩnh vực rộng lớn, liên quan đến tất cả các ngành, các cấp với hàng triệu người, hàng ngàn người tham gia, nếu không có sự quản lý, điều tiết của nhà nước thì thi đua, khen thưởng sẽ tràn lan, “mạnh ai nấy làm”, vô tổ chức và cũng không có cơ sở pháp lý để ghi nhận kết quả thực tế của mỗi cá nhân, tổ chức.

Khi có sự quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng thì kết quả thi đua sẽ được sự ghi nhận, đánh giá một cách khách quan, đúng đắn, công bằng và kịp thời, đó là cơ sở để khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội tham gia phong trào thi đua.

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng

Nội dung quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng được quy định tại Luật thi đua, khen thưởng năm 2003, gồm các nội dung sau:

  • Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược (giai đoạn 1954-1975) và thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 trở đi), nước ta đã ban hành nhiều sắc lệnh, nghị quyết, thông tư, nghị định để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng.

Ngày 26/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng phạt- đây là cơ sở pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách khen thưởng của nước ta sau này. Luật thi đua, khen thưởng được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 4 ngày 26 tháng 11 năm 2003, được sửa đổi, bổ sung năm 2005, năm 2013 đã góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong giai đoạn hiện nay.

  • Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng

Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng là vấn đề được Đảng, Nhà nước ta nhận thức rõ, xuyên suốt trong từng giai đoạn cách mạng. Việc xây dựng chính sách thi đua, khen thưởng phải sát thực tế, phù hợp với điều kiện của đất nước, của từng địa phương, đơn vị. Bên cạnh đó cần chú trọng đến chế độ khen thưởng bằng lợi ích vật chất để tạo động lực thi đua.

  • Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng có lúc, có nơi chưa thống nhất, không đồng đều, do vậy cần tuyên truyền, hướng dẫn để tạo sự thống nhất tổ chức thực hiện từ trên xuống.

Về tổ chức thực hiện thi đua, hiện nay ở cấp tỉnh có hai hình thức tổ chức thi đua phổ biến đó là: thi đua thường xuyên và thi đua theo chuyên đề.

  • Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng

Trong điều kiện hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng nhìn chung còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ, nhất là đối với cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở cơ sở, do vậy cần phải đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.

  • Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng

Nội dung sơ kết, tổng kết cần tập trung đánh giá công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tuyên truyền, phát động và tổ chức triển khai phong trào thi đua, khen thưởng của các cấp ủy đảng, chính quyền về tình hình thực hiện các chỉ tiêu, phong trào thi đua; những nội dung, công việc đã làm được, những việc chưa làm được và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém. Những đơn vị nào thực hiện tốt, đơn vị nào thực hiện chưa tốt và bài học kinh nghiệm. Các hình thức, nội dung, phương pháp để tổ chức phong trào thi đua có hiệu quả; về kinh nghiệm xây dựng điển hình tiên tiến; các hình thức, nội dung, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng và kết quả tổ chức tặng thưởng các hình thức khen thưởng.

  • Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng

Nội dung hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng, gồm: hợp tác, trao đổi kinh nghiệm về xây dựng chính sách, pháp luật và việc đào tạo, sử dụng cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng của các nước trên thế giới. Giới thiệu, trao đổi, so sánh các hình thức, danh hiệu thi đua, khen thưởng của Nhà nước Việt Nam với các nước trên thế giới.

  • Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng

Muốn thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng phải tiến hành thanh tra, kiểm tra. Việc thanh tra, kiểm tra thường được tiến hành theo định kỳ hằng quý, hằng năm, hoặc theo đợt phát động, kết thúc phong trào thi đua. Đồng thời tiến hành thanh tra đột xuất theo yêu cầu nhiệm vụ đặt ra và thanh tra khi có khiếu nại, tố cáo. Nếu làm tốt chức năng này sẽ nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực thi đua, khen thưởng.

  • Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng

Giải quyết khiếu nại, tố cáo phải kết luận cụ thể nội dung khiếu nại, tố cáo nào đúng, nội dung nào chưa đúng để trả lời người tố cáo, đảm bảo nguyên tắc chính xác, công khai, công bằng, kịp thời.

1.3. Hệ thống cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng

1.3.1. Ở Trung ương

Khi mới thành lập, Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương là cơ quan trực thuộc Chính phủ sau này thuộc Bộ Nội vụ.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Ban Thi đua – Khen thưởng Trung ương được quy định tại Quyết định số 05/2015/QĐ-TTg, ngày 12/02/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

1.3.2. Ở địa phương

  • Cấp tỉnh:

Ban Thi đua – Khen thưởng là tổ chức trực thuộc Sở Nội vụ. Ban Thi đua – Khen thưởng là cơ quan thường trực của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng cấp tỉnh.

  • Cấp huyện và cấp xã:

Phòng Nội vụ cấp huyện là cơ quan tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi đua – khen thưởng. Ủy ban nhân dân cấp huyện bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng thuộc Văn phòng cùng cấp. Ủy ban nhân dân cấp xã bố trí công chức kiêm nhiệm làm công tác thi đua, khen thưởng.

1.4. Tổng quan về công tác thi đua, khen thưởng trong những năm qua ở nước ta

1.4.1. Sự hình thành công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta

Trong phần này, tác giả khái quát quá trình trình thành, phát triển của công tác thi đua, khen thưởng ở nước ta từ năm 1945 đến đến khi tiến hành sự nghiệp đổi mới của đất nước. Thể hiện ở các thời kỳ dưới đây.

1.4.2. Công tác thi đua, khen thưởng qua các thời kỳ

  • Thời kỳ bảo vệ xây dựng chính quyền non trẻ

Thời kỳ này, các phong trào: Tuần lễ vàng, hũ gạo kháng chiến, bình dân học vụ…đã ra đời và đem lại những kết quả thiết thực.

  • Thời kỳ kháng chiến chống pháp

Thời kỳ này, nhiều sắc lệnh đặt ra các loại huân chương đã ra đời như: Huân hương Quân công, Huân chương Chiến công, Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập (năm 1947); Huân chương Kháng chiến (năm 1948); Huân chương Lao động (năm 1950). Chính phủ quy định các danh hiệu Anh hùng Quân đội, Anh hùng Nông nghiệp, Anh hùng Công nghiệp (1952).

  • Thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước đến trước thời kỳ đổi mới

Thời kỳ này, Nhà nước đã quy định các hình thức khen thưởng như: Huy chương Quân kỳ quyết thắng (1981), Huy chương vì an ninh Tổ quốc (1984), danh hiệu vinh dự nhà nước (1985) như: Thầy thuốc, Thầy giáo, Nghệ sỹ nhân dân, ưu tú để khen thưởng thành tích cho cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Quân đội, Công an, trong các ngành Y tế, Giáo dục, Văn hoá đã có thành tích xuất sắc để tiếp tục cổ vũ, động viện phong trào thi đua yêu nước.

  • Thời kỳ đổi mới

Thời kỳ này, Luật thi đua, khen thưởng đã được Quốc hội (khoá XI) thông qua tại kỳ họp thứ 4 ngày 26 tháng 11 năm 2003, được sửa đổi, bổ sung năm 2005, năm 2013 cùng các NĐ của CP, TT hướng dẫn của bộ, ngành đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức thực hiện phong trào thi đua, khen thưởng.

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA,

KHEN THƯỞNG Ở TỈNH QUẢNG NAM

Trong Chương này, luận văn tập trung đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, nhấn mạnh những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém và đưa ra bài học kinh nghiệm để tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng của tỉnh trong thời gian đến.

2.1. Tình hình thi đua, khen thưởng ở tỉnh Quảng Nam

2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế-xã hội tỉnh Quảng Nam

Quảng Nam là tỉnh nằm ở miền Trung của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có diện tích tự nhiên 10.406,83 km­­­­­­­2, dân số 1,5 triệu người (2013), gồm 02 thành phố và 16 huyện với 244 xã (phường, thị trấn). Kinh tế liên tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Đó là tiền đề, cơ sở quan trọng để Quảng Nam phát huy tiềm năng về thương mại, dịch vụ, du lịch và sản xuất nông sản hàng hóa.

2.1.2. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng

Ngoài các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng. Từ năm 2005 đến năm 2015, UBND tỉnh đã ban hành 11 chỉ thị về phát động phong trào thi đua yêu nước trong từng năm. Hội đồng Thi đua – Khen thưởng tỉnh, Sở Nội vụ tỉnh có kế hoạch cụ thể tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh đẩy mạnh phong trào thi đua trong các cấp, các ngành và hướng dẫn tổ chức thi đua, xét khen thưởng, tổng kết phong trào thi đua yêu nước trong từng năm.

2.1.3. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng

  • Về công tác thi đua:

Nội dung thi đua của tỉnh gồm:

– Thi đua phát huy mọi nguồn lực, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân.

– Thi đua phát huy sáng kiến, đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả công việc.

– Thi đua xây dựng đời sống văn hóa mới, con người mới, xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp, văn minh, tiến bộ.

– Thi đua giữ vững ANCT, trật tự xã hội, giảm thiểu tối đa các tệ nạn xã hội.

– Thi đua thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí.

– Thi đua thực hiện tốt chương trình cải cách hành chính, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, cải thiện môi trường đầu tư.

– Thi đua xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.

  • Về phương pháp tổ chức thi đua, tỉnh xác định rõ:

Tỉnh đã phát động thi đua theo từng chủ đề, từng đối tượng, trong từng ngành nghề, lĩnh vực công tác để phát huy hiệu quả, tác dụng.

  • Về khen thưởng:

Đối tượng xét khen thưởng:

Tập thể, cá nhân đóng trên địa bàn tỉnh; nhân dân trong và ngoài tỉnh. Người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài, người nước ngoài và các tổ chức người nước ngoài tham gia các phong trào thi đua của tỉnh.

Danh hiệu, tiêu chuẩn xét khen thưởng:

  • Đối với tập thể:

Có các Danh hiệu: “Tập thể Lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến”, “Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng” “Đơn vị quyết thắng” “Cờ dẫn đầu thi đua của Ủy ban nhân dân tỉnh”, “Cờ thi đua của Chính phủ”, “Gia đình văn hóa”’, “Thôn văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”…

  • Đối với cá nhân:

Có các Danh hiệu: “Lao động tiên tiến”, “Chiến sỹ tiên tiến”, “Chiến sĩ thi đua cơ sở”, “Chiến sĩ thi đua cấp tỉnh”, “Chiến sĩ thi đua toàn quốc”.

Các loại hình khen thưởng của tỉnh: Khen thưởng theo công trạng và theo thành tích. Khen thưởng theo chuyên đề (hoặc theo đợt). Khen thưởng đột xuất. Khen thưởng quá trình cống hiến cho cá nhân giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội. Khen thưởng theo niên hạn cho cá nhân thuộc lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Khen thưởng đối ngoại cho tập thể, cá nhân người nước ngoài đã có thành tích, có đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trên các lĩnh vực.

Các hình thức khen thưởng của tỉnh: Giấy khen; Bằng khen

Về mức khen thưởng: Mức tiền thưởng kèm theo các danh hiệu thi đua, các hình thức khen thưởng thực hiện theo quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73, 74, 75 và 76 của Nghị định số 42/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010 của Chính phủ.

2.1.4. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

  • Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 1282/KH-UBND ngày 18/4/2008 để tổ chức hoạt động kỷ niệm 60 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc; kế hoạch tổ chức Đại hội thi đua, yêu nước toàn tỉnh lần thứ V (2005), thứ VI (2010), thứ VII (2015) và các kế hoạch phát động phong trào xây dựng nông thôn mới, giao thông nông thôn, gia đình văn hóa, khối phố văn hóa, thôn văn hóa, xóa đói giảm nghèo… do các cấp, các ngành phát động.

Sở Nội vụ tỉnh, Hồi đồng Thi đua – Khen thưởng, Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh đã ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về nghiệp vụ, như mẫu báo cáo, mẫu đánh giá cán bộ, công chức hằng năm.

  • Việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng

Có các hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện thi đua khá đa dạng như phong trào: xây dựng nông thôn mới, làm đường giao thông nông thôn, miền núi, xóa đói giảm nghèo… .

Tiêu chuẩn khen thưởng được cụ thể hóa, chú trọng hơn các chỉ tiêu định lượng. Quy trình xét khen thưởng được thực hiện công khai. Hồ sơ, thủ tục khen thưởng được cải tiến, biểu mẫu hóa theo Đề án 30 của Chính phủ và chương trình cải cách thủ tục hành chính của tỉnh. Việc tổ chức đánh giá, bình xét thi đua đối với cán bộ, công chức, viên chức được duy trì thường xuyên.

2.1.5. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng

Trong hai năm 2012 và 2013, tỉnh đã mở 04 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cơ sở xã, phường, thị trấn; 01 lớp cho cán bộ chuyên trách thi đua, khen thưởng ở các huyện, thành phố và cán bộ các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh với tổng số hơn 64 người. Năm 2014, tỉnh đã tập huấn nghiệp vụ công tác thi đua cho hơn 250 cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng.

Hiên nay, chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng của tỉnh như sau: Ban Thi đua – Khen thưởng tỉnh hiện có 12/12 đồng chí có trình độ chuyên môn đại học, trình độ cao cấp và cử nhân chính trị 07 đồng chí; chi bộ có 10 đảng viên.

Đối với cấp huyện: có 28/34 cán bộ chuyên trách có trình độ đại học, 06 cán bộ có trình độ trung cấp; đến nay 100% cán bộ chuyên trách có trình độ đại học.

Đối với các sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh 100% có trình độ chuyên môn đại học nhưng hoạt động không ổn định.

Đối với cấp xã, phần lớn cán bộ phụ trách công tác thi đua, khen thưởng cấp xã trình độ chuyên môn còn hạn chế, chưa qua đào tạo nghiệp vụ, hoạt động không ổn định.

2.1.6. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng; đánh giá hiệu quả công tác thi đua, khen thưởng

Qua sơ tổng kết, tỉnh cũng rút ra bài học kinh nghiệm đó là: phong trào thi đua là kết quả tổng hợp, đồng bộ của 04 yếu tố: vai trò lãnh đạo của Đảng; chỉ đạo điều hành trực tiếp của chính quyền; lực lượng nòng cốt của các đoàn thể chính trị và chất lượng tham mưu, trợ lý đắc lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng. Nếu thực hiện tốt cả 04 yếu tố trên thì phong trào thi đua mới đi vào chiều sâu và phát triển mạnh mẽ.

2.1.7. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng

Trong giai đoạn trước đổi mới, sau đổi mới và mở cửa hội nhập quốc tế đến nay, tỉnh Quảng Nam chưa tham gia hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng, do tỉnh chưa ban hành các chính sách để thực hiện việc hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng.

2.1.8. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng

Việc thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong và sau khi kết thúc một kế hoạch, một phong trào thi đua hoặc tiến hành thanh tra, kiểm tra đột xuất theo yêu cầu thực tế. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện một số cá nhân, tập thể vi phạm trong lĩnh vực thi đua, khen thưởng (chủ yếu là chế độ khen thưởng trong kháng chiến) đã được các cấp, các ngành kiểm điểm, xử lý.

2.1.9. Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng

Từ năm 2010 đến năm 2014, toàn tỉnh đã giải quyết 476 trường hợp khiếu nại, tố cáo. Xử lý 72 vụ vi phạm pháp luật về công tác thi đua, khen thưởng, nhất là những sai phạm trong thực hiện Quyết định 290/2005/QĐ-TTg, ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ xảy ra tại huyện Phú Ninh và một số phường, xã của thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam với trên 400 người sai phạm.

2.2. Đánh giá công tác thi đua khen thưởng và thực trạng quản lý nhà nước về thi đua khen thưởng ở tỉnh Quảng Nam

2.2.1. Về ưu điểm

– Tỉnh đã kịp thời cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng.

– Vai trò, trách nhiệm của Hội đồng Thi đua – Khen thưởng các cấp được tăng cường; các cấp chính quyền đã đầu tư nghiên cứu đổi mới nội dung, hình thức tổ chức phong trào thi đua.

– Các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội luôn là lực lượng đi đầu trong việc hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước. Tỉnh thường xuyên duy trì được 02 Cụm và 13 Khối thi đua với 100% đơn vị thuộc tỉnh và đơn vị Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh tham gia.

2.2.2. Về khuyết điểm

– Việc đánh giá cán bộ, công chức để làm cơ sở cho việc xét chọn danh hiệu, hình thức khen thưởng là khâu yếu nhất và còn nhiều bất cập nhất. Một số quy định của pháp luật về thi đua, khen không đem lại hiệu quả thiết thực. Tình trạng khen thưởng chủ yếu danh cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, ít chú trọng đến khen thưởng cho người lao động trực tiếp vẫn còn phổ biến. Hình thức tổ chức thi đua tuy có nhiều đổi mới, đa dạng về nội dung nhưng chất lượng thi đua vẫn chưa được cải thiện. Công tác xây dựng điển hình, nhân điển hình còn hạn chế. Số lượng khen thưởng tuy nhiều, nhưng chất lượng khen thưởng nhìn chung còn thấp, chưa thể hiện được tính tiêu biểu noi gương học tập. Năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ phụ trách công tác thi đua, khen thưởng ở các sở, ban, ngành, các huyện, thành phố chưa đồng đều, hoạt động không ổn định, thường xuyên biến động và phần lớn là kiêm nhiệm.

2.2.3. Nguyên nhân

  • Nguyên nhân ưu điểm:

Đạt được kết quả trên là do xuất phát từ truyền thống yêu nước, lao động cần cù, sáng tạo, chịu khó của Nhân dân tỉnh Quảng Nam. Công tác quán triệt và chỉ đạo tổ chức triển khai các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được kịp thời. Ban hành nhiều chính sách thi đua, khen thưởng để động viên, khuyến khích phong trào thi đua, yêu nước.

  • Nguyên nhân khuyết điểm:

Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, các ban, ngành, đoàn thể, nhất là người đứng đầu về ý nghĩa, tác dụng của công tác thi đua, khen thưởng còn hạn chế. Tình trạng bình đẳng trong việc tham gia phong trào thi đua, nhưng phân biệt, đối xử trong kết quả khen thưởng giữa cán bộ lãnh đạo, quản lý với người lao động trực tiếp vẫn chưa được khắc phục. Việc đánh giá bình xét thi đua, khen thưởng vẫn theo lối truyền thống, bảo thủ, gây nhàm chán. Phát động phong trào thi đua chưa tạo được động lực thật sự cho người tham gia. Có nơi chưa phát nhưng vẫn biết trước kết quả khen thưởng sẽ thuộc về ai. Năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở một số ban, ngành địa phương nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu.

Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Chương 3
GIẢI PHÁP ĐỐI MỚI QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ THI ĐUA, KHEN THƯỞNG TRONG NHỮNG NĂM TỚI

Trong Chương này, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng, trong đó đưa ra các giải pháp chung và những giải pháp cụ thể, qua đó đề xuất những kiến nghị cụ thể để giải quyết những hạn chế, yếu kém đặt ra từ thực tiễn công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở tỉnh Quảng Nam.

3.1. Giải pháp chung

3.1.1. Tiếp tục quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng

Để làm được điều đó cần phải đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức thi đua theo phương châm gần dân và phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội mỗi địa phương, đơn vị.

3.1.2. Quán triệt, triển khai Luật thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật của Chính phủ

Cần phải tăng cường quán triệt, triển khai và ban hành kịp thời các nghị định, thông tư hướng dẫn để nhanh chóng đưa luật vào cuộc sống- đó là căn cứ pháp lý quan trọng để tổ chức thực hiện các phong trào thi đua yêu nước và là công cụ để tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng.

3.1.3. Tăng cường quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng theo hướng nâng cao chất lượng hiệu quả để công tác thi đua, khen thưởng thực sự là động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển

Chủ yếu tập trung ở các giải pháp sau :

– Chủ thể phát động phong trào thi đua phải công tâm, khách quan. Công tác thi đua, khen thưởng phải thiết thực, chống hình thức, giả tạo và những lợi ích cục bộ, cá nhân khác. Công tác thi đua, khen thưởng phải công bằng, chính xác, kịp thời, công khai, minh bạch.

– Chú trọng cải cách thủ tục hành chính. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng. Thực hiện nghiêm túc việc đôn đốc, kiếm tra, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu dương, tôn vinh, khen thưởng kịp thời.

3.2. Những giải pháp cụ thể về đổi mới quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng ở tỉnh Quảng Nam trong những năm tới

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với công tác thi đua, khen thưởng trên địa bàn tỉnh

– Chú trọng quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng nhằm kịp thời cụ thể hóa thành các chỉ thị, chủ trương, chương trình hành động phù hợp với tình hình thực tế của mỗi địa phương, đơn vị.

– Tăng cường sự phối kết hợp, đẩy mạnh các phong trào thi đua, yêu nước. Bố trí cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng phải có đạo đức, bản lĩnh vững vàng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có năng lực công tác. Tăng cường sự kiểm tra, giám sát về thi đua, khen thưởng.

3.2.2. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức đối với công tác thi đua, khen thưởng và quản lý nhà nước đối với công tác này

– Để tạo được sự chyển biến mạnh mẽ cần chú trọng các vấn đề sau :

+ Mỗi tập thể, cá nhân phải nhận thức đúng, đầy đủ khi tham gia thi đua.

+ Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong việc bình xét, thi đua và trong việc đánh giá cán bộ, công chức để làm cơ sở cho việc khen thưởng vì đây là khâu yếu nhất và nhiều bất cập nhất.

+ Thường xuyên sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả về thi đua, khen thưởng để rút ra bài học kinh nghiệm.

3.2.3 Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị và sự tham gia quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng của các cơ quan này

Công tác phối hợp phải đi vào vào thực chất. Việc phối hợp phải thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng lẫn nhau, tránh tình trạng áp đặt ý chí, mệnh lệnh của cơ quan này lên cơ quan khác. Việc ban hành chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng phải thể hiện rõ sự cầu thị, tiếp thu khi có ý kiến góp ý. Ban hành chính sách, pháp luật phải phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân và phù hợp với tình hình thực tế .

Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cần đầu tư nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật, có hiểu biết xã hội để có những ý kiến sát đúng, có chất lượng.

3.2.4. Thực hiện đồng bộ các nội dung quản lý Nhà nước về công tác thi đua khen thưởng

– Thứ nhất, việc ban hành các chủ trương phải rõ ràng, chặt chẽ.

– Thứ hai, cần đa dạng hóa các hình thức tổ chức thi đua. Đẩy mạnh các phong trào “Thi đua chuyên đề”.

Thứ ba, đổi mới hình thức tổ chức phát động thi đua, đăng ký giao ước thi đua đảm bảo thiết thực, hiệu quả.

Thứ tư, làm rõ nguyên nhân và đề ra những biện pháp khả thi để giải quyết được những hạn chế, yếu kém đặt ra từ thực tiễn.

Thứ năm, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; giải quyết tốt việc khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong công tác thi đua, khen thưởng.

3.2.5. Tăng cường năng lực hoạt động của tổ chức bộ máy thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với công tác thi đua khen thưởng

– Tiếp tục kiện toàn bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả . Phong trào thi đua yêu nước của tỉnh cần hướng vào các tập thể nhỏ, người lao động trực tiếp.

– Bố trí cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng phải có trình độ đại học, có năng lực hoạt động thực tiễn, có tâm huyết, bản lĩnh vững vàng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

– Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, kể cả đội ngũ bán chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng.

3.3. Một số kiến nghị

– Việc đánh giá cán bộ, công chức phải theo tiêu chuẩn, vị trí chức danh đảm nhiệm, tránh cào bằng trên cơ sở hiệu quả công việc, tư duy khoa học, tham khảo ý kiến số đông, phát huy rộng rãi dân chủ, nhất là dân chủ xã hội và cần khắc phục những thành kiến cá nhân, bè phái, cục bộ trong tổ chức đánh giá cán bộ, công chức.

– Cần đổi mới cách thức thực hiện công tác thi đua theo hướng: Cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thi đua với cán bộ lãnh đạo, quản lý; người lao động được thi đua với người lao động.

– Cần thừa nhận yếu tố cạnh tranh trong thi đua, khen thưởng.

– Đối với việc thẩm định sáng kiến, bên cạnh việc xây dựng những tiêu chí, thang điểm cụ thể trên từng lĩnh vực, đề nghị cần thay đổi theo hướng thành lập Hội đồng thẩm định sáng kiến phải là những người am hiểu về chuyên môn, nghiệp vụ đối với từng lĩnh vực và nhất là không phải phụ thuộc về mặt thứ bậc trong công tác.

– Bỏ quy định tại khoản 5, Điều 21 của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013 và điểm b, khoản 1, điều 10 của Luật thi đua, khen thưởng năm 2003. Cần sửa đổi cá nhân đạt Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ có mức khen thưởng cao hơn mức khen thưởng đối với danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp tỉnh. Giảm bớt những danh hiệu, hình thức khen không cần thiết.

KẾT LUẬN

Thực tiễn quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng ở tỉnh Quảng Nam trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, song bên cạnh đó, những bất cập, yếu kém trong quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng và những tác động mặt trái của cơ chế thị trường đã làm suy giảm hiệu quả, vai trò và ý nghĩa sâu sắc của công tác thi đua, khen thưởng. Luân văn: Quản lý về thi đua, khen thưởng từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản của quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng địa phương. Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn đã chỉ ra những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, bình đẳng, tiến bộ, công bằng và văn minh.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HINH SU DOT 2\LUAT HANH CHINH\NGUYEN VAN YEN\SAU BAIO VE

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *