Quản lý nhà nước về phát thanh truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về phát thanh truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

  1. 1. Tính cấp thiết của đề tài

Phát thanh, truyền hình với tư cách là một phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại có khả năng thông tin nhanh chóng, kịp thời hơn so với các phương tiện khác; PT-TH phản ánh ngay lập tức các sự kiện khi vừa mới diễn ra, thậm chí đang diễn ra, khán thính giả có thể nghe, quan sát một cách chi tiết, tường tận, trực tiếp và liên tục 24/24h trong ngày; mang đến cho khán, thính giả những thông tin nóng hổi nhất về các sự kiện diễn ra, cập nhật những tin tức mới nhất. Đây là ưu thế đặc biệt của PT-TH so với các loại hình báo chí khác, là phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện.

Hiện nay, cả nước có 67 Đài PT-TH bao gồm: 02 đài trực thuộc Trung ương (Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam); 01 Đài thuộc Bộ TTTT (Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC); 64 Đài PT-TH địa phương (62 Đài PT-TH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; riêng Thành phố Hồ Chí Minh có 02 Đài: Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Đài Tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh). Với 268 kênh được cấp phép, các Đài PT-TH không ngừng nâng cao chất lượng, sản xuất chương trình bằng công nghệ chuẩn HD. Số lượng thuê bao của dịch vụ truyền hình trả tiền tăng nhanh, lên tới 12,5 triệu thuê bao, doanh thu 12.000 tỷ đồng [9].

Có 6 kênh truyền hình hoạt động không có hạ tầng phát sóng truyền hình riêng gồm: Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV TV), Kênh truyền hình Công an nhân dân (ANTV), Kênh truyền hình Thông tấn (Vnews), Kênh truyền hình Quốc phòng, Kênh truyền hình Quốc hội, Kênh truyền hình Nhân dân. Số lượng kênh chương trình phát thanh trong nước là 78 kênh; trong đó phát thanh tiếng dân tộc là 1 kênh (VOV4), phát thanh đối ngoại 1 kênh (VOV5), số kênh phát thanh qua truyền hình cáp, Internet, vệ tinh có 9 kênh. Số kênh truyền hình trong nước có 106 kênh; số kênh truyền hình trên cáp truyền hình trả tiền, Internet, vệ tinh là 91 kênh, trong đó có 58 kênh nước ngoài [9]. Thông qua các kênh sóng đã tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. PT-TH đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã hội, tạo diễn đàn phản ánh kịp thời những ý kiến sinh động từ thực tiễn cuộc sống để Đảng, Nhà nước có thêm thông tin nhằm tiếp tục ban hành các quyết sách đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của người dân; nhiều chương trình giải trí thú vị được đầu tư ngày càng phong phú, đa dạng đã góp phần nâng cao giá trị về mặt tinh thần.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm sâu sắc tới sự phát triển của ngành PT-TH trên phạm vi cả nước. Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển và hiện đại hóa mạng lưới thông tin đại chúng, nâng cao chất lượng các sản phẩm, dịch vụ phát thanh, truyền hình, báo chí, xuất bản. Đến năm 2010 hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện phát thanh, truyền hình đến mỗi gia đình”. Nghị quyết số 26/NQ-TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đề ra nhiệm vụ: “Nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho mọi vùng nông thôn, đặc biệt là miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo”. Ngày 16/02/2009, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch truyền dẫn, phát sóng PT-TH đến năm 2020 với mục tiêu “…Đến năm 2020, từng bước triển khai lộ trình số hóa mạng truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất phù hợp với điều kiện thực tế về thiết bị thu truyền hình số của người dân trên từng địa bàn cụ thể. Về cơ bản sẽ ngừng phát sóng truyền hình mặt đất công nghệ tương tự để chuyển sang phát sóng truyền hình mặt đất công nghệ số khi 95% số hộ gia đình có máy thu hình có khả năng thu các kênh chương trình truyền hình quảng bán bằng những phương thức truyền dẫn, phát sóng số khác nhau. Ngừng việc sử dụng công nghệ truyền hình cáp tương tự trước năm 2020 để chuyển hoàn toàn sang công nghệ số với 100% các mạng cáp được ngầm hóa dọc các tuyến đường phố chính tại trung tâm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương…”

Hệ thống PT-TH trong cả nước hiện nay đang phát triển nhanh cả về nội dung, chất lượng chương trình, hạ tầng kỹ thuật và phương thức truyền dẫn, phát sóng, góp phần tích cực vào sự phát triển KT-XH của đất nước. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh, mạnh của hệ thống PT-TH đang đặt ra những thách thức trong công tác quản lý nhà nước, nhất là đối với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. PT-TH là loại hình báo chí mang tính đặc thù, đòi hỏi sự gắn kết giữa nội dung, kỹ thuật và hạ tầng. Vì vậy, quản lý nhà nước về PT-TH đòi hỏi sự thống nhất, mang tính đồng bộ cao cả về nội dung và kỹ thuật, trong khi đó ở nhiều địa phương điều này vẫn chưa đáp ứng được.

Để PT-TH phát triển, phát huy tối đa vai trò là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, cần tăng cường vai trò của quản lý nhà nước, nhất là tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với lĩnh vực này. Đó cũng là phương tiện để công tác quản lý nhà nước đối với PT-TH được tiến hành thống nhất và chặt chẽ [11]. Điều 2, Luật Báo chí 2016 quy định: “Báo chí hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động”; “không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân”.

Thực hiện chủ trương, đường lối, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, tỉnh Quảng Nam đã dành nhiều sự quan tâm đến lĩnh vực PT-TH; tạo điều kiện cho hệ thống PT-TH phát triển, góp phần tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh kịp thời những chỉ đạo của các cấp và chính quyền địa phương; góp phần xây dựng KT-XH trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống PT-TH trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, đó là: chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật về các quy định về PT-TH (trong đó có Truyền thanh xã); nội dung chương trình PT-TH chưa phong phú; hình thức thể hiện còn đơn điệu; chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chưa xứng tầm, nhất là cán bộ Truyền thanh xã còn bất cập; hệ thống trang thiết bị nhiều nơi kỹ thuật lạc hậu và xuống cấp nghiêm trọng; kinh phí duy trì hoạt động thấp; chính quyền một số địa phương chưa nhận thức rõ tầm quan trọng, nhất là hệ thống Truyền thanh xã nên thiếu sự quan tâm cả về nhân lực và công tác quản lý.

Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ ngành Luật hiến pháp và luật hành chính, với mục đích nghiên cứu những giải pháp hữu hiệu để tăng cường quản lý nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn thực tiễn ở lĩnh vực PT-TH của tỉnh Quảng Nam.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về PT-TH; giúp cho các Đài PT-TH tỉnh, Đài TT-TH cấp huyện, thị xã, thành phố (sau đây gọi chung là Đài TT-TH huyện), Đài truyền thanh xã hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích; bám sát thực tiễn đời sống xã hội, định hướng tư tưởng và nhiệm vụ chính trị của tỉnh, của cơ sở; tích cực tuyên truyền, phản ánh nhiều chiều, phong phú, đa dạng mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội, an ninh quốc phòng, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

– Làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung, hình thức cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về PT-TH.

– Đánh giá thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam; phân tích, làm sáng tỏ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế.

– Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là hoạt động quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam; những quy định pháp luật về quản lý nhà nước đối với hoạt động PT-TH. Đề tài sẽ không đề cập các nội dung liên quan đến vấn đề nghiệp vụ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tỉnh Quảng Nam

– Không gian nghiên cứu: từ năm 2013 đến năm 2018

  1. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và cách tiếp cận hệ thống.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp đánh giá, phương pháp thống kê, mô tả, phương pháp so sánh, phương pháp quan sát trực tiếp…

Chương 1: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để đưa ra các khái niệm về PT-TH, quản lý nhà nước về PT-TH. Nêu bậc nội dung quản lý nhà nước đối với báo chí PT-TH.

Chương 2: Sử dụng phương pháp thu thập số liệu, tài liệu, tổng hợp, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 3: Sử dụng phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp để rút ra những giải pháp nhằm góp phần tăng cường công tác quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.

  1. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Về lý luận, làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về PT-TH nói chung và quản lý nhà nước về PT-TH tại tỉnh Quảng Nam nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Về thực tiễn, đề tài có giá trị tham khảo, giúp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các nhà quản lý nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của PT-TH trong công tác tuyên truyền, thông tin và phản ánh kịp thời, sâu rộng, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, KT-XH, quốc phòng an ninh, công tác xây dựng Đảng, các vấn đề đặt ra trong đời sống của nhân dân, nêu các gương tốt, các cá nhân và điển hình tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời phản ánh những việc làm sai trái, vi phạm… hướng đến thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

  1. 7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam

Chương 3: Định hướng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình tại tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ PHÁT THANH, TRUYỀN HÌNH

    1. 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình

1.1.1. Khái niệm về phát thanh, truyền hình

1.1.1.1. Khái niệm về phát thanh

Phát thanh là một thể loại báo chí, thông báo về một sự kiện mới, tuyên bố mới, tình hình mới về sự việc, hiện tượng con người đã, đang và sẽ xảy ra, được truyền đạt trực tiếp, dễ hiểu đến đối tượng thính giả bằng phương tiện radio. Như thế, phát thanh tác động đến thính giả bằng âm thanh, lời nói, tiếng động, âm nhạc. Hay nói cách khác, bằng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh truyền đi âm thanh, phát thanh đã tác động trực tiếp vào thính giác của người nghe. Là một loại hình truyền thông độc đáo, hấp dẫn, có khả năng tạo được sức hút và thiện cảm đối với đông đảo công chúng [51].

Phát thanh có 2 loại hình: phát thanh qua sóng điện từ, phát thanh truyền qua hệ thống dây dẫn.

Phát thanh được coi là một trong những loại hình truyền thông hiện đại, có được một lượng công chúng rộng rãi và có sức ảnh hưởng lớn tới dư luận xã hội. Phát thanh có những đặc điểm cơ bản:

Tỏa sóng rộng khắp: trong cùng một khoảng thời gian, hàng triệu người có thể nghe được thông tin. Như vậy phát thanh có tính xã hội hóa cao.

Kỹ thuật đơn giản, tiện lợi: Chỉ cần một thiết bị thu tín hiệu nhỏ ở bất cứ nơi nào dù là miền núi hay hải đảo, công chúng đã có thể hưởng thụ các chương trình phát thanh. Chỉ với một chiếc radio nhỏ nhẹ có thể vừa nghe chương trình phát thanh vừa làm mọi công việc, kể cả đang làm việc ngoài đồng, trong công trường hay đang lái xe ô tô …

Khả năng thông tin thời sự nhanh nhạy: Ưu thế nổi bật đầu tiên của phát thanh là sự nhanh nhạy trong thông tin. Phát thanh là hình thức truyền thông tin nhanh nhất mà người nghe có thể cảm nhận được thông qua thính giác và tiếp nhận được nhiều sự kiện, thông tin mới nhất vừa xảy ra, đang xảy ra, thậm chí sẽ xảy ra. Song song với tình năng này thì báo mạng, điện tử mới đáp ứng được, tuy nhiên hạn chế của báo mạng, báo điện tử là phụ thuộc vào đường truyền Internet và kèm theo nhiều thiết bị khác như phải có máy tính, điện thoại thông minh hay máy tính bảng mới truyền tải được. Còn với báo phát thanh thì chỉ cần một chiếc radio nhỏ gọn thì có thể nghe được thông tin nhanh nhất dù trong bất kỳ thời gian, không gian nào.

Gần gũi công chúng, hiệu quả tác động cao: Thêm một tính năng cơ bản trong báo phát thanh có thể vượt trội so với nhiều phương tiện truyền thông khác đó là gần gũi công chúng. Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thời gian nào thì trong cùng một lúc hàng ngàn người đều có thể nghe được lượng thông tin như nhau bởi những người làm báo phát thanh luôn quan niệm: viết cho mọi đối tượng có thể nghe và hiểu. Điều đó có nghĩa những người làm báo phát thanh biết cách tôn trọng người nghe và thông qua đó giúp thính giả nắm được thông tin một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.

Với mục tiêu thu hút thính giả, tạo ra sức sống cho làn sóng phát thanh, những người làm báo phát thanh hiện đại không chỉ quan tâm đến việc đem lại cho công chúng những thông tin nóng hổi, bổ ích, gần gũi với cuộc sống thường nhật mà còn ở cách thể hiện những thông tin đó một cách thân tình, gần gũi “như nói với một người bạn”. Người làm báo phát thanh ngày nay rất quan tâm đến những thói quen và sở thích của từng nhóm công chúng nghe Đài, không ngừng cải tiến về hình thức, chất lượng để các chương trình phát thanh ngày càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp với từng đối tượng nghe đài, đáp ứng thị hiếu ở từng độ tuổi…

1.1.1.2. Khái niệm về truyền hình

Thuật ngữ truyền hình (Television) có nguồn gốc từ tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Theo tiếng Hy Lạp, từ “Tele” có nghĩa là ở xa, “videra” có nghĩa là thấy được, còn theo tiếng Latinh có nghĩa là thấy được từ xa, ghép hai từ đó lại là “Televidera”. Tiếng Anh là Television, Tiếng Pháp cũng là “Television” [52]. Ngoài ra, có các tên gọi khác như Tivi, vô tuyến truyền hình hoặc ngắn gọn hơn là truyền hình. Như vậy dù bất cứ quốc gia nào thì tên gọi truyền hình vẫn có chung một nghĩa.

Truyền hình là một công nghệ thuộc lĩnh vực điện tử viễn thông, nó bao gồm tập hợp nhiều thiết bị điện tử. Có khả năng thu nhận tín hiệu sóng vô tuyến cũng như truyền dẫn các tín hiệu điện mang hình ảnh và âm thanh được mã hóa, được phát dưới dạng sóng vô tuyến hoặc thông qua hệ thống cáp quang, hoặc cáp đồng trục. Truyền hình đáp ứng cùng một lúc cả hai chức năng nghe và nhìn, những hình ảnh được trình chiếu trên các màn hình và âm thanh được phát trên hệ thống loa [52].

Xét theo góc độ kỹ thuật truyền tải có truyền hình sóng (wireless TV) và truyền hình cáp (CATV). Xét dưới góc độ thương mại có truyền hình công cộng (public TV) và truyền hình thương mại (commercial TV). Xét theo tiêu chí mục đích nội dung, người ta chia truyền hình thành 02 mục đích: truyền hình giáo dục, truyền hình giải trí. Xét theo góc độ kỹ thuật có truyền hình tương tự (Analog TV) và truyền hình số (Digital TV).

Truyền hình có 02 loại là truyền hình sóng và truyền hình cáp.

– Truyền hình sóng:

Truyền hình sóng là truyền hình được thực hiện theo nguyên tắc kỹ thuật như sau: hình ảnh và âm thanh được mã hóa dưới dạng các tín hiệu sóng và phát vào không trung. Các máy thu tiếp nhận các tín hiệu rồi giải mã nhằm tạo ra các hình ảnh động và âm thanh trên máy thu hình. Sóng truyền hình là sóng phẳng vì thế ăngten thu bắt buộc phải “nhìn thấy” được ăngten phát và phải nằm trong vùng phủ sóng thì mới bắt được tín hiệu tốt.

-Truyền hình cáp:

Truyền hình cáp (hữu tuyến) (CATV: Community Antenna Television) là những tín hiệu được truyền trực tiếp qua cáp nối từ đầu máy phát đến từng máy thu hình. Từ đó truyền hình cáp trong cùng một lúc có thể chuyển đi nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng. Ngoài ra còn phục vụ nhiều dịch vụ khác mà truyền hình sóng không thể thực hiện được.

So với các loại hình báo chí khác, truyền hình có những đặc điểm riêng biệt mang tính đặc trưng. 

Tính thời sự: Tính thời sự là đặc điểm chung của báo chí, nhưng với báo hình có thể phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp các sự kiện đã, đang diễn ra một cách chi tiết, tường tận, đáp ứng nhu cầu nghe nhìn của khán giả qua hình thức truyền hình trực tiếp và cầu truyền hình. Hiện nay, với tần số phát sóng liên tục trong ngày, báo hình đang cạnh tranh với các phương tiện truyền thông khác bằng cách luôn mang đến cho khán giả lượng thông tin nhanh nhất, thiết thực nhất, mới nhất và hiệu quả nhất. Như vậy, tính thời sự trong thể loại báo hình có thể xem là sự vượt trội so với các loại hình báo chí khác.

Nhờ các thiết bị kỹ thuật hiện đại, truyền hình có đặc trưng cơ bản là truyền trực tiếp cả hình ảnh và âm thanh trong cùng một thời gian về cùng một sự kiện, sự việc. 

Ngôn ngữ truyền hình là ngôn ngữ hình ảnh và âm thanh: Một ưu thế của truyền hình chính là truyền tải cả hình ảnh và âm thanh cùng một lúc. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận bằng con đường thị giác, phát thanh bằng con đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự kiện bằng cả thị giác và thính giác. Qua các cuộc nghiên cứu người ta thấy 70% lượng thông tin con người thu được là qua thị giác và 30% qua thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người trước sự kiện.

Tính phổ cập và quảng bá: Do những ưu thế về hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng thu hút người xem cùng một lúc. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, truyền hình ngày càng mở rộng phạm vi phủ sóng phục vụ được nhiều đối tượng người xem ở vùng sâu, vùng xa. Tính quảng bá của truyền hình còn thể hiện ở chỗ một sự kiện xảy ra ở bất kì đâu khi được đưa lên vệ tinh sẽ truyền đi khắp cả thế giới, được rất nhiều người biết đến. Như vậy, dù bất kỳ trong điều kiện, hoàn cảnh nào, chỉ cần một chiếc tivi có thể nắm bắt được những thông tin, sự kiện diễn ra dù trong nước hay trên thế giới.

Khả năng thuyết phục công chúng: Truyền hình phục vụ khán giả cùng lúc hai tín hiệu cơ bản là hình ảnh và âm thanh nên đem lại độ tin cậy, thông tin cao cho công chúng, có khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của con người. Truyền hình có khả năng truyền tải một cách chân thực hình ảnh của sự kiện đi xa nên đáp ứng yêu cầu chứng kiến tận mắt của công chúng. Chính truyền hình đã cung cấp những hình ảnh về sự kiện thỏa mãn nhu cầu “thấy” của người xem. Đây là lợi thế lớn của truyền hình so với các loại hình báo in và phát thanh.

Khả năng tác động dư luận xã hội mạnh mẽ và trở thành diễn đàn của nhân dân: Các chương trình truyền hình mang tính thời sự, cập nhật, nóng hổi, hấp dẫn người xem bằng cả hình ảnh, âm thanh và lời bình, vừa cho người xem thấy được thực tế của vấn đề, vừa tác động vào nhận thức của công chúng. Vì vậy, truyền hình có khả năng tác động vào dư luận mạnh mẽ.

1.1.1.3. Vai trò, chức năng của PT- TH trong đời sống xã hội

PT-TH có vai trò, chức năng ngày càng quan trọng trong đời sống xã hội bởi thông qua đó sẽ chuyển tải những chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của cấp ủy, chính quyền địa phương nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân, tạo sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, Lênin coi máy thu thanh là “công việc vĩ đại”, đã gọi nó là “tờ báo không có giấy và không có khoảng cách” [Lênin toàn tập, tập 517, NXB Tiến bộ – 1978, tr.167”].

Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
Quản lý nhà nước về phát thanh, truyền hình từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Báo phát thanh như một tiểu hệ thống trong hệ thống báo chí nói riêng và hệ thống xã hội liên tục vận động và phát triển nói chung, báo phát thanh có những chức năng cơ bản như sau: chức năng thông tin, chức năng tư tưởng, chức năng khai sáng – giải trí, chức năng tổ chức – quản lý, giám sát và phản biện xã hội, chức năng kinh tế – dịch vụ [42].

Thông tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi nguồn của PT- TH bởi nó ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con người và xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng văn minh thì nhu cầu thông tin giao tiếp càng cao, càng đa dạng phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu này làm cho các loại hình báo chí này phát triển nhanh chóng.

Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích của báo chí PT-TH. Bởi báo chí đi đầu trong việc giáo dục tư tưởng, lý tưởng xã hội và con người. Đặc thù chức năng tư tưởng của báo chí là tác động đối với mỗi con người. Đồng thời làm công tác tư tưởng qua thông tin sự kiện nghĩa là nó không chỉ thông tin sự kiện mà nó còn bình luận, đánh giá sự kiện đang diễn ra, hướng người xem đi đến một nhận thức đúng. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí tuyên truyền lý luận Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và tư tưởng tốt làm tiền đề cho đường lối chính sách tốt. Cũng như các loại hình báo chí khác, PT-TH là một binh chủng xung kích, đi đầu trong công tác tư tưởng của Đảng, nhờ đó đã kịp thời đấu tranh chống mọi thế lực thù đich, tư tưởng bảo thủ, lạc hậu. Nó cũng chú trọng kích thích tích cực, đấu tranh chống hành động tiêu cực.

Chức năng khai sáng – giải trí được hiểu rằng: các sản phẩm truyền thông góp phần to lớn vào việc nâng cao dân trí và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc cũng như giao lưu, tiếp thu các tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới, phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước, chấn hưng dân tộc. Như vậy, chức năng khai sáng- giải trí nhằm giúp cho đối tượng thụ hưởng những thông tin, kiến thức quan trọng để nâng cao dân trí, qua đó giáo dục, duy trì và phát triển những giá trị văn hóa trong đời sống xã hội.

Giải trí là hoạt động thẩm mỹ trong thời gian rỗi, nhằm giải tỏa căng thẳng trí não, tạo sự hứng thú cho con người và là điều kiện phát triển con người một cách toàn diện về trí tuệ, thể lực và thẩm mỹ. Như vậy, chức năng giải trí của PT-TH là đem lại sự thoải mái về mặt tinh thần, giúp khán thính giả có được những giây phút bổ ích bằng các chương trình giải trí thú vị, hiệu quả để cân bằng trạng thái con người sau những khoảng thời gian căng thẳng, áp lực.

Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của PT-TH thể hiện ở chỗ duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể quản lý thông qua việc duy trì và phát triển dòng thông tin hai chiều, bảo đảm cho các quyết định quản lý được thông suốt và thực thi. Giám sát xã hội của báo chí thực chất là giám sát bằng dư luận xã hội. Qua giám sát, theo dõi một cách khách quan và có định hướng mà báo chí thể hiện vai trò phản biện xã hội của mình. Nếu phản biện khoa học là một trong những cách thức chủ yếu để các nhà nghiên cứu tiệm cận tới các chân lý khoa học, thì trong đời sống xã hội, phản biện xã hội là một công cụ không thể thiếu để tổ chức ra một xã hội dân chủ [67]. Tại Đại hội Đảng XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chính thức ghi nhận, yêu cầu nền báo chí cách mạng Việt Nam nhận thêm vai trò, nhiệm vụ phản biện xã hội. Trong Nghị quyết Đại hội, về phát triển hệ thống thông tin đại chúng, nêu rõ: “Chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước…” [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 225].

Báo chí thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội trước hết ở việc cung cấp thông tin chân thực, khách quan theo cả hai chiều, từ chủ thể quản lý đến khách thể quản lý và ngược lại. Họat động quản lý có hiệu quả hay không, phụ thuộc nhiều vào tính chất, số lượng và chất lượng thông tin hai chiều liên tục này. Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí cần phải tuân thủ một hệ thống các nguyên tắc là cơ sở phương pháp luận cho họat động báo chí, là chuẩn mực nghề nghiệp và cũng là nền tảng cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí, trong đó nổi bật nhất là tính chân thật, khách quan, tính công khai, tính đại chúng và tính chiến đấu [67]. Như vậy từ chức năng giám sát và phản biện xã hội, báo chí có khả năng tổ chức, tập hợp lực lượng và tham gia quản lý để đảm bảo luồng thông tin hai chiều. Từ Đảng và Nhà nước đến dân và từ dân đến Đảng và Nhà nước. Nhờ đó, Nhà nước có thể nắm bắt hiệu quả của những chính sách và từ đó chỉnh sửa, bổ sung và hiểu được tâm tư của người dân.

Chức năng kinh tế – dịch vụ: chức năng này xuất phát từ đòi hỏi khách quan của họat động PT-TH trong nền kinh tế thị trường; đồng thời theo quan điểm chỉ đạo của các văn kiện chính trị của Đảng và Nhà nước, như Nghị quyết TW 5 (khóa VIII), các văn bản dưới luật…

1.1.2. Khái niệm, vai trò quản lý nhà nước đối với phát thanh, truyền hình

1.1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước

Quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất [Các Mác – Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, tr.23]. Trên thế giới hiện nay, cách hiểu về quản lý có tính thống nhất tương đối. Khoa học về quản lý định nghĩa: “Quản lý là sự tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… thông qua hệ thống pháp luật, chính sách, các nguyên tắc, các quy định và bằng các biện pháp cụ thể, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện cho sự phát triển của đối tượng quản lý”. Như vậy, hiểu một cách đơn giản nhất, quản lý chính là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.

Quản lý nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN [Giáo trình quản lý hành chính nhà nước, tập 1, tr.407].

Như vậy, quản lý nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực nhà nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Quản lý nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của Nhà nước trong quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt. Quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa.

Theo nghĩa rộng: quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ các hoạt động từ ban hành các văn bản luật, các văn bản mang tính dưới luật đến việc chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý và vấn đề tư pháp đối với đối tượng quản lý cần thiết của Nhà nước. Hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu và trước hết được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, song có thể các tổ chức chính trị – xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực hiện nếu được nhà nước uỷ quyền, trao quyền thực hiện chức năng của nhà nước theo quy định của pháp luật.

Quản lý nhà nước là một dạng của quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật, chính sách để điều chỉnh hành vi cá nhân, tổ chức trên tất cả các mặt của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ nhân dân, duy trì ổn định và phát triển của xã hội. Theo đó có 03 chức năng cơ bản của quản lý nhà nước, đó là: chức năng lập pháp do cơ quan lập pháp thực hiện; chức năng hành pháp (chấp hành và điều hành) do hệ thống hành chính nhà nước đảm nhiệm; chức năng tư pháp do cơ quan tư pháp thực hiện.

Theo nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là hoạt động hành chính của cơ quan thực thi quyền lực nhà nước (quyền hành pháp) để quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật. Theo đó, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động quản lý được giới hạn trong các cơ quan hành pháp, đó là Chính phủ và UBND các cấp; hệ thống các cơ quan quyền lực, xét xử và kiểm sát thực hiện quyền lập pháp và tư pháp không thuộc hệ thống quản lý hành chính nhà nước [55].

1.1.2.2. Khái niệm quản lý Nhà nước về PT-TH

Quản lý nhà nước về PT-TH là những hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm cho hoạt động ở lĩnh vực này được ổn định và phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự do ngôn luận, tự do báo chí [62]. Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo cho báo nói, báo hình phát triển, đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhân dân, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngôn luận, tự do báo chí để đưa ra các luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” gây mất an ninh chính trị và trật tự trong nước [67].

Quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí nói chung và PT-TH nói riêng cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã hội khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy nhà nước, là công việc của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên cơ sở quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến địa phương để thực hiện chức năng nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân [57].

Chủ thể của hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu là các cơ quan nhà nước hay các cá nhân quản lý chuyên ngành về hoạt động báo chí được nhà nước trao quyền về quản lý nhà nước đối với lĩnh vực đó. Mục đích của hoạt động quản lý là phát huy mọi nguồn lực tạo ra một cơ chế hợp lý cho hoạt động PT-TH phát triển.

1.1.2.3. Vai trò của quản lý nhà nước về PT-TH

Là một hoạt động mang tính chính trị xã hội, ra đời do nhu cầu khách quan của xã hội và phát triển đến một trình độ nhất định nên báo chí PT-TH giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của đất nước. Trong xã hội bùng nổ thông tin như hiện nay, báo chí có vai trò vô cùng quan trọng, bên cạnh bộ ba quyền lực được công nhận chính thức (lập pháp, hành pháp và tư pháp), xã hội còn thừa nhận (nhưng chưa chính thức) báo chí là quyền lực thứ tư. Tuy nhiên, để báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích thì vai trò quản lý nhà nước về báo chí rất cần thiết. Bởi trong họat động lãnh đạo và quản lý KT-XH, báo chí PT-TH là phương tiện và phương thức lợi hại. Trên phương diện vĩ mô, hoạt động quản lý báo chí sẽ góp phần định hướng, điều chỉnh sự phát triển của báo chí, giúp hiện thực hóa các chủ trương, đường lối đến người dân. Trên phương diện vi mô, hoạt động quản lý báo chí ở từng địa phương sẽ tránh sự tùy tiện, sai lệch trong khi thực thi các cơ chế, chính sách của Nhà nước trên lĩnh vực báo chí.

Do đó, quản lý nhà nước về PT-TH đòi hỏi tất yếu khách quan, là nguyên tắc và phương thức bắt buộc để huy động tối đa năng lực tác động của báo chí, truyền thông vào mục đích phát triển đất nước, hạn chế đến mức thấp nhất những hiệu ứng ngoài mong đợi.

Quản lý nhà nước về PT-TH làm cho sức mạnh của kênh thông tin này được phát huy cao nhất, để từ đó tập trung nguồn lực và mọi cố gắng vào phục vụ mục đích phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; tạo mọi điều kiện cho PT-TH phát triển và phục vụ sự phát triển KT-XH của đất nước. Đồng thời nhằm bảo đảm tự do kênh sóng này được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

Quản lý nhà nước về báo chí nói chung và PT-TH nói riêng là nhằm bảo đảm cho báo chí phát huy vai trò định hướng dư luận xã hội không chỉ trong nước, trong khu vực mà còn trên phạm vi toàn thế giới.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\HANH CHINH\TRINH THI BICH UYEN

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *