Miễn giảm hoàn thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam

Miễn giảm hoàn thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam

Miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thuế là nguồn thu chủ yếu của Nhà nước để đảm bảo duy trì và phát triển hoạt động của hệ thống nhà nước. Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều thực hiện chính sách pháp luật về thuế để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình, trong đó có chính sách thuế nhập khẩu. Tùy theo thể chế chính trị, tình hình kinh tế – xã hội mà mỗi quốc gia sẽ có những chính sách pháp luật về thuế phù hợp, đồng thời tương thích với các điều ước quốc tế, các hiệp định thương mại song phương và đa phương do quốc gia đó tham gia, ký kết.

Đối với Việt Nam chính sách pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có thể xem được áp dụng từ năm 1951 và đã trải qua quá trình sửa đổi, bổ sung và thay thế nhiều lần theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, chúng ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, kinh tế đất nước ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng vào thế giới, nhất là trong giai đoạn thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới và Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Vì vậy, chính sách pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày càng phải được hoàn thiện đảm bảo việc thu đúng, thu đủ, đảm bảo công khai, minh bạch nhằm đạt đến mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Trong chính sách thuế nhập khẩu Đảng và Nhà nước ta cũng quan tâm đến vấn đề ưu đãi nhằm để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước, phát triển các ngành, lĩnh vực quan trọng, thu hút đầu tư, thực hiện chính sách ngoại giao. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu hội nhập và việc thực hiện các điều ước quốc tế, các hiệp định song phương, đa phương. Chúng ta đã đề ra chính sách miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu qua lãnh thổ Việt Nam.

Trong thời gian qua chính sách pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu ngày càng được hoàn thiện, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần phát triển kinh tế xã hội và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn những vấn đề bất cập cần phải tiếp tục hoàn thiện để chính sách pháp luật ngày càng phù hợp và đi vào cuộc sống.

Địa bàn tỉnh Quảng Nam nơi đang có chiều hướng phát triển tốt về kinh tế quốc tế. Cho nên, việc thực hiện pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu sẽ có tác động rất lớn đến chính sách pháp luật và việc góp phần phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Quảng Nam.

Xuất phát từ thực trạng trên, việc nghiên cứu: “Miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam” là cần thiết cho đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật Kinh tế.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về chính sách miễn, giảm và hoàn thuế nhập khẩu của Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng để đánh giá những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế. Từ đó, đề xuất, kiến nghị những giải pháp nhằm phát huy ưu điểm và hạn chế tồn tại, khuyết điểm góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật về miễn, giảm và hoàn thuế nhập khẩu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, nghiên cứu khái quát vấn đề lý luận về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu, trên cơ sở đó làm rõ các vấn đề lý luận mới, các yêu cầu mới liên quan đến miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu.

Thứ hai, nghiên cứu, phân tích đánh giá thực trạng hệ thống pháp luật hiện hành và các quy định về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu. Qua đó, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập của pháp luật và thực tiễn thực hiện về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

Thứ ba, đề ra một số kiến nghị và đề xuất hoàn thiện pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu phù hợp với tình hình mới, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả đáp ứng được các yêu cầu mới trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và Cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu các quan điểm về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu; các quy định của pháp luật một số nước có tính chất so sánh; nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu; nghiên cứu các trường hợp thực hiện miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế nhập khẩu.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

– Phạm vi không gian: Nội dung về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật Việt Nam rất rộng và nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu thực hiện pháp luật và thực tiễn về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam.

– Phạm vi thời gian: Từ năm 2013 đến nay.

– Địa bàn nghiên cứu: Tại tỉnh Quảng Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lênin, các quan điểm của Đảng về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu. Đồng thời, tham khảo các báo cáo qua các hội nghị, hội thảo và các diễn đàn, qua các báo và mạng internet có liên quan, thực tế tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

Phương pháp so sánh: Được áp dụng khi nghiên cứu các quan điểm về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu; các quy định của pháp luật Việt Nam tại Chương 1 của luận văn. So sánh giữa lý luận về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu của Việt Nam đang áp dụng với hiệu quả trên thực tế để rút ra những ưu điểm, hạn chế của việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu. Từ đó, đề xuất được những giải pháp, quan điểm hoàn thiện pháp luật và tăng cường thực thi pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu.

Phương pháp phân tích, tổng hợp: Các phương pháp nghiên cứu này được sử dụng phần lớn ở Chương 1 và Chương 2 của luận văn. Giúp phân tích rõ, phản ánh rõ những vấn đề lý luận chung về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu; phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam, luận văn có sự so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại những vấn đề cốt lõi nhất của vấn đề này, rút ra những ưu điểm, hạn chế của pháp luật hiện nay và đề xuất quan điểm và các giải pháp hoàn thiện, tổ chức thực hiện pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu phù hợp với điều kiện Việt Nam hiện nay.

Phương pháp hệ thống hóa: Được sử dụng chủ yếu ở phần Mở đầu, Chương 1, Chương 2 và Chương 3 của luận văn. Thông qua việc đánh giá tình hình nghiên cứu về thực hiện việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu, đề tài hệ thống hóa lại những vấn đề lý luận chung về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu; khái quát thực trạng pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu. Qua đó, làm cơ sở cho các nội dung kiến nghị ở chương sau.

Ngoài ra, các phương pháp khác như thống kê, diễn giải,… cũng được sử dụng trong luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần vào việc cũng cố cơ sở lý luận về quá trình hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận văn góp phần giúp cơ quan hải quan và các cơ quan chức năng nghiên cứu hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung luận văn gồm 3 chương, như sau:

Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu.

Chương 2. Thực trạng pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu theo pháp luật Việt Nam tại Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam.

Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu từ thực tiễn Cục Hải quan tỉnh Quảng Nam.

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ

MIỄN, GIẢM, HOÀN THUẾ NHẬP KHẨU

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu.

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

Thuế là một khoản tiền nộp bắt buộc mà các tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế. Thuế không phải là một hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng xã hội do chính con người định ra và nó gắn liền với phạm trù Nhà nước và Pháp luật [30].

Như vậy, thuế là một khoản đóng góp bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ theo luật định cho Nhà nước với mức độ, thời hạn cụ thể để Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ.

Trong cấu trúc hệ thống thuế của mỗi quốc gia, thuế nhập khẩu là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách vĩ mô tổng hợp về kinh tế, tài chính và thương mại nó gắn liền với cơ chế quản lý nhập khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia. Thuế nhập khẩu có vai trò và ý nghĩa thiết thực, không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà quan trọng hơn, nó là công cụ hữu hiệu để Nhà nước kiểm soát hoạt động nhập khẩu hàng hóa, bảo hộ sản xuất trong nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của nhà nước trong từng thời kỳ.

Khái niệm về thuế nhập khẩu có thể được xem xét trên hai phương diện, đó là phương diện kinh tế và phương diện pháp lý.

Xét về phương diện kinh tế, quan niệm thuế nhập khẩu là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức và cá nhân vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật khi họ có hoạt động nhập khẩu hàng hóa qua biên giới một quốc gia.

Xét về phương diện pháp lý, thuế nhập khẩu có thể được xem như là quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước là người thu thuế với tổ chức, cá nhân là người nộp thuế về việc tạo lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật về thuế nhập khẩu.

Như vậy, thuế nhập khẩu là thuế đánh vào hàng hóa được phép nhập khẩu qua biên giới theo quy định của quốc gia có hàng hóa nhập khẩu.

* Có thể hiểu về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu như sau:

– Miễn thuế nhập khẩu:

Như trên đã trình bày mỗi quốc gia đều có chính sách pháp luật về thuế nhập khẩu để đảm bảo duy trì và thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình. Tuy nhiên, do thể chế chính trị, tình hình kinh tế xã hội mà mỗi quốc gia có những chính sách phù hợp trong đó có chính sách miễn thuế nhập khẩu.

Miễn thuế nhập khẩu là không áp dụng nghĩa vụ nộp thuế hàng hóa nhập khẩu đối với đối tượng nộp thuế do thỏa mãn các điều kiện được pháp luật quy định. Đối tượng được miễn thuế là các tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hóa có nghĩa vụ nộp thuế nhưng thỏa mãn các điều kiện được miễn thuế.

Nhà nước áp dụng chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu trong một số lĩnh vực, ngành nghề cần ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động nhập khẩu hàng hóa nhằm thu hút đầu tư, phát triển những ngành nghề đặc biệt quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đối với những địa bàn khó khăn và thực hiện chính sách đối ngoại…

– Giảm thuế nhập khẩu:

Việc thực hiện chính sách giảm thuế nhập khẩu là thể hiện việc nhà nước chia sẻ những rủi ro đối với các tổ chức, cá nhân có nhập khẩu hàng hóa nhưng bị tổn thất do bị hư hỏng, mất mát. Tuy nhiên, hàng hóa đó phải đang trong quá trình giám sát của cơ quan hải quan và phải được cơ quan có thẩm quyền giám định chứng nhận có sự hư hỏng, mất mát.

Số thuế nhập khẩu được giảm tương ứng với số lượng hàng hóa bị hư hỏng, mất mát.

– Hoàn thuế nhập khẩu:

Hoàn thuế nhập khẩu là Nhà nước (cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền) trả lại thuế cho đối tượng nộp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu đã nộp thuế nhưng sau đó có quyết định miễn giảm thuế cụ thể trong các trường hợp được pháp luật quy định.

Từ các khái niệm trình bày trên cho thấy đặc điểm về thuế nhập khẩu và về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu được thể hiện như sau:

Thuế nhập khẩu có những đặc điểm, đó là:

Thứ nhất, thuế nhập khẩu là loại thuế gián thu. Nhà nước sử dụng thuế thuế nhập khẩu để điều chỉnh hoạt động ngoại thương thông qua việc tác động vào cơ cấu giá cả của hàng hóa.

Thứ hai, thuế nhập khẩu là loại thuế gắn liền với hoạt động ngoại thương. Thuế nhập khẩu là một công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm kiểm soát hoạt động ngoại thương thông qua việc kê khai, tính thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu.

Thứ ba, thuế nhập khẩu chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố quốc tế như: sự biến động kinh tế thế giới, xu hướng thương mại quốc tế.

* Đặc điểm về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu:

Thứ nhất, thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, là loại thuế dễ thu nhất, ít bị phản ứng từ phía trong nước. Mục tiêu chung của các quốc gia là sử dụng thuế nhập khẩu để tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Như vậy, thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến giảm nguồn thu của ngân sách.

Thứ hai, thuế nhập khẩu cấu thành trong giá cả hàng hoá, làm tăng giá hàng hoá, do đó có tác dụng điều tiết xuất khẩu, nhập khẩu và hướng dẫn tiêu dùng; bởi vì lượng hàng hoá nhập khẩu phụ thuộc vào sức tiêu thụ hàng hoá, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả. Giá cả hàng hoá cao hay thấp sẽ quyết định việc giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hoá đó trên thị trường. Thông qua việc miễn thuế nhập khẩu giá cả hàng hóa sẽ giảm đối với những mặt hàng, lĩnh vực nhà nước khuyến khích nhập khẩu. Vì vậy, nhà nước điều tiết việc nhập khẩu hàng hoá.

Thứ ba, thuế nhập khẩu có tác dụng bảo hộ nền sản xuất trong nước. Việc miễn thuế đối với hàng hoá nhập khẩu là nguyên liệu, vật tư sản xuất sẽ giúp các nhà sản xuất trong nước có thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu. Ðặc biệt, việc miễn thuế nhập khẩu giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh các ngành còn non trẻ trong nước có thời gian trưởng thành và sinh lời để từ đó có thể cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.

Thứ tư, việc thực hiện chính sách giảm thuế là thể hiện việc nhà nước chia sẻ những rủi ro đối với các tổ chức, cá nhân có nhập khẩu hàng hóa nhưng bị tổn thất do bị hư hỏng, mất mát. Tuy nhiên, hàng hóa đó phải đang trong quá trình giám sát của cơ quan hải quan và phải được cơ quan có thẩm quyền giám định chứng nhận có sự hư hỏng, mất mát.

Việc giảm thuế có tính tương ứng với tỷ lệ tổn thất thực tế của hàng hóa, trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu bị hư hỏng, mất mát toàn bộ thì cá nhân, tổ chức không phải nộp thuế.

Việc hoàn thuế thể hiện chính sách và nguyên tắc pháp luật của thuế, đó là: “Thu đúng, thu đủ; bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế”. Vì vậy, khi tổ chức, cá nhân đã nộp thuế nhập khẩu nhưng có lý do theo quy định của pháp luật thì họ không phải thực hiện nghĩa vụ số thuế đó đối với nhà nước nên họ được hoàn lại số tiền thuế đã nộp. Như vậy, đảm bảo đáp ứng quyền lợi đối với tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, hoàn thuế cũng có giới hạn nhất định. Đó là, trường hợp hàng hóa đã hết giá trị sử dụng hoặc có mức hoàn tối thiểu theo quy định thì không được hoàn lại thuế nhập khẩu đã nộp.

1.1.2. Vai trò của miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

Với đặc điểm, chức năng của mình, thuế nhập khâu có 03 vai trò đó là:

Thuế nhập khẩu tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thuế nhập khẩu không chỉ tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà nó còn có tác động đến số lượng và cơ cấu các nguồn thu của các sắc thuế khác có liên quan, có ảnh hưởng trực tiếp đến số thu ngân sách đối với những hình thức thuế gắn với hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế chống bán phá giá, thuế tự vệ, thuế thu nhập doanh nghiệp…

Thuế nhập khẩu điều tiết hoạt động kinh tế. Thuế nhập khẩu là công cụ điều tiết hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà nước đối với nền kinh tế. Thông qua thuế nhập khẩu Nhà nước điều chỉnh quá trình phân bổ lại các nguồn lực của nền kinh tế. Thuế nhập khẩu có tác động trực tiếp đến giá cả hàng hóa trong thương mại quốc tế, từ đó điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường. Vì vậy, tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực trong các ngành sản xuất.

Thuế nhập khẩu là công cụ hỗ trợ và bảo vệ nền sản xuất trong nước. Thông qua thuế nhập khẩu Nhà nước gián tiếp tác động vào việc điều tiết sản xuất trong nước. Việc đánh thuế nhập khẩu ở các mức khác nhau của từng loại hàng hóa nhập khẩu, từ đó điều chỉnh khả năng cạnh tranh của hàng hóa chịu thuế trên thị trường và từ đó tạo ra sự phân bổ lại nguồn lực cho các ngành sản xuất.

Việc thực hiện miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu có liên quan trực tiếp đến thuế nhập khẩu. Vì vậy, xét trong yếu tố liên quan với thuế nhập khẩu thì miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu cơ bản mang bản chất của vai trò thuế nhập khẩu, đó là:

Miễn thuế nhập khẩu là công cụ để nhà nước thực hiện chính sách phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại đối với các nước, góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngọai giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Thông qua việc miễn thuế nhập khẩu nhà nước thực hiện chính sách khuyến khích những lĩnh vực, hàng hóa ưu tiên nhập khẩu, góp phần bảo hộ sản xuất trong nước và thu hút đầu tư.

Đối với giảm thuế nhập khẩu. Đối tượng của thuế nhập khẩu là hàng hóa thực tế được phép nhập khẩu qua biên giới. Tuy nhiên, thực tế trong quá trình ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, việc vận chuyển hàng hóa, xếp dỡ và lưu kho hàng hóa hoặc do trường hợp bất khả kháng. Vì vậy, hàng hóa sẽ có những tổn thất, hư hỏng, mất mát. Trong trường hợp đảm bảo các điều kiện theo quy định của pháp luật thì sẽ được giảm số thuế tương ứng với sự tổn thất, mất mát đó. Như vậy, việc giảm thuế nhập khẩu có vai trò là thu thuế đúng trên thực tế hàng hóa nhập khẩu, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho đối tượng nộp thuế.

Đối với hoàn thuế nhập khẩu. Đối tượng nộp thuế có nghĩa vụ nộp số thuế nhập khẩu khi có hàng hóa nhập khẩu theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, có trường hợp sau khi đã thực hiện nộp thuế thì có quyết định miễn, giảm thuế nhập khẩu của cơ quan có thẩm quyền hoặc trường hợp nộp thừa tiền thuế thì việc hoàn trả số thuế nhập khẩu thể hiện vai trò thực hiện thu đúng, thu đủ, bình đẳng và đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi của người nộp thuế và chính sách thuế của nhà nước.

1.2. Khái niệm và vai trò của pháp luật đối với việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

1.2.1. Khái niệm pháp luật đối với việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

Mối quan hệ trong việc thu, nộp thuế nhập khẩu giữa Nhà nước và tổ chức, cá nhân có hàng hóa được phép nhập khẩu qua biên giới được thực hiện trên những căn cứ pháp lý nhất định, đó chính là pháp luật thuế nhập khẩu.

Pháp luật thuế nhập khẩu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thu, nộp thuế nhập khẩu giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn thu ngân sách Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước của Nhà nước.

Việc đưa ra khái niệm pháp luật thuế nhằm phân định ranh giới giữa các nhóm quan hệ, qua đó lựa chọn áp dụng các quy phạm pháp luật phù hợp, đạt được hiệu quả điều chỉnh cao của pháp luật.

Ta thấy, sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển dẫn đến việc quan hệ mua bán trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia ngày càng gia tăng. Mỗi quốc gia độc lập có chủ quyền đều sử dụng một loại thuế thu vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới nước mình. Thuế này được gọi chung là thuế quan (Customs duty) bao gồm thuế xuất khẩu đối với hàng hóa xuất khẩu và thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu qua biên giới quốc gia.

Trong điều kiện nền kinh tế thế giới phát triển theo xu hướng quốc tế hóa thì pháp luật của các nước về thuế quan ngày càng có xu thế hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên phạm vi toàn thế giới.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Pháp luật thuế đối với việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thực hiện việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và đối tượng đủ điều kiện được miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu theo quy định pháp luật nhằm thực hiện chính sách Nhà nước để thực hiện các mục tiêu xác định trước của Nhà nước[30].

Nhìn lại quá trình lịch sử có thể thấy rằng Nhà nước ta ban hành thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu từ năm 1951. Mục tiêu của thời điểm này là Nhà nước sử dụng thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu làm công cụ để thực hiện chức năng quản lý việc xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát triển kinh tế ở vùng tự do, xúc tiến việc giao lưu các loại hàng hoá là nhu yếu phẩm cần thiết cho quân đội và nhân dân. Vì vậy, phương châm đấu tranh kinh tế với địch là đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết cho kháng chiến, sản xuất và đời sống của nhân dân. Từ đó, nhà nước thực hiện miễn thuế xuất khẩu cho tất cả các loại hàng hoá của vùng tự do. Đồng thời, hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu có mức tương đối cao là từ 30% trở lên.

Ngày 29/12/1987, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu hàng mậu dịch số 05-HĐNN8, có hiệu lực từ ngày 01/02/1998. Luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch. Vì vậy, có sự phân biệt trong việc áp dụng chính sách, chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch. Biểu thuế kèm theo Luật chỉ có khoản 131 nhóm mặt hàng chịu thuế, được phân thành thuế suất phổ thông và thuế suất tối thiểu với mức thế suất cao nhất là 60% và thấp nhất là 0%. Trong đó, quy định về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu còn mang tính đơn giản. Về miễn thuế chỉ có số ít hàng hóa trong 05 nhóm hàng; về giảm thuế có quy định: “được giảm thuế đối với hàng hóa do chuyên chở, bốc xếp bị hư hỏng hoặc bị mất mát mà có lý do xác đáng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chứng nhận”; về hoàn thuế nhập khẩu chỉ quy định 01 trường hợp là: “hàng nhập khẩu đã nộp thuế mà còn lưu kho, lưu bãi ở cửa khẩu nhưng được phép tái xuất”.

Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 64-LTC/HĐNN8 được Quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 và có hiệu lực từ ngày 01/3/1992 thay thế Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch ngày 29/12/1987, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu tại các Luật số 17-L/CTN ngày 05/7/1993 và Luật số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998. Luật này có phạm vi điều chỉnh rộng hơn, bổ sung những nội dung liên quan đến quá trình đổi mới và hội nhập so với Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng hoá mậu dịch ban hành năm 1987. Theo đó, Nhà nước thu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu không phân biệt tính chất hàng hoá là xuất khẩu, nhập khẩu mậu dịch hay phi mậu dịch. Trong đó, việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu được sửa đổi, bổ sung thêm, đó là chuyển một số đối tượng miễn thuế sang đối tượng không chịu thuế để đúng với bản chất của hàng hóa đó, như là hàng vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua biên giới Việt Nam, hàng viện trợ nhân đạo; bổ sung thêm các đối tượng miễn thuế đó là, hàng viện trợ không hoàn lại, hàng là tài sản di chuyển, hàng của công dân Việt Nam đi hợp tác lao động, hợp tác chuyên gia, công tác và học tập ở nước ngoài nhưng mang theo hoặc gửi về nước trong mức quy định, hàng của tổ chức cá nhân nước ngoài được hưởng tiêu chuẩn miễn, trừ.

Ngày 14/6/2005, Quốc hội thông qua Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 thay thế Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 05-HĐNN8 và các Luật sửa đổi bổ sung số 17-L/CTN ngày 05/7/1993, Luật số 04/1998/QH10 ngày 20/5/1998. Trong đó, việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu được sửa đổi, bổ sung nhiều hơn và cụ thể hơn. Theo đó, hàng miễn thuế nhập khẩu được quy định với 10 nhóm hàng và trong mỗi nhóm hàng thì có rất nhiều hàng hóa được miễn thuế. Ngoài ra, Luật còn quy định các trường hợp cụ thể khác do Thủ tướng Chính phủ quy định; về hàng hóa giảm thuế nhập khẩu không thay đổi so với luật trước đây nhưng có quy định cụ thể thẩm quyền được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám định chứng nhận thì được xét giảm thuế; hàng hóa được hoàn thuế nhập khẩu cũng được mở rộng, có đến 08 nhóm hàng được hoàn thuế, ngoài ra còn bổ sung thêm trong trường hợp có sự nhầm lẫn trong kê khai, tính thuế thì được hoàn trả số tiền thuế nộp thừa nếu sự nhầm lẫn đó xảy ra trong thời hạn ba trăm sáu mươi lăm ngày trở về trước, kể từ khi kiểm tra phát hiện có sự nhầm lẫn.

Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành số 107/2016/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 06/4/2016 có hiệu lực kể từ ngày 01/9/2016 thay thế Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 01/9/2016 với nhiều điểm mới, sửa đổi theo hướng tiến bộ, đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển sẽ mang lại những hiệu ứng tích cực, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trong đó, luật đã bổ sung, quy định nhiều trường hợp miễn thuế nhập khẩu có đến 23 nhóm hàng hóa được miễn thuế và Luật giao Chính phủ quy định chi tiết các trường hợp miễn thuế theo luật định; về giảm thuế nhập khẩu thì hàng hóa giảm thuế vẫn tương tự như luật trước đây. Tuy nhiên, có bổ sung thêm trường hợp hàng hóa nhập khẩu nếu bị hư hỏng, mất mát toàn bộ thì không phải nộp thuế; về hoàn thuế nhập khẩu đối tượng hoàn thuế cũng tương tự như luật trước đây nhưng có sự sắp xếp lại hợp lý và quy định cụ thể hơn, đồng thời quy định thêm trường hợp số tiền thuế được hoàn dưới mức tối thiểu theo quy định của Chính phủ thì không được hoàn thuế. Riêng trường hợp hoàn thuế do nộp nhầm tiền thuế không được quy định về hoàn thuế mà số tiền thuế này sẽ được thực hiện theo thủ tục xử lý tiền thuế nộp thừa theo quy định của Luật Quản lý thuế 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế 2012.

Như vậy, từ những vấn đề phân tích trên ta thấy hệ thống pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu trong đó có việc quy định về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu ngày càng được hoàn thiện hơn trên cơ sở hệ thống hóa các quy định về miễn thuế, giảm thuế và hoàn thuế nhập khẩu theo nguyên tắc chọn những quy định về miễn thuế ở mức cao nhất để áp dụng chung, đồng thời bãi bỏ những quy định không khả thi, khó có căn cứ để thực hiện trên thực tế, quy định về hoàn thuế nhập khẩu cũng được bao quát hơn về đối tượng hoàn thuế, đồng thời quy định cụ thể về thủ tục miễn thuế, giảm thuế, hoàn thuế nhập khẩu thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày càng có nhiều điểm mới đáp ứng được yêu cầu phát triển, hội nhập. Đồng thời, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính về thuế, tạo thuận lợi, hỗ trợ doanh nghiệp giảm giá thành sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh; đảm bảo cơ sở pháp lý để thực hiện các cam kết trong các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam đã và đang ký kết, nhất là các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu hiện hành ở nước ta được điều chỉnh bởi Luật Quản lý thuế 2006, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế 2012; Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu năm 2016; Các nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành những văn bản pháp luật nêu trên và các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế; Các Thông tư của Bộ Tài chính…

Ðối tượng điều chỉnh của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là quan hệ thu nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu giữa nhà nước với các tổ chức và cá nhân có hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, kể cả hàng hoá từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất và từ khu chế xuất đưa ra thị trường trong nước.

Theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với hàng hoá mậu dịch mang tính chất gián thu. Còn đối với các loại hàng hoá khác thì tùy theo từng trường hợp mà thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có tính chất gián thu hoặc tính chất trực thu.

1.2.2. Vai trò của pháp luật đối với việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

Miễn thuế nhập khẩu là việc nhà nước áp dụng chính sách miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu trong một số lĩnh vực, ngành nghề cần ưu đãi đối với các tổ chức, cá nhân có hoạt động nhập khẩu hàng hóa nhằm thu hút đầu tư, phát triển những ngành nghề đặc biệt quan trọng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội đối với những địa bàn khó khăn và thực hiện chính sách đối ngoại của Nhà nước…

Trong điều kiện cạnh tranh của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường tất yếu dẫn đến tình trạng suy thoái về tài chính ở một số doanh nghiệp. Đối với những ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cần khuyến khích, ngoài các quy định chung, pháp luật thuế nhập khẩu còn có các quy định ưu đãi, miễn, giảm thuế, hoàn thuế nhằm khắc phục sự suy thoái về tài chính, tạo sự ổn định và phát triển của các doanh nghiệp.

Thuế nhập khẩu là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chính sách kinh tế của mình, quản lý các hoạt động nhập khẩu; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Vì vậy, thực miễn thuế nhập khẩu là việc nhà nước sử dụng mục tiêu phù hợp trong quản lý nhà nước về hoạt động nhập khẩu và mối quan hệ đối xử trong kinh tế đối ngoại.

Việc hoàn thuế thể hiện chính sách và nguyên tắc pháp luật của thuế đó là: “Thu đúng, thu đủ; bảo đảm công khai, minh bạch, bình đẳng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế”. Vì vậy, đảm bảo đáp ứng quyền lợi đối với tổ chức, cá nhân.

Thông qua pháp luật, Nhà nước có khả năng quản lý, điều tiết mọi mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Với hệ thống pháp luật thuế, Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội.

Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách nhà nước, pháp luật thuế nhập khẩu còn có vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Thông qua việc ban hành và thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu trong đó có việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu, Nhà nước thể chế hóa và thực hiện chính sách điều tiết đối với nền kinh tế, điều tiết thu nhập và tiêu dùng xã hội.

Điều tiết đối với nền kinh tế là yêu cầu khách quan, thường xuyên của Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua các quy định pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu, Nhà nước chủ động phát huy vai trò điều tiết đối với nền kinh tế. Vai trò này được thể hiện ở chỗ nó là công cụ tác động đến tư duy đầu tư, hành vi đầu tư của các chủ thể kinh doanh, hành vi tiêu dùng của các thành viên trong xã hội.. Dựa vào công cụ này nhà nước có thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc đầu tư, tiêu dùng.

Để thực hiện chính sách bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước Nhà nước có các quy định khuyến khích hoặc hạn chế việc nhập khẩu, thông qua việc miễn thuế nhập khẩu thì giá cả hàng hóa nhập khẩu sẽ giảm vì thuế nhập khẩu cấu thành trong giá hàng hóa nhập khẩu. Vì vậy, có tác động khuyến khích nhập khẩu.

Pháp luật thuế về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu là công cụ góp phần bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế và công bằng xã hội. Pháp luật thuế về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu được áp dụng thống nhất chung cho các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân nhằm đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi tổ chức và cá nhân.

Pháp luật thuế về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu là công cụ để kiểm tra gián tiếp hoạt động kinh doanh nhập khẩu của tổ chức, cá nhân. Để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ nộp thuế cơ quan quản lý thuế cùng với đối tượng được miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu buộc phải quan tâm và tuân thủ những quy định của pháp luật trong việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu… Điều đó, cũng có nghĩa rằng việc quy định những nội dung liên quan đến trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện các quy định về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu, Nhà nước gián tiếp quản lý nền kinh tế trên cơ sở hệ thống pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung phù hợp với định hướng từng giai đoạn ở tầm vĩ mô cũng như tìm biện pháp hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng nộp thuế ở tầm vi mô. Mặt khác, thông qua việc kiểm tra việc tuân thủ pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có khả năng phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật thuế nhập khẩu và vi phạm trong quá trình hoạt động gắn với tư cách của tổ chức, cá nhân nhằm đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế.

Pháp luật thuế về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu nhằm giảm bớt những cản trở và hạn chế do các khoản thuế nhập khẩu gây ra đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng.

1.3. Cơ cấu pháp luật đối với việc miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

1.3.1. Nguyên tắc thực hiện miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

Việc thực hiện miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu là thực hiện chính sách ưu đãi và đảm bảo chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Vì vậy, cần phải đảm bảo các nguyên tắc sau:

Đảm bảo thực hiện đúng quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế – xã hội và đường lối, chính sách đối ngoại. Vì vậy, phải đảm bảo theo đúng lý luận, quan điểm, đã được nghiên cứu, tổng kết và đã đề ra chủ trương, đường lối thì mới đảm bảo tính khoa học và khách quan.

Đảm bảo tuân thủ theo đúng quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Việc thực hiện về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu phải theo đúng đối tượng và trình tự thủ tục theo luật định.

Bảo đảm tính công khai, minh bạch, bình đẳng, không phân biệt đối xử; bảo đảm quyền và nghĩa vu, lợi ích hợp pháp của người nộp thuế, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan quản lý thuế.

Đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của đất nước, bảo hộ sản xuất trong nước. Đồng thời, đáp ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết và tham gia.

1.3.2. Nội dung pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu

Nội dung pháp luật về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu là những yếu tố pháp lý về chủ thể tham gia, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật, căn cứ được miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu và thủ tục về miễn, giảm, hoàn thuế nhập khẩu.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\VIEN HAN LAM DOT 9\LUẠT KINH TE\VO SI QUANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *