Luận văn Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững

Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng

Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng

1. Tính cấp thiết của đề tài

Giảm nghèo là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, là một trong những mục tiêu nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền và các nhóm dân cư. Đó là mục đích, yêu cầu, động lực của phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an sinh, công bằng xã hội. Vì vậy, XĐGN toàn diện, bền vững luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước. Nhiều nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giảm nghèo đã được ban hành và thực thi trong thời gian vừa qua. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam trong thời gian qua rất tích cực, được nhân dân, Liên hợp quốc cũng như dư luận quốc tế đánh giá cao. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề đang được quan tâm như: Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng kết quả giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao; việc đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều; cơ hội việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi mới công nghệ trong sản xuất, yêu cầu trình độ của người lao động ngày càng cao… Thực tế đó đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục có những chủ trương, chính sách, giải pháp hữu hiệu hơn để công tác giảm nghèo mang tính bền vững và đạt những thành tựu lớn hơn.

TP.Đà Nẵng chính thức trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương vào ngày 01 tháng 01 năm 1997. Khi Đà Nẵng trở thành đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương, thành phố có diện tích tự nhiên 1.285,4km2, dân số 672.468 người, thu nhập bình quân trên đầu người/năm khoảng 318 USD, tổng thu ngân sách đạt 1.190,5 tỷ đồng, thì đến nay, dân số thành phố đạt khoảng 926.000 người, tăng khoảng 1,4 lần; thu thập bình quân đầu người/năm khoảng 2.283 USD, tăng 7,2 lần so với năm 1997, tổng thu ngân sách địa phương đạt 17.004 tỷ đồng, gấp 14,3 lần năm 1997. Về đơn vị hành chính, TP.Đà Nẵng có 06 quận: Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Liên Chiểu, Cẩm Lệ; hai huyện: Hòa Vang và Hoàng Sa. Những năm qua, chương trình mục tiêu giảm nghèo trên địa bàn thành phố được triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, đã tạo tiền đề để hộ nghèo cải thiện chất lượng cuộc sống, vươn lên thoát nghèo. Riêng năm 2014, tỷ lệ giảm nghèo đạt 138,19% hộ nghèo theo chuẩn của thành phố là 800.000đ/người/tháng (Đối với thành thị) và 600.000đ/người/tháng (Đối nông thôn). Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo trên địa bàn TP.Đà Nẵng trong những năm qua chưa thực sự vững chắc, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng không ổn định, tình trạng phát sinh hộ nghèo còn diễn ra hàng năm; đời sống của một bộ phận nhân vẫn đang rất khó khăn; thêm vào đó tình trạng đô thị hóa đang diễn ra hết sức mạnh mẽ dẫn đến số lượng dân nhập cư đến TP.Đà Nẵng ngày càng nhiều, điều này đã góp phần làm tăng khoảng cách thu nhập giữa các nhóm dân cư và hầu như thành phần dân nhập cư dễ có nguy cơ bị nghèo hơn so với dân địa phương; chuẩn nghèo của thành phố luôn được tăng lên cho phù hợp với chuẩn nghèo của cả nước cũng như tình hình vật giá, lạm phát và tình hình kinh tế – xã hội của thành phố, vì vậy số lượng hộ nghèo luôn duy trì ở trong một giai đoạn nhất định. Đến đầu năm 2015, toàn TP.Đà Nẵng có 6.946 hộ nghèo/242.230 hộ dân chiếm tỷ lệ 2,87% (Theo chuẩn nghèo của TP.Đà Nẵng là 800.000đ/người/tháng đối với khu vực thành thị và 600.000đ/người/tháng đối với nông thôn). Đây là thách thức lớn đối với Đảng bộ và chính quyền thành phố trong việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian tới.

Từ những vấn đề về giảm nghèo đang được quan tâm như trên, tôi chọn nghiên cứu đề tài “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng” làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp – Luật Hành chính. Với mong muốn là đề tài này sẽ góp phần nâng cao nhận thức trong các cấp, các ngành, các địa phương về phương pháp tiếp cận các lý luận về chính sách, về chủ trương giảm nghèo bền vững ở Việt Nam; đồng thời qua nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện các chính sách giảm nghèo từ thực tiễn TP.Đà Nẵng sẽ rút ra được những thành tựu, những mặt hạn chế, những bất cập từ chính sách giảm nghèo đang thực thi ở TP.Đà Nẵng hiện nay. Từ đó có thể đưa ra giải pháp, chính sách, chủ trương nhằm hoàn thiện vai trò quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trong thời gian đến, góp phần đem lại hiệu quả thiết thực trong công tác giảm nghèo bền vững ở TP.Đà Nẵng và sẽ góp thêm kinh nghiệm về giảm nghèo bền vững cho các địa phương khác trên cả nước.

2. Tình hình nghiên của cứu đề tài

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Nhằm vận dụng lý luận công tác giảm nghèo bền vững ở Việt Nam và một số nước trên thế giới để áp dụng giữa lý luận và thực tiễn thực hiện công tác giảm nghèo bền vững ở TP.Đà Nẵng, tìm ra những bất cập của quá trình quản lý của nhà nước về giảm nghèo bền vững hiện nay. Từ đó, để tìm ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở TP.Đà Nẵng nói riêng và hướng đến mục tiêu giảm nghèo bền vững của nước ta trong những năm tiếp theo.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận trong công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo và giảm nghèo bền vững ở Việt Nam.

Thứ hai, nghiên cứu thực trạng thực hiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo từ thực tiễn tại TP.Đà Nẵng.

Thứ ba, trên cơ sở đánh giá kết quả thực hiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại TP.Đà Nẵng hiện nay, đề ra quan điểm, định hướng, các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Các quan điểm, chính sách và các quy định hiện hành về giảm nghèo bền vững của Nhà nước ta hiện nay đang được thực thi trên địa bàn TP.Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Tại TP.Đà Nẵng, nghiên cứu tình hình thực hiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2009 – 2012 và hai năm đầu của giai đoạn 2013 – 2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Bằng việc thu cấp số liệu từ sách, báo, mạng Internet…để vận dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để thu thập, phân tích. Đồng thời khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương. Kết hợp cùng với các phương pháp thống kê, khái quát thực tiễn, phương pháp phân tích định tính, suy luận logic, diễn giải trong quá trình phân tích, đánh giá chính sách. Từ đó rút đề xuất các quan điểm, định hướng, các giải pháp hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trong thời gian tới.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

– Đây là đề tài có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu, bổ sung kiến thức lý thuyết về công tác giảm nghèo bền vững ở TP.Đà Nẵng; đồng thời biết vận dụng các chủ trương, chính sách và đánh giá quá trình quản lý nhà nước trên lĩnh vực thực hiện công tác giảm nghèo bền vững ở địa phương.

– Kết quả nghiên cứu đề tài minh chứng cho việc vận dụng các lý thuyết phân tích, đánh giá công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững là cần thiết trong quá trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững, từ đó góp phần hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở TP.Đà Nẵng nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của chính sách giảm nghèo bền vững đã ban hành.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

– Kết quả nghiên cứu của đề tài, trước hết là góp phần nâng cao nhận thức đối với các đồng chí lãnh đạo chính quyền, các hội đoàn thể các cấp từ thành phố đến các quận huyện, xã phường để hiểu rõ hơn về lý luận trong quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở Việt Nam, xem xét giữa lý luận và thực tiễn từ kết quả thực hiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại TP.Đà Nẵng, từ đó định hướng góp phần hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững, nâng cao hiệu quả chất lượng của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.

– Kết quả nghiên cứu khi đưa ra giải pháp của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững phù hợp hơn, việc thực hiện các giải pháp giảm nghèo bền vững đem lại hiệu quả thiết thực, giúp người nghèo có khả năng tiếp cận các chính sách giảm nghèo bền vững và tham gia cùng với Nhà nước để đưa các giải pháp giảm nghèo vào trong thực tiễn ngày càng đem lại hiệu quả, nhằm thực hiện đạt được mục tiêu giảm nghèo bền vững cấp ủy Đảng, chính quyền đã đề ra, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày theo 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.

Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại TP.Đà Nẵng trong thời gian qua.

Chương 3: Hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng trong thời gian tới.

Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG

    1. 1.1. Khái niệm về giảm nghèo bền vững và quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
      1. 1.1.1. Khái niệm về giảm nghèo bền vững

– Quan niệm trên thế giới

Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về cấp độ và số lượng. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của các quốc gia khác. Bởi vậy để nhìn nhận và đánh giá đúng về giảm nghèo bền vững của một quốc gia, một vùng cũng như nhận dạng được hộ nghèo, đòi hỏi phải có sự thống nhất về khái niệm và các tiêu chí để đánh giá nghèo và giảm nghèo bền vững tại từng thời điểm.

Phải khẳng định một điều rằng hiện nay chưa có định nghĩa duy nhất về giảm nghèo bền vững và chưa có một sự thống nhất tuyệt đối trong quan niệm về nghèo. Bởi vì, quá trình nhận thức về nghèo và giảm nghèo bền vững của con người ngày càng đa dạng và phong phú, không những thế, bản thân của người nghèo cũng thay đổi rất nhanh chóng trong suốt các thập kỷ qua. Mỗi một quan niệm đưa ra đều dựa trên những nguyên tắc và cách tiếp cận riêng về nghèo đói, song nhìn chung có thể chú ý vào một số quan niệm chủ yếu sau:

– Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) – Ông AbapiSen, người được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1998 cho rằng: “Nghèo đói là sự thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng”.

– Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra quan điểm: Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất. Nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập mà còn bao gồm các vấn đề liên quan đến năng lực như dinh dưỡng, sức khỏe, giáo dục, khả năng dễ bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có quyền lực.

– Theo Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993, “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Đây có thể coi là định nghĩa chung nhất về nghèo, có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện những nét chính phổ biến về nghèo.

Từ những quan niệm nói trên có thể thấy rõ đói nghèo gồm những khía cạnh cơ bản như sau:

– Đầu tiên và trên hết là sự khốn cùng về vật chất, được đo lường theo một tiêu chí thích hợp về thu nhập hoặc tiêu dùng.

– Đi kèm với sự khốn cùng về vật chất là sự hưởng thụ thiếu thốn về giáo dục và y tế.

– Nguy cơ dễ bị tổn thương và dễ gặp rủi ro, tức là khả năng một hộ gia đình hay cá nhân bị rơi vào cảnh đói nghèo về thu nhập hay sức khỏe.

– Cuối cùng là tình trạng không có tiếng nói, không được tham gia và không có quyền lực của người nghèo.

Đối với Việt Nam, quan niệm thông thường thì nghèo đói dùng để chỉ cả tình trạng nghèo và tình trạng đói. Nhưng thực ra vấn đề nghèo và đói là hai vấn đề khác nhau: đói được hiểu là tình trạng không đủ nhu cầu về ăn; còn nghèo là nói đến tình trạng khó khăn chung về việc không còn có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản, song chủ yếu là các nhu cầu về phi lương thực phẩm như nhà ở, ăn mặc, y tế, giáo dục, văn hóa, đi lại và giao tiếp xã hội.

Theo tác giả luận văn, đây là định nghĩa chung nhất về đói nghèo vì vậy khái niệm nghèo trong luận văn này được hiểu là: “Tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của địa phương”.

Ở Việt Nam, để xây dựng các chủ trương, giải pháp về xóa đói giảm nghèo và giảm nghèo bền vững, trước tiên phải đánh giá được các nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, đó là:

– Nhóm các nguyên nhân khách quan:

Đầu tiên, phải kể đến là do xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta. Là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại phải trải qua hơn 30 năm chiến tranh, bị tàn phá nặng nề, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nguồn lực của nhà nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương cũng như việc đảm bảo đầy đủ các nguồn lực để hỗ trợ người nghèo. Điều này dẫn đến một số vùng, tỉnh, huyện, xã nghèo không tự tạo ra được những điều kiện cũng như phát huy tiềm năng của mình để phát triển, do đó làm cho người dân ở địa bàn cũng phải gánh chịu những khó khăn đó và không thể tự thoát ra khỏi tình trạng đói nghèo.

Thứ hai, người nghèo ở nước ta bị hạn chế về nguồn lực và các yếu tố của sản xuất, nguồn vốn nhân lực bị hạn chế cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng là một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới… Thiếu đất sản xuất ảnh hưởng đến phát triển nông nghiệp và bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hóa sản xuất các loại cây trồng, vật nuôi với giá trị cao hơn.

Thứ ba, người nghèo còn bị hạn chế trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, chưa được bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp.

Thứ tư, người nghèo dễ bị tổn thương khi phải chịu ảnh hưởng của thiên tai, bão lũ và các rủi ro khác. Các hộ gia đình nghèo rất dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng. Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1 dến 1,2 triệu người. Số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo là cao và rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, mất việc làm, ốm đau…Do đó, việc tìm kiếm các giải pháp làm giảm nhẹ các yếu tố rủi ro này được coi là một phần quan trọng của quá trình xóa đói giảm nghèo.

– Nhóm các nguyên nhân chủ quan:

Đầu tiên, phải kể đến nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân người nghèo. Đó là nhận thức của người nghèo về vấn đề nghèo đói còn hạn chế, bản thân nhiều người nghèo ở nước ta không thể tự mình lý giải được nguyên nhân nghèo khó của mình hoặc không thừa nhận những nguyên nhân do bản thân họ gây ra như: đông con, lười biến…mà họ “đổ vạ” cho số phận hay cơ chế…

Thứ hai, người nghèo thường có trình độ học vấn thấp, không có nghề, ít có cơ hội tìm được việc làm tốt, ổn định. Do vậy, mức thu nhập của họ thấp và hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy không có điều kiện để nâng cao trình độ cũng như có tiền để đi học nghề hay trang bị hoặc nâng cao kiến thức của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, trình độ học vấn thấp và không có nghề sẽ ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai – nghèo dai dẳng từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Thứ ba, tập quán, thói quen canh tác, sản xuất của người nghèo ở nhiều vùng còn rất lạc hậu, được truyền từ đời này sang đời khác nên rất khó thay đổi. Tập quán canh tác lạc hậu cùng với tư tưởng bảo thủ, cổ hủ, không chịu tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn mới…cũng là một trong những nguyên nhân khiến người nghèo, đồng bào dân tộc không thể vươn lên trong phát triển sản xuất, kinh doanh.

Thứ tư, do quy mô hộ gia đình ở nông thôn, đây là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ nghèo. Đông con vừa là nguyên nhân vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh con trong các gia đình nghèo còn rất cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng về vệ sinh, an toàn tình dục cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khỏe sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Tỷ lệ người ăn theo cao trong các hộ nghèo còn có ý nghĩa là nguồn lực về lao động thiếu, đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngèo đói của họ.

Thứ năm, do tình trạng bất bình đẳng giới còn tồn tại dai dẳng, làm sâu sắc hơn tình trạng nghèo đói trên tất cả các mặt. Ngoài những bất công mà cá nhân phụ nữ và trẻ em gái chịu dựng do bất bình đẳng thì còn có những tác động bất lợi đối với gia đình. Phụ nữ ít có cơ hội tiếp cận với công nghệ, tín dụng và đào tạo, thường gặp nhiều khó khăn do gánh nặng công việc gia đình, thiếu quyền quyết định trong hộ gia đình và thường bị trả công lao động thấp hơn nam giới ở cùng một loại công việc…

Từ những khái niệm và những nhận dạng về xóa đói giảm nghèo nêu trên để dưa ra các khái niệm khác nhau về giảm nghèo bền vững, tuỳ thuộc vào cách tiếp cận, thời gian nghiên cứu và sự phát triển kinh tế của một quốc gia mà có những khái niệm khác nhau về giảm nghèo bền vững.

– Quan niệm giảm nghèo bền vững của Việt Nam

Căn cứ trên thực tế về trình độ phát triển kinh tế – xã hội của nước ta và hiện trạng đời sống trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có thể đánh giá giảm nghèo bền vững theo 4 tiêu chí chính: thu nhập; tư liệu sản xuất; vốn liếng để dành; nhà ở và tiện nghi sinh hoạt. Song, ở nước ta, do nền văn hoá và bản sắc dân tộc Việt Nam, nên quan niệm về giảm nghèo bền vững không chỉ đơn thuần đề cập đến vấn đề thu nhập vật chất mà còn liên quan đến khía cạnh bản sắc văn hoá, đạo đức, nhân văn…

Trong các tiêu chí về nhu cầu thiết yếu của con người như thu nhập, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu gia đình, hưởng thụ văn hoá,…thì tiêu chí thu nhập về kinh tế là đáng chú ý hơn cả. Ở nước ta chỉ tiêu đánh giá hộ giảm nghèo bền vững có thể dựa trên chỉ tiêu chính là thu nhập bình quân nhân khẩu một tháng (hoặc năm) được đo lường bằng chỉ tiêu giá trị qui đổi hoặc hiện vật qui đổi. Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý và được tính trong thời gian là một năm. Đối với hộ dân cư, thu nhập được tính bằng cách lấy doanh thu trừ đi chi phí bỏ ra. Chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu/tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo. Ngoài ra, còn căn cứ vào chỉ tiêu phụ là dinh dưỡng bữa ăn, mặc, nhà ở và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại…

Trong điều kiện giá cả không ổn định như ở nước ta hiện nay cần phải sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến là qui ra gạo để xác định giảm nghèo bền vững. Việc sử dụng hình thức hiện vật qui ước này có tác dụng loại bỏ được yếu tố giá cả, từ đó có thể so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian dễ dàng, thuận tiện. Đặc biệt đối với người nghèo nói chung và những hộ đã thoát nghèo nói riêng, chỉ tiêu số lượng kg gạo bình quân đầu người/tháng rất có ý nghĩa thực tế.

Tóm lại, giảm nghèo bền vững là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Muốn giảm nghèo bền vững phải có nguồn gốc căn nguyên từ kinh tế nhưng với tư cách là hiện tượng tồn tại phổ biến ở các quốc gia trong tiến trình phát triển, giảm nghèo bền vững thực chất là hiện tượng kinh tế – xã hội phức tạp, chứ không đơn thuần chỉ là vấn đề kinh tế, cho dù các yếu tố đánh giá của nó trước hết và chủ yếu dựa trên các tiêu chí về kinh tế. Đặc điểm này có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận lẫn thực tiễn, là cơ sở quan trọng trong quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở nước ta. Như vậy, giảm nghèo bền vững là tất cả mọi người đề được hưởng thụ những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu; có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư; có cơ hội lựa chọn và tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.

      1. 1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững

Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững là tổng hợp các văn bản, quyết định của nhà nước nhằm đưa ra các giải pháp, công cụ để giải quyết các vấn đề về cải thiện đời sống vật chất và tinh thần đối với người nghèo, góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng, các dân tộc và các nhóm dân cư, thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững của đất nước.

Theo PGS.TS Trần Đình Thiên – Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam: “Không thể giúp người nghèo bằng cách tặng nhà, tặng phương tiện sống… Đây là cách giảm nghèo, xóa nghèo nhanh nhưng chỉ tức thời, không bền vững. Muốn giảm nghèo, xóa nghèo bền vững thì Nhà nước, cơ quan chức năng cần phải cấp cho người nghèo một phương thức phát triển mới mà tự họ không thể tiếp cận và duy trì. Bên cạnh đó là sự hỗ trợ, ngăn ngừa, loại trừ các yếu tố gây rủi ro chứ không chỉ là sự nỗ lực khắc phục hậu quả sau rủi ro. Đặc biệt, sự hỗ trợ giảm nghèo này phải được xác lập trên nguyên tắc ưu tiên cho các vùng có khả năng, điều kiện thoát nghèo nhanh và có thể lan tỏa sang các vùng lân cận”. Tác giả luận văn này cũng đồng ý với quan điểm trên về quản lý Nhà nước về giảm nghèo bền vững.

Ở Việt Nam trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến mục tiêu XĐGN, nhằm góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, hướng đến giảm nghèo một cách bền vững. Quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về giảm nghèo bền vững được thể hiện qua các kỳ Đại hội của Đảng như sau:

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), lần đầu tiên vấn đề XĐGN được ghi nhận là Chương trình về XĐGN. Cụ thể hóa chương trình XĐGN được Đại hôi VIII đề ra, tháng 7/1998, Chính phủ đã chính thức phê duyệt chương trình quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000 (Chương trình 133) nhằm mục tiêu giảm tỷ lệ đói nghèo của cả nước xuống 10% vào năm 2000 với các chương trình cụ thể như định canh, định cư và kinh tế mới, phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, khuyến nông – khuyến lâm- khuyến ngư, trợ giúp đồng bào khó khăn. Cùng với chương trình 133, Thủ tướng Chính phủ còn phê duyệt Chương trình 135 hỗ trợ xã nghèo, đặc biệt là các xã miền núi khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Tháng 2/2002, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục phê duyệt Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4/2001), trong định hướng của Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ năm 2001-2010, Đảng ta đã tiếp tục đưa ra quan điểm về XĐGN, với nội dung cụ thể đó là “Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm đối với những vùng nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả XĐGN”.

Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng
Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ thực tiễn TP.Đà Nẵng

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4/2006), Đảng ta đưa ra quan điểm: “Tiếp tục đẩy mạnh XĐGN”, với nội dung là “Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức thực hiện XĐGN theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức sống một cách bền vững; kết hợp chính sách của Nhà nước với sự trợ giúp trực tiếp và có hiệu quả của toàn xã hội, của những người khá giả cho người nghèo, hộ nghèo, nhất là đối với những vùng đặc biệt khó khăn. Ngăn chặn tình trạng tái nghèo. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đặc biệt về trợ giúp đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch, đào tạo nghề và tạo việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; có chính sách khuyến khích mạnh các doanh nghiệp, trước hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ giàu đầu tư vốn phát triển sản xuất ở nông thôn, nhất là nông thôn vùng núi. Phát huy hơn nữa vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân tham gia công cuộc XĐGN”.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 01/2011), Đảng ta nêu rõ quan điểm: Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội từ năm 2011-2020. Định hướng phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hoà với phát triển kinh tế, cụ thể là “Thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn. Khuyến khích làm giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hoá giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.

Trong phương hướng nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011-2015), Đảng ta cũng đã đưa ra quan điểm về bảo đảm an sinh xã hội, với nội dung: “Tập trung triển khai có hiệu quả các chương trình XĐGN ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức XĐGN gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, phát triển giáo dục, dạy nghề và giải quyết việc làm để XĐGN bền vững; tạo điều kiện và khuyến khích người đã thoát nghèo vươn lên làm giàu và giúp đỡ người khác thoát nghèo”.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\LUAN VAN VIEN HAN LAM\LUAT HANH CHINH\HUYNH HAI

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *