luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện

luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện 

luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện 

1.Tính cấp thiết của đề tài

Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển hết sức mạnh mẽ với dấu mốc là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế (WTO). Kinh tế Việt Nam tiến tới hội nhập sâu và rộng với nền kinh tế thế giới, đời sống của đại bộ phận người dân đã có nhiều thay đổi. Trong bối cảnh nền kinh tế sôi động, nhanh, nhạy du nhập nhiều thành phần mới. Ắt hẳn tồn tại không ít những rủi ro nhất định. Vậy làm thế nào để ổn định sự duy trì và công bằng xã hội?

           Ngày nay. Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển kinh tế các quốc gia trên thế giới đang không ngừng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, trước hết là Bảo hiểm xã hội (BHXH) để giúp cho người lao động yên tâm đối mặt với những rũi ro, đặc biệt là rủi ro trong kinh tế thị trường và rủi ro xã hội khác. Để kinh tế phát triển hoàn thiện thì hệ thống an sinh xã hội là nền móng cơ bản, phải thật sự mạnh mẽ và vững chắc.

BHXH là chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta, nhằm ổn định đời sống, sản xuất cho người tham gia BHXH, đặc biệt là BHXH tự nguyện. Có hiệu lực từ năm 2008, chính sách BHXH tự nguyện mở ra cơ hội hưởng lương hưu cho nhiều người lao động, nhất là người lao động tự do, buôn bán nhỏ, thợ thủ công, dân,… những người không nằm trong diện BHXH bắt buộc nhưng có thu nhập ổn định. Với mục đích thu hẹp khoảng cách xã hội. Mọi người đều được sống cuộc sống an nhàn lúc về hưu, giảm gánh nặng đối với cộng đồng, xã hội. Bảo hiểm xã hội tự nguyện phù hợp với mong muốn của rất nhiều người.Vì vậy tiềm năng phát triển chính sách này ở nước ta là cực kì lớn.

Huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình dân số khoảng 50.708, có 1 thị trấn và 15 xã. Những năm gần đây có sự phát triển cả về kinh tế, xã hội, một phần nhờ đóng góp của các thành phần kinh tế trên địa bàn. Năm 2018, tốc độ phát triển giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu ước đạt 14,1%. Trong đó, nông lâm thủy sản tăng 5%; công nghiệp và xây dựng tăng 14,5%; thương mại – dịch vụ tăng 17,5%, thu nhập bình quân đầu người đạt 32,5 triệu đồng ( UBND huyện Minh Hoá, 2019 ). Các doanh nghiệp đóng trên địa bàn cũng khá đông, tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng không nhỏ của thiên tai, dịch bệnh, sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dẫn đến nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí phá sản, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn. Cơ quan bảo hiểm xã hội và một số đơn vị liên quan suốt những năm vừa qua luôn không ngừng tuyên truyền, vận động người dân tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tuy nhiên đến nay số lượng người lao động tham gia cuộc sống này hạn chế chưa thể hiện hết nguồn lực tham gia, cũng như theo định hướng phát triển của Đảng và Nhà nước.

Nguyên nhân số lượng người tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn huyện Minh Hoá còn ít là do: Trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp,… Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết khi tham gia BHXH; giải pháp nào giải quyết việc tham gia BHXH của người lao động khi thu nhập bấp bênh; vấn đề về thể chế và tổ chức thực hiện, đội ngũ cán bộ quản lý như thế nào…. Vì  vậy, tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu: “Giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình” nhằm tìm ra những điểm còn hạn chế và từ đó đề xuất những giải pháp để ngày càng tăng thêm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn, hướng tới mọi người dân đều có lương hưu, đảm bảo an sinh, xã hội công bằng và phát triển

  1. Tổng quan tài liệu nghiên cứu

Ở nước ta, BHXH đã được hình thành ngay từ những năm đầu thành lập 
nước, tuy nhiên chỉ áp dụng hình thức BHXH bắt buộc. Cùng với quá trình phát 
triển đất nước, đòi hỏi cần phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống BHXH theo cả hai hình thức bắt buộc và tự nguyện. Những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này, tuy nhiên tập trung chủ yếu về lĩnh vực BHXH bắt buộc. Đối với BHXH tự nguyện, đã có một số công trình nghiên cứu liên quan, trong đó có một số công trình tiêu biểu như:

– Bùi Văn Hồng (2002) đã “Nghiên cứu mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội đối với người lao động tự tạo việc làm và thu nhập” (đề tài cấp Bộ),

– Nguyễn Anh Vũ (2003) đã tạo lập các “ Cơ sở khoa học quản lý và tổ chức thu bảo hiểm xã hội tự nguyện” (đề tài cấp Bộ),

– Nguyễn Tiến Phú (2004) đã “Nghiên cứu xây dựng lộ trình tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động” (đề tài cấp Bộ) trong bối cảnh chưa có Luật BHXH.

– Đào Thị Hải Nguyệt (2007) đã xây dựng “Mô hình thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện ở một số nước trên thế giới và những bài học kinh nghiệm có thể vận 
dụng vào Việt Nam” (đề tài cấp Bộ), trong đó tập trung nghiên cứu kinh nghiệm 
của nước ngoài trong việc thực hiện BHXH tự nguyện,

Ngoài ra, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và Ngân hàng thế giới (2007) đã thực hiện “Khảo sát về triển vọng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện cho khu vực phi chính thức ở Việt Nam: Kiến nghị chính sách” (đề tài cấp Bộ) nhằm đưa ra cơ sở để triển khai Luật BHXH về BHXH tự nguyện. 

Nhìn chung, các công trình trên đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và khoa học cho tác giả thực hiện nghiên cứu các giải pháp phát triển BHXH tự nguyện trên địa bàn huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình. Trên thực tế, chỉ có rất ít công trình nghiên cứu cụ thể về phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện tại một địa phương cụ thể. Hầu hết các công trình nghiên cứu về mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội nói chung hoặc mở rộng đối tượng người lao động tham gia BHXH tự nguyện. Như vậy, hầu như các công trình chỉ đề tập tới sự phát triển về mặt lượng chứ chưa đề cập tới sự phát triển về mặt chất. Do đó, đây mới là những nghiên cứu bước đầu, còn chưa đầy đủ, thiếu hệ thống.

Đặc biệt hầu như các công trình này nghiên cứu từ khá lâu trước đó nên chưa cập nhật được những xu hướng phát triển mới của hệ thống BHXH tự nguyện, trong bối cảnh đất nước chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực và đặc biệt là các nghiên cứu trên thực hiện trong điều kiện Luật BHXH về BHXH tự nguyện chưa được thực thi. Chính vì lẽ đó, các nhân tố ảnh hưởng cũng như các giải pháp triển khai phát triển BHXH tự nguyện chưa thực sự phù hợp trong bối cảnh hiện nay.

Nhìn chung, hiện tại, chưa có một công trình nghiên cứu chính thức về phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình được công bố. Do đó, có thể nói đề tài của luận văn hoàn toàn cần thiết và không trùng lắp với các công trình nghiên cứu trước đó.

  1. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu

– Mục tiêu chung:

Đánh giá nhu cầu, khả năng và thực trạng việc tham gia BHXH tự nguyện của người lao động trên địa bàn huyện Minh Hoá tỉnh Quảng Bình. Đề xuất các giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện trong thời gian tới.

– Mục tiêu cụ thể:

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện.

Đánh giá thực trạng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động trên địa bàn huyện Minh Hoá giai đoạn 2017 – 2019.

Đề xuất giải pháp phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện của người lao động trên địa bàn huyện Minh Hoá tỉnh Quảng Bình

3.2. Nhiệm vụ của luận văn

– Làm rõ thêm cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội tự nguyện

– Đánh giá kết quả thực hiện và nêu những vấn đề đang đặt ra cho quá trình phát triển Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta

– Dự báo khả năng, định hướng phát triển và giải pháp thực hiện BHXH tự nguyện

  1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
  2. Đối tượng nghiên cứu

Thực trạng việc tham gia BHXH tự nguyện của người lao động thời gian gần đây. Tập trung vào nhóm dân, lao động tự do, tiểu thương, làm thuê, làm mướn, nội trợ,… Tình hình triển khai thực hiện BHXH tự nguyện tại huyện Minh Hoá. Một số yếu tố liên quan đến việc đóng BHXH tự nguyện

  1. Phạm vi nghiên cứu

– Về nội dung:

+ Các vấn đề liên quan tới việc phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện tại huyện Minh Hoá.

+ Xác định các yếu tố ảnh hưởng tới việc tham gia BHXH tự nguyện như: Chính sách pháp luật của nhà nước, thu nhập của người dân, nhận thức của người cách thức quản lý.

– Về không gian:

    + Đề tài được thực hiện trên địa bàn huyện Minh Hoá tỉnh Quảng Bình.

– Về thời gian:

    + Thu thập trong giai đoạn 2017– 2019.

  1. Phương pháp nghiên cứu
    Giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện Minh Hoá
    luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện 

    1.1.Các khái quát và khái niệm chung về BHXH tự nguyện

    1.1.1. Một số khái niệm chung về bảo hiểm xã hội

    1.1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm xã hội

    Bảo hiểm xã hội có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu và sự tồn tại của nó là tất yếu, có nhiều khái niệm về BHXH do có nhiều cách tiếp cận BHXH khác nhau. Bảo hiểm là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. [7]

    BHXH là sự bảo vệ của xã hội, của Nhà nước đối với người lao động. Người lao động sẽ được BHXH trợ giúp vật chất và các dịch vụ y tế cần thiết để ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ.

    Chỉ trong các trường hợp có những rủi ro liên quan đến thu nhập của người lao động thì mới được hưởng BHXH. BHXH được thực hiện trên cơ sở một quỹ tiền tệ. Tuy nhiên, những khái niệm này đã thể hiện được nhận thức chung về BHXH như sau:

    Trước hết, BHXH là một loại hình bảo hiểm mang tính xã hội rất cao, tổ chức BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động, còn diện bảo vệ của BHXH lại bao gồm cả NLĐ và gia đình họ. Vì thế, suy cho cùng BHXH đã, đang và sẽ bảo vệ cho mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội.

    Tham gia đóng góp để hình thành quỹ BHXH bao gồm cả người lao động và người sử dụng lao động. Quỹ được hình thành và sử dụng luôn có sự hỗ trợ và bảo hộ của Nhà nước.

    Mục đích của BHXH là góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.

    Khái niệm BHXH được khái quát một cách đầy đủ nhất trong Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 như sau: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội” (Luật BHXH, 2014)

    1.1.1.2. Khái niệm về bảo hiểm xã hội tự nguyện

    Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội do Nhà nước tổ chức mà người tham gia được lựa chọn mức đóng, phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình và Nhà nước có chính sách hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội để người tham gia hưởng chế độ hưu trí và tử tuất ( K3Đ3- Luật BHXH 2014 )

    Thực chất, BHXH tự nguyện là hình thức BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động hoàn toàn tự nguyện tham gia, không có tác động khách quan áp đặt, không bị pháp luật cưỡng chế phải tham gia. Ở đó, họ được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH. Có thể nói, BHXH tự nguyện là loại hình BHXH nhằm bao phủ hết các đối tượng còn chưa được tham gia loại hình BHXH bắt buộc của người lao động theo pháp luật, đồng thời là cầu nối trung gian, là bước quá độ tiến tới thực hiện BHXH cho mọi người lao động trong xã hội, đảm bảo an sinh xã hội. [10]

    Với bản chất như trên, BHXH tự nguyện chỉ có thể được hình thành và thực hiện trên cơ sở: người lao động và có thể cả người sử dụng lao động tự nguyện tham gia với điều kiện:

    – Có nhu cầu thực sự về BHXH.

    – Có khả năng tài chính để tham gia BHXH tự nguyện theo quy định.

    – Có sự thống nhất với những quy định cụ thể (mức đóng, mức hưởng, quy trình thực hiện, phương pháp quản lý, sử dụng quỹ BHXH tự nguyện…).

    – Có tổ chức, cơ quan đứng ra thực hiện BHXH tự nguyện: thu phí BHXH tự nguyện, quản lý quỹ BHXH tự nguyện, quản lý đối tượng tham gia BHXH tự nguyện, thực hiện chi trả trợ cấp BHXH tự nguyện cho các đối tượng được thụ hưởng.

    – Được Nhà nước bảo hộ và hỗ trợ khi cần thiết: bảo hộ quỹ BHXH tự nguyện, có chính sách ưu đãi cho hoạt động đầu tư quỹ.

    Mặc dù mang tính chất tự nguyện nhưng chính sách BHXH tự nguyện vẫn là chính sách do Nhà nước ban hành nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia. Nhà nước quy định mức đóng góp để hình thành Quỹ BHXH tự nguyện đủ lớn để chi trả cho người tham gia BHXH tự nguyện và xây dựng các chế độ mà người tham gia BHXH được hưởng ( bao gồm điều kiện hưởng, mức hưởng ) để bảo đảm bù đắp rủi ro cho người tham gia BHXH tự nguyện

    Đối tượng tham của BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Họ là những người trực tiếp tham gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản tỷ lệ nhất định so với tiền lương của người lao động theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó trong xã hội. [12]

    * Đặc điểm về đối tượng tham gia BHXH tự nguyện

    Trong điều kiện phát triển kinh tế – xã hội hiện nay, vấn đề chăm sóc và bảo vệ quyền lợi cho người lao động luôn được Đảng và Chính phủ quan tâm chú trọng. Như chúng ta đã nói ở phần trên, vấn đề BHXH cho người lao động trong những năm vừa qua, đặc biệt là từ khi ngành BHXH được thành lập số lượng đối tượng được tham gia BHXH đã tăng lên rõ rệt. Với mục tiêu đặt ra của ngành BHXH trong những năm tới là phải đảm bảo cho 100% đối tượng; lao động trong các thành phần, kinh tế kể cả trong và ngoài quốc doanh cũng như đối tượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và lao động tự do được tham gia và hưởng BHXH. Một số đặc điểm cơ bản của đối tượng thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện đó là đặc điểm của đối tượng làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp (nhóm đối tượng chiếm tỷ trọng lớn nhất). [14]

    – Về thu nhập: Thu nhập của người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp trong những năm vừa qua ngày càng tăng, tốc độ tăng thu nhập tuy thấp hơn bình quân chung của cả nước. Chi phí của hộ dân ngày càng tăng cao, nhưng nhờ thu nhập tăng khá, ngoài phần chi tiêu dùng cho đời sống, phần lớn các gia đình đã có đầu tư tích lũy.

    – Những vấn đề liên quan đến việc làm của người lao động: Do tính chất đặc trưng nghề nghiệp của đối tượng; tham gia BHXH tự nguyện có nhiều khác biệt so với nhóm đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể như:

    + Đối với lao động làm công ăn lương thuộc các thành phần kinh tế quốc doanh, họ thường có công việc tương đối ổn định, được pháp luật bảo hộ, được hưởng các quyền lợi theo quy định trong Bộ Luật Lao động như quy định về tiền lương, tiền công, ngày nghỉ, thời gian lao động và các chế độ ưu đãi khác. Tính ổn định trong công việc của người lao động còn được thể hiện thông qua các ràng buộc vể mặt pháp lý như người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đều có hợp đồng lao động ký kết với chủ sử dụng lao động, có thoả ước lao động tập thể đảm bảo cho người lao động được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ theo đúng pháp luật quy định và các công ước Quốc tế. Chính vì vậy, việc tham gia BHXH cho người lao động cơ bản được giới chủ thực hiện một cách nghiêm túc. Trong khi đó, nếu xét trên khía cạnh về việc làm của đối tượng lao động thuộc diện tham gia BHXH  tự nguyện, ta thấy lao động trong lĩnh vực nông nghiệp thì hoạt động sản xuất kinh doanh của họ chủ yếu mang tính tự cung tự cấp, hưởng thu nhập trên giá trị sản phẩm do chính họ tạo ra. Đối với những lao động có tư liệu sản xuất (ruộng đất) thì thu nhập của họ còn có thể được xác định thông qua sản lượng thu hoạch của các năm, nhưng đối với những lao động không có tư liệu sản xuất thì công ăn việc làm và thu nhập của họ hoàn toàn mang tính thời vụ, tính chất công việc lại càng không mang tính ổn định. Để đảm bảo quyền lợi về BHXH cho nhóm đối tượng này thực sự là một vấn đề rất phức tạp vì quá trình làm việc của người lao động; có thể không mang tính liên tục. Theo kinh nghiệm về BHXH của một số nước phát triển như: Pháp, Đức…. họ cũng đã xây dựng một số mô hình về BHXH tự nguyện cho đối tượng lao động tự tạo việc làm, nhưng cơ bản phương thức để thực hiện là đều xây dựng một mức tham gia BHXH bình quân trên cơ sở mức thu nhập tối thiểu của xã hội. Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, vấn đề việc làm cho người lao động vẫn là một trong những vấn đề mang tính bức xúc, đặc biệt là việc chuyển đổi tỷ trọng cơ cấu nền kinh tế, chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp. Như vậy, không có nghĩa là việc tham gia BHXH cho đối tượng làm việc trong lĩnh vực này là không thực hiện được. Theo số liệu báo cáo tổng kết kinh nghiệm thực tiễn BHXH tự nguyện ở một số tỉnh thì đa phần người dân rất có ý thức trong việc xác định tham gia BHXH và hưởng chế độ hưu trí. Như vậy, vấn đề việc làm của người lao động chỉ có thể được bảo đảm khi quy định về BHXH tự nguyện đề cập đến các vấn đề như cách xác định thời gian tham gia BHXH, mức tham gia ở từng thời điểm và phương thức quy đổi giữa các thời kỳ khác nhau. Ngoài ra do đặc thù công việc không mang tính ổn định có thể cho phép người lao động được lựa chọn thời gian nộp BHXH phù hợp với mức nộp đã đăng ký với cơ quan BHXH và được bảo lưu thời gian nộp BHXH nếu vì lí do nào đó người lao động bị mất việc làm.

    + Vấn đề quan hệ xã hội: do tính chất đặc thù công ăn việc làm, nghề nghiệp và thu nhập của người lao động, đặc biệt là sự tiếp cận tìm kiếm các thông tin liên quan đến sự vận động kinh tế, xã hội của đất nước. Họ thường thiếu hiểu biết về chính sách, pháp luật của Nhà nước, cũng như vấn đề về BHXH, vì vậy việc tuyên truyền nhằm thu hút đối tượng lao động tham gia BHXH gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra, do quan điểm mang tính chất chủ quan tức thời, nên việc ứng ra một khoản tiền để chuẩn bị cho tương lai là điều khó thuyết phục trong tư duy của người lao động.

    Xét về khả năng tham gia BHXH tự nguyện của lao động làm việc ở nông thôn nhìn chung còn thấp do thu nhập ở khu vực nay hiện còn thấp. Về mặt phương pháp luận, bất kỳ một chính sách BHXH nào, chính sách là điều kiện cần, thì điều kiện thực hiện là điều kiện đủ của nó. Nói một cách cụ thể, nghiên cứu chính sách để mở rộng đối tượng tham gia BHXH tự nguyện cho người lao động là chúng ta nghiên cứu điều kiện đủ của nó để khi Nhà nước ban hành chính sách BHXH tự nguyện cho những đối tượng này thì nó có thể trở thành hiện thực và đi vào cuộc sống.

    Vậy đối tượng tự nguyện tham gia BHXH tự nguyện là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động, không thuộc diện áp dụng của pháp luật về BHXH bắt buộc. Bao gồm:

    1. a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
    2. b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
    3. c) Cán bộ, công chức, viên chức;
    4. d) Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu;

    đ) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

    1. e) Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí;
    2. g) Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
    3. h) Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
    4. i) Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.

    Ngoài ra, đối tượng tham gia BHXH tự nguyện có thể chia thành 2 nhóm:

    – Nhóm 1: Lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nay vì lý do nào đó nên không tiếp tục tham gia BHXH bắt buộc nữa, bao gồm:

    + Lao động dôi dư từ khu vực nhà nước do quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước và cải cách hành chính. Những lao động thuộc diện “dôi dư” đó nhận trợ cấp bảo hiểm một lần hoặc về hưu trước tuổi còn khả năng lao động.

    + Lao động do bầu cử được bổ nhiệm vào các tổ chức dân cử như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp cơ sở, các đoàn thể và tổ chức quần chúng sau khi hết nhiệm kỳ không được bầu lại có nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH.

    + Lao động trong các doanh nghiệp thuộc đối tượng BHXH bắt buộc bị mất việc làm do doanh nghiệp phá sản, chuyển công tác hoặc bị thôi việc nhưng vẫn có nhu cầu tiếp tục tham gia BHXH.

    – Nhóm 2: Những đối tượng chưa tham gia BHXH bắt buộc. Nhóm này bao gồm:

    + Lao động làm công ăn lương không có hợp đồng hoặc hợp đồng lao động theo thời vụ dưới 3 tháng. Thực tế cho thấy nhóm này bao gồm phần lớn là lao động trong các doanh nghiệp nhỏ. Theo Luật BHXH thì nhóm này mặc dù có quan hệ lao động nhưng không được tham gia BHXH vì người lao động phải làm việc theo hợp đồng lao động thời vụ có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên. Việc này chính là kẽ hở giúp cho các chủ sử dụng lao động lẩn tránh nghĩa vụ đóng BHXH bắt buộc cho người lao động bằng cách không ký hoặc ký hợp đồng lao động theo thời vụ.

    + Lao động là thành viên các hợp tác xã, tổ đội sản xuất trong một số lĩnh vực như tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ, giao thông vận tải… Các nhóm lao động này không có quan hệ lao động nhưng hoạt động theo cơ chế “chia sẻ nghĩa vụ và quyền lợi”.

    + Những người tự tạo việc làm và lao động tự do như người lái xe ôm, bán hàng rong, tự kinh doanh, sửa chữa xe đạp – xe máy… Nhóm này thường bị bỏ qua trong quá trình mở rộng BHXH do mối e ngại khả năng tài chính của họ để đóng bảo hiểm cũng như vấn đề mánh khóe che giấu thu nhập để nhận mức trợ cấp cao hơn người khác.

    + Chủ doanh nghiệp tư nhân và lao động gia đình không hưởng lương. Đây là nhóm lao động gia đình cùng tham gia sản xuất và chia sẻ lợi nhuận nhưng không có quan hệ lao động.

    + Dân là nhóm lao động chiếm tỷ lệ cao nhất trong lực lượng lao động hiện nay nhưng chưa được tham gia BHXH, khó khăn lớn nhất cho họ khi tham gia BHXH là khả năng tài chính thấp và không ổn định do phụ thuộc vào mùa vụ thu hoạch.

    + Người thất nghiệp, nhóm này chưa được BHXH quan tâm đến với lý do tài chính và khả năng quản lý.

    luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện 
    luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện

    1.1.2. Bản chất, vai trò và nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện (luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện)

    1.1.2.1. Bản chất bảo hiểm xã hội tự nguyện (luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện)

    1. Bản chất kinh tế của BHXH tự nguyện

                Bản chất kinh tế của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng thể hiện ở chỗ những người tham gia cũng đóng góp một khoản tiền trích trong thu nhập (khoản đóng góp này sau khi đã chi tiêu cho các nhu cầu tối thiểu và các nhu cầu cần thiết và không ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất – kinh doanh của cá nhân) để lập một quỹ dự trữ. Mục đích của việc hình thành quỹ này để trợ cấp cho những người tham gia BHXH tự nguyện khi gặp rủi ro dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập. Như vậy BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu về BHXH như ốm đau, sinh đẻ, già yếu, chết… Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối giữa chính bản thân người lao động theo thời gian (giữa thời gian lao động và thời gian nghỉ hưu). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh với người ốm đau; giữa người trẻ và người già; giữa người có thu nhập cao với người có thu nhập thấp. Nhờ sự phân phối lại thu nhập mà đời sống của người lao động  và gia đình họ luôn được đảm bảo trước những bất trắc và rủi ro xã hội.

    Tóm lại, BHXH tự nguyện được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài chính trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH tự nguyện nhằm góp phần ổn định cuộc sống của người tham gia và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng thu nhập từ lao động. [8]

    1. Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện:

    Bản chất xã hội của BHXH tự nguyện được thể hiện ngay trong mục tiêu của nó. BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận. Mục tiêu của bất kỳ hệ thống BHXH nào cũng là mục tiêu xã hội. Điều này được thể hiện thông qua việc chi trả chế độ BHXH. Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị giảm hoặc mất khả lao động. Do có sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHXH tự nguyện nên mặc dù chỉ đóng một phần  nhỏ trong thu nhập của mình cho Quỹ BHXH tự nguyện, nhưng có thể được bồi hoàn một khoản thu nhập đủ lớn để giúp họ trang trải rủi ro. Ở đây, Quỹ BHXH tự nguyện đó thực hiện nguyên tắc “lấy số đông, bù số ít” và BHXH tự  nguyện được hiểu như một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người  lao động khi thu nhập của họ bị giảm, bị mất. Trên góc độ vĩ mô, BHXH tự nguyện gúp phần ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, gúp phần xóa  đói giảm nghèo.

    Tóm lại, hoạt động BHXH tự nguyện không vì mục tiêu lợi nhuận, mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Điều này giải thích tại sao BHXH được coi là một chỉ tiêu đánh giá mức độ phát triển của một quốc gia.

    Tuy nhiên bản chất kinh tế và bản chất xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen với nhau. Khi nói đến sự đảm bảo kinh tế cho người lao động và gia đình họ là nói đến tính xã hội của BHXH. Ngược lại khi nói đến sự đóng góp ít, nhưng lại được bù đắp đủ trang trải mọi rủi ro, thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH.

    1.1.2.2. Vai trò bảo hiểm xã hội tự nguyện (luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện)

    Trong đời sống kinh tế – xã hội, BHXH xã hội nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng đóng vai trò to lớn được thể hiện trên các mặt sau:

    – BHXH tự nguyện góp phần ổn định đời sống của người tham gia BHXH, đảm bảo an toàn xã hội. Những người tham gia BHXH tự nguyện và gia đình họ sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người tham gia BHXH tự nguyện nhanh chóng khắc phục được những tổn thất vật chất, sớm phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình lao động, hoạt động bình thường của bản thân.

    – BHXH tự nguyện góp phần thực hiện công bằng xã hội. Phân phối trong BHXH là sự chuyển dịch thu nhập mang tính xã hội, là sự phân phối lại giữa những người có thu nhập cao, thấp khác nhau theo xu hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH tự nguyện góp phần làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo.

    – BHXH tự nguyện góp phần phòng tránh và hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn cho sản xuất và đời sống xã hội của con người.

    – BHXH tự nguyện góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước.

    1.1.2.3. Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội tự nguyện (luận văn giải pháp phát triển bảo hiểm xã hội tự nguyện trên địa bàn huyện)

    Nguyên tắc của BHXH tự nguyện là những định hướng, những quy định và những phương thức hoạt động của cả hệ thống BHXH nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Theo nghĩa đó, BHXH tự nguyện phải được xây dựng trên nền tảng các nguyên tắc sau:

    – Nguyên tắc tự nguyện

    – Mọi người đều có quyền tham gia bảo hiểm xã hội và có quyền hưởng bảo hiểm xã hội khi có các nhu cầu về bảo hiểm

    – Nguyên tắc Nhà nước phải có trách nhiệm đối với quỹ bảo hiểm xã hội tự nguyện của người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự bảo hiểm cho mình

    – Nguyên tắc lấy số đông bù số ít

    – Nguyên tắc kết hợp hài hòa các lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu bảo hiểm xã hội

    – Nguyên tắc mức hưởng tiền lương hưu tỷ lệ thuận với mức đóng góp bảo hiểm xã hội

    – Bảo hiểm xã hội phải được phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển

    Sự phát triển của BHXH nói chung biểu hiện trên nhiều mặt: cơ cấu các bộ phận của hệ thống, số lượng và cơ cấu các chế độ trợ cấp, mức trợ cấp, thời gian nghỉ việc để hưởng trợ cấp, mức đóng phí BHXH… Nếu không cân nhắc thận trọng và lựa chọn bước đi hợp lý sẽ có thể phát sinh trục trặc không thể kiểm soát được.

    LIỆN HỆ:

    SĐT+ZALO: 0935568275

    EMAIL: khotailieu86@gmail.com

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *