Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

  1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử của các nhà nước trên toàn thế giới ở mọi chế độ đã khẳng định rằng ngân sách là phương tiện không thể thiếu được của mọi chính quyền nhà nước. Ở Việt Nam, Luật NSNN từ khi được ban hành và qua các lần sửa đổi, bổ sung đều thừa nhận ngân sách quận, huyện là ngân sách của chính quyền nhà nước cấp quận, huyện và là một bộ phận cấu thành NSNN Việt Nam.

Thực tiễn hiện nay về vấn đề quản lý và sử dụng ngân sách quận, huyện còn nhiều sai sót, yếu kém cần phải được chấn chỉnh, khắc phục, trong khi đó chức năng kiểm soát còn nhiều tồn tại, thiếu sót như chưa có quy trình cụ thể áp dụng cho kiểm soát quá trình thu, chi ngân sách quận, huyện; …Điều đó cần phải có phương hướng và những giải pháp để hoàn thiện.

Nghiên cứu công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận, huyện có ý nghĩa rất quan trọng trong hệ thống quy trình kiểm soát, góp phần hoàn thiện hệ thống kiểm soát thu, chi ngân sách ở địa phương làm giảm thiểu những thất thoát ngân sách. Đồng thời, đề tài sẽ đóng góp một cách thực tiễn vào công tác kiểm soát ngân sách quận, huyện ở Việt Nam hiện nay.

Đề tài nghiên cứu thực trạng công tác kiểm soát ngân sách quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, nhằm tìm ra những tồn tại trong công tác quản lý thu, chi ngân sách của quận để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện nó, đáp ứng kịp thời cho quá trình quản lý ngân sách quận trong giai đoạn kinh tế phát triển hiện nay. Trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước hiện nay vẫn còn thất thoát, lãng phí, vì vậy mà hoàn thiện công tác kiểm soát NSNN đóng vai trò thực sự quan trọng.

Đề tài: “Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng” có ý nghĩa quan trọng mang tính thực tiễn cao đối với công tác quản lý ngân sách cấp quận của lãnh đạo địa phương.

Với ý nghĩa thực tiễn trên, đề tài được mở rộng ra áp dụng vào trong thực tiễn hoàn thiện công tác kiểm soát ngân sách cấp quận, huyện trên các tỉnh, thành phố của cả nước.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn. Với 3 nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Nghiên cứu vấn đề lý luận cơ bản về NSNN, công tác kiểm soát thu, chi ngân sách cấp quận, huyện

+ Nghiên cứu thực trạng tổ chức công tác kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn.

+ Nghiên cứu đề xuất phương hướng chung và các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn cũng như cấp quận, huyện nói chung.

3. Câu hỏi nghiên cứu

Đối với đề tài nghiên cứu, các câu hỏi cần nghiên cứu như sau:

– Công tác kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đạt được kết quả gì qua các năm và có những hạn chế nào cần phải có giải pháp để hoàn thiện?

– Làm thế nào để hoàn thiện công tác kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn ?

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

* Phạm vi nghiên cứu: Tập trung phân tích thực trạng công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn.

Về không gian: tại UBND quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Về thời gian: Nội dung nghiên cứu của đề tài căn cứ vào số liệu từ năm 2011 đến 2013.

5. Những đóng góp chính của luận văn

Luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận chung về tổ chức công tác kiểm soát thu, chi ngân sách cấp quận, huyện. Hệ thống hóa được các đặc trưng và nguyên tắc của thu, chi ngân sách Nhà nước.

Luận văn đã nêu thực trạng về công tác kiểm soát từ khâu lập dự toán đến khi quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng từ năm 2011 đến năm 2013.

Một số nhóm giải pháp và đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thu NSNN của từng đơn vị có nguồn thu ngân sách, dự toán chi theo hướng tiết kiệm chi tiêu tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

6. Kết cấu của luận văn:

Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có 4 chương :

Chương 1: Lý luận chung về công tác kiểm soát thu, chi ngân sách cấp quận, huyện

Chương 2: Phương pháp và thiết kế nghiên cứu

Chương 3: Thực trạng công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Chương 4: Một số giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

CHƯƠNG 1

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KIỂM SOÁT THU, CHI NGÂN SÁCH CẤP QUẬN, HUYỆN

    1. . TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Kiểm soát là một chức năng quan trọng trong quản lý, nó diễn ra ở tất cả các giai đoạn của quá trình hoạt động thu chi, chấp hành và quyết toán của ngân sách nhà nước.

Kiểm soát được hiểu là những biện pháp kỹ thuật dùng vào những công việc nhằm đạt yêu cầu đề ra, đồng thời cũng là quá trình áp dụng những cơ chế và phương pháp để đảm bảo các hoạt động và hiệu quả đạt được phù hợp với mục tiêu, kế hoạch và chuẩn mực của đơn vị.

Kiểm soát đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của các ban ngành, tổ chức, doanh nghiệp…Kiểm soát giúp các nhà quản trị quản lý hữu hiệu và hiệu quả hơn các nguồn lực kinh tế của tổ chức mình như: con người, tài sản, tài chính ngân sách, vốn… góp phần hạn chế tối đa những rủi ro phát sinh trong quá trình quản lý.

Việc kiểm soát tốt, chặt chẽ và khoa học sẽ là công cụ hữu hiệu, cung cấp những thông tin hữu ích cho nhà quản lý, giúp cho nhà quản lý định hướng đắn mang lại hiệu quả công việc cao.

Trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu, tôi đã tham khảo các công trình nghiên cứu trước đây trong các đề tài về kiểm soát thu, chi ngân sách nhà nước, nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước tại một số đơn vị, tổ chức, cụ thể:

– Đề tài nghiên cứu của tác giả Tô Thiện Hiền (2012), “Nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước tỉnh An Giang giai đoạn 2011- 2015 và tầm nhìn đến 2020”, Luận án tiến sỹ kinh tế, Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh. Luận án đã nêu tổng quan về ngân sách Nhà nước và kinh nghiệm quản lý ngân sách NN của một số tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long; tìm hiểu phân tích thực trạng về hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước: thu chi và cân đối thu chi ngân sách nhà nước tỉnh An Giang, đánh giá những thành tích đã đạt được và nêu những hạn chế trong công tác quản lý ngân sách Nhà nước. Từ đó, tác giả đưa ra đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý ngân sách địa phương, nâng cao vai trò của chính quyền địa phương trong tự chủ ngân sách, tổ chức và giám sát có hiệu quả hoạt động thu chi ngân sách tại tỉnh An Giang.

Nhìn chung, Luận án đã đi sâu nghiên cứu vào vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước và đưa ra các giải pháp cơ bản hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý NSNN các cấp, cải tiến kiểm tra, thanh tra việc chấp hành thu chi ngân sách nhằm nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước.

– Hồ Thị Phi Yến (2008), “Tăng cường kiểm soát quá trình lập, chấp hành và quyết toán dự toán ngân sách tại quận Thanh khê, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Luận văn đã hệ thống cơ sở lý luận và nêu thực trạng công tác kiểm soát lập, chấp hành và quyết toán ngân sách tại Quận Thanh khê, thành phố Đà Nẵng; đề xuất các biện pháp tăng cường kiểm soát việc chấp hành và quyết toán ngân sách đối với các đơn vị được khoán chi, tự chủ tài chính… góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách tại quận Thanh khê, thành phố Đà Nẵng. Luận văn đã nghiên cứu và đưa ra các giải pháp tăng cường kiểm soát, xây dựng định mức chi tiêu, xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ trong các đơn vị sự nghiệp, kiểm soát chi hoạt động chuyên môn ngành quản lý.

– Nguyễn Thị Hàn Giang (2008), “Tăng cường công tác kiểm soát thu chi ngân sách ở Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng”. Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về công tác kiểm soát nội bộ tại các đơn vị làm cơ sở cho việc phân tích công tác kiểm soát thu chi ngân sách ở Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng. Luận văn đã nêu được thực tế về công tác kiểm soát các khoản thu sự nghiệp và các khoản chi thường xuyên, những mặt đã đạt được và các vấn đề đặt ra của công tác kiểm soát thu chi ngân sách tại đơn vị. Tác giả đưa ra những giải pháp tăng cường công tác kiểm soát hoạt động thu chi ngân sách tại đơn vị nhằm giảm thiểu những sai sót, gian lận góp phần vào sự phát triển của Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại thành phố Đà Nẵng.

– Nguyễn Văn Thành (2008), “Hoàn thiện quy trình kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc NN Liên Chiểu, thành phố Đà nẵng”, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Đà Nẵng. Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về quy trình kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước; tìm hiểu thực tế công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước quận Liên Chiểu, đánh giá những kết quả đạt được và nêu nguyên nhân tồn tại, hạn chế và tác giả đã đưa ra mục tiêu và định hướng đổi mới công tác quản lý NSNN và các giải pháp hoàn thiện quy trình kiểm soát chi NSNN qua KBNN nói chung và Kho bạc quận Liên Chiểu nói riêng. Nhìn chung, luận văn đã nghiên cứu vấn đề kiểm soát trong quản lý như: kiểm soát chi NSNN bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư, kiểm tra quy trình luân chuyển hồ sơ, kiểm soát chi đối với các đơn vị có cơ chế tài chính riêng.

Ngoài ra, đề tài còn nghiên cứu Luật NSNN, tham khảo một số văn bản pháp luật như Thông tư, Nghị định, … điển hình như:

– Luật NSNN sửa đổi năm 2002, Thông tư hướng dẫn và các văn bản hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung: nghiên cứu tập hợp những vấn đề cơ bản nhất về cơ sở lý luận về ngân sách nhà nước từ những nội dung cơ bản của Luật ngân sách, cơ sở lý luận về công tác kiểm soát ngân sách nói chung, công tác kiểm soát thu, chi ngân sách các quận, huyện nói riêng.

– Quy định chế độ kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN, Thông tư 161, 2012, Bộ Tài Chính (ngày 02/10/2012)

– Thông tư 18/2006/TT-BTC ngày 13 tháng 03 năm 2006 của Bộ Tài chính Hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các cơ quan nhà nước thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính

– Thông tư 81 /2006/TT-BTC ngày 06 tháng 9 năm 2006 của Bộ Tài chính Hướng dẫn chế độ kiểm soát chi đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính.

– Kiểm soát nội bộ, 2010, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, NXB Phương Đông

Các công trình nghiên cứu trên đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về quy trình kiểm soát thu, chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước; tìm hiểu thực tế công tác kiểm soát thu chi ngân sách nhà nước và đã đưa ra mục tiêu, giải pháp và định hướng trong công tác quản lý NSNN. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đây về kiểm soát thu chi ngân sách, đề tài nghiên cứu của tôi là đi theo hướng hệ thống hóa các lý luận chung về tổ chức công tác kiểm soát thu chi ngân sách, nghiên cứu tổ chức công tác kiểm soát thu NSNN, kiểm soát chi của một số đơn vị cơ sở của cấp mình quản lý và xây dựng triển khai đề án giao dịch chi NSNN “một cửa”. Trên cơ sở đó, đưa ra các nhóm giải pháp thích hợp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát thu, chi ngân sách quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

1.2. NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CẤP QUẬN, HUYỆN

1.2.1. Khái quát chung về ngân sách nhà nước và hệ thống ngân sách nhà nước Việt Nam

Trong tiến trình lịch sử, NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế đã ra đời và tồn tại từ lâu. Là một công cụ tài chính quan trọng của NN, NSNN xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề Nhà nước và tiền đề kinh tế hàng hoá-tiền tệ

Trong hệ thống tài chính, NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực Nhà nước. Ở nước ta, định nghĩa Ngân sách nhà nước được nêu rõ trong Luật NSNN năm 2002:

“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước”. Luật ngân sách nhà nước

Như vậy, về bản chất NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân phối và phân phối lại của cải xã hội, nhằm tập trung một phần nguồn lực tài chính vào trong tay nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng quản lý của nhà nước. Về hình thức biểu hiện, đó là các dự toán và quyết toán các khoản thu, chi của Nhà nước được thực hiện trong một thời gian nhất định, thường là 1 năm.

Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách. Tại nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức bộ máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước theo Hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một cấp nhân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình thành hệ thống chính quyền nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền Nhà nước nhiều cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống NSNN nhiều cấp.

Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước, phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước ta hiện nay, hệ thống NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương:

Trong hệ thống NSNN Việt Nam, ngân sách trung ương chịu trách nhiệm quản lý thu, chi theo các ngành kinh tế. Nó luôn giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Ngân sách trung ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trung ương (sự nghiệp văn-xã; sự nghiệp kinh tế; an ninh-quốc phòng; trật tự an toàn xã hội; đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng…). Trên thực tế NSTW là NS của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn thu và đảm bảo các nhu cầu chi mang tính quốc gia. NSTW bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này: mỗi bộ, cơ quan trung ương là một đơn vị dự toán của NSTW.

Ngân sách địa phương chịu trách nhiệm quản lý thu NSNN trên địa bàn và chi NSNN địa phương. HĐND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp chính quyền địa phương phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. Chính quyền cấp tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên khai thác thế mạnh trên địa bàn địa phương để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện cân đối ngân sách của cấp mình.

Ngân sách cấp quận, huyện do chính quyền cấp quận, huyện tổ chức thực hiện quản lý thu, chi theo quy định phân cấp của tỉnh nhằm khai thác tốt nguồn thu để đảm bảo nhiệm vụ chi ngân sách cấp mình.

Ngân sách cấp xã, phường do chính quyền cấp xã, phường tổ chức thực hiện theo quy định của cấp quận, huyện nhằm đảm bảo các nhiệm vụ phát sinh trên địa bàn địa phương mình quản lý.

Quan hệ giữa các cấp ngân sách trong hệ thống NSNN được thực hiện theo các nguyên tắc sau:

Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện việc bổ sung từ ngân sách của chính quyền nhà nước cấp trên cho ngân sách của chính quyền ngân sách cấp dưới nhằm đảm bảo sự công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng lãnh thổ, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dưới. Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan quản lý cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ chi đó (gọi là kinh phí uỷ quyền). Không được dùng ngân sách của cấp này chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.

1.2.2. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước

Phân cấp quản lý NSNN là xác định phạm vi, trách nhiệm và quyền hạn của chính quyền nhà nước các cấp trong việc quản lý, điều hành thực hiện nhiệm vụ thu, chi của NSNN.

Phân cấp quản lý NSNN giữa chính quyền trung ương và các cấp chính quyền địa phương là một tất yếu khách quan do mỗi cấp chính quyền đều cần đảm bảo nhu cầu chi bằng những nguồn tài chính nhất định. Nếu các nhiệm vụ đó do mỗi cấp trực tiếp đề xuất và bố trí chỉ tiêu thì sẽ hiệu quả hơn là sự áp đặt từ trên xuống. Đồng thời, những khoản thu nhỏ lẻ hoặc khó quản lý nếu phân giao cho chính quyền địa phương quản lý sẽ tốt hơn, hiệu quả hơn. Do vậy phân cấp quản lý NSNN chính là việc phân chia trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý hoạt động của NSNN cho các cấp chính quyền Nhà nước từ trung ương tới các địa phương trong quá trình tổ chức tạo lập và sử dụng NSNN, nhằm làm cho hoạt động của NSNN lành mạnh và đạt hiệu quả cao.

Khi tiến hành phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải bảo đảm nguyên tắc cơ bản sau đây: Phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của Nhà nước và năng lực quản lý của mỗi cấp trên địa bàn; Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương được phân định nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể; Việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách các cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, thời gian phân cấp phù hợp với thời kỳ ổn định ngân sách ở địa phương; Kết thúc mỗi kỳ ổn định ngân sách, căn cứ vào khả năng nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp, cơ quan có thẩm quyền từ trung ương đến địa phương quyết định điều chỉnh tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp theo quy định của Luật NSNN.

1.2.3. Ngân sách cấp quận, huyện trong hệ thống ngân sách

Ngân sách quận, huyện là công cụ quan trọng của chính quyền cấp quận, huyện trong việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn. Khi xem xét ngân sách quận, huyện không được tách rời khỏi NSNN cấp trên nhưng cũng không được coi ngân sách quận, huyện là yếu tố thụ động trong hệ thống ngân sách. Theo đó, ngân sách quận, huyện là toàn bộ các khoản thu – chi được quy định đưa vào dự toán trong một năm và giao cho UBND quận, huyện tổ chức chấp hành nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp quận, huyện. Quan niệm trên có thể giúp chúng ta hình dung được ngân sách quận, huyện và cơ quan quyết định cũng như cơ quan chấp hành ngân sách quận, huyện. Sự vận động của các nguồn tài chính vào ngân sách quận, huyện và từ ngân sách quận, huyện đến các mục đích sử dụng khác nhau chứa đựng các mối quan hệ cụ thể sau:

Thứ nhất, Quan hệ giữa chính quyền cấp quận, huyện với các cấp chính quyền cấp trên thể hiện trong việc xác định cho các quận, huyện nguồn thu được phân chia giữa các cấp ngân sách và thể hiện trong sự hỗ trợ bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách quận, huyện;

Thứ hai, Quan hệ giữa chính quyền cấp quận, huyện với các tổ chức kinh tế trong quận, huyện được thể hiện trong việc các tổ chức này nộp thuế, phí – lệ phí cho ngân sách huyện và ngược lại ngân sách quận, huyện cũng phải chi trực tiếp, gián tiếp cho các tổ chức này;

Thứ ba, Quan hệ giữa chính quyền nhà nước với nhân dân trong quận, huyện được thể hiện khi ngân sách cấp trên cấp kinh phí ủy quyền, chuyển giao cho ngân sách quận, huyện thực hiện. Đó là các chương trình quốc gia như chương trình Dân số và Kế hoạch hoá gia đình; Chương trình Phổ cập giáo dục; Chương trình Phòng, chống tệ nạn xã hội; Chương trình Quốc gia giải quyết việc làm…;

Thứ tư, Quan hệ giữa cấp chính quyền quận, huyện với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước. Đó là mối quan hệ thông qua việc biếu tặng giúp đỡ tài trợ của các tổ chức, cá nhân đó đối với quận, huyện và là một khoản thu của ngân sách quận, huyện;

Thứ năm, Quan hệ giữa cấp chính quyền quận, huyện với tổ chức Đảng và các tổ chức chính trị, xã hội khác trong việc hình thành và sử dụng quỹ ngân sách. Quan hệ này được thể hiện ngân sách cấp kinh phí cho các hoạt động của Đảng và các tổ chức chính trị – xã hội trong quận, huyện.

Tất cả các mối quan hệ được trình bày ở trên phản ánh các nội dung thu và chi của ngân sách quận, huyện.

Tóm lại ngân sách quận, huyện là quỹ tiền tệ tập trung của quận, huyện được hình thành bằng các nguồn thu và đảm bảo các khoản chi trong phạm vi quận, huyện. Nó phản ảnh những mối quan hệ một bên là chính quyền cấp quận, huyện với một bên là các chủ thể khác thông quan sự vận động của các nguồn tài chính, nhằm đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chính quyền quận, huyện.

1.2.4. Tổ chức quản lý ngân sách cấp quận, huyện

1.2.4.1. Khái quát nội dung quản lý ngân sách cấp quận, huyện

Một cấp ngân sách đủ mạnh hay không, phụ thuộc rất lớn vào tổ chức quản lý ngân sách cấp đó. Đối với ngân sách cấp huyện, những nội dung tổ chức quản lý ngân sách gồm: Phân cấp quản lý, chu trình quản lý ngân sách, tổ chức bộ máy, nhân sự…

Luật NSNN 2002 khẳng định ngân sách cấp huyện là một bộ phận cấu thành ngân sách địa phương nói riêng và NSNN nói chung. Việc phân cấp ngân sách gắn liền với việc phân cấp về quản lý kinh tế – xã hội, có tính ổn định hơn. Vì thế, vị trí và vai trò của chính quyền nhà nước cấp huyện được đề cao hơn so với trước.

Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng
Kiểm soát thu, chi ngân sách tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

1.2.4.2. Phân cấp quản lý ngân sách cấp quận, huyện

Về Nguồn thu, ngân sách huyện bao gồm các loại chính sau:

Một là, Các khoản thu phân chia giữa ngân sách tỉnh, ngân sách huyện với ngân sách xã, phường, thị trấn. Gồm: Thuế Tiêu thụ đặc biệt, Thuế Sử dụng đất nông nghiệp, Thuế Chuyển quyền sử dụng đất, Thuế Nhà đất, Thuế Tài nguyên, Thu tiền sử dụng đất, Lệ phí trước bạ nhà, đất;

Hai là, Các khoản thu được phân chia giữa ngân sách trung ương với ngân sách tỉnh, gồm: Thuế Giá trị gia tăng, Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Thuế Thu nhập của người có thu nhập cao;

Ba là, Các khoản thu ngân sách huyện được hưởng 100% là Thuế môn bài từ các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh, các khoản thu phí, lệ phí từ hoạt động do các cơ quan thuộc cấp quận, huyện quản lý, thu sự nghiệp của các đơn vị sự nghiệp do cấp huyện quản lý, các khoản viện trợ, đóng góp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước trực tiếp cho ngân sách huyện, cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy định, Thu phạt xử lý vi phạm hành chính, thu từ hoạt động chống buôn lậu, kinh doanh trái pháp luật theo phân cấp của tỉnh, thu bổ sung từ ngân sách tỉnh, thu kết dư ngân sách huyện, các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

Về khoản chi ngân sách cấp quận, huyện bao gồm hai khoản chi chủ yếu

Một là, Chi đầu tư phát triển: chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội theo phân cấp quản lý của tỉnh.

Hai là, Chi thường xuyên trong các lĩnh vực chủ yếu sau: Sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế theo sự phân cấp của tỉnh; Sự nghiệp kinh tế, văn hóa thông tin, thể dục thể thao, xã hội và sự nghiệp khác do cấp huyện quản lý; Chi quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể cấp huyện; Chi quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn theo quy định; Chi tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội – nghề nghiệp cấp huyện; Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật; Chi bổ sung NS xã, phường, thị trấn.

1.2.4.3. Chu trình quản lý ngân sách quận, huyện

Công tác quản lý ngân sách quận, huyện được thể hiện bằng chu trình quản lý thông qua ba khâu: Lập dự toán ngân sách, chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách. Nội dung từng khâu được thực hiện như sau:

Khâu I – Lập dự toán ngân sách quận huyện

Một chu trình NSNN được bắt đầu bằng khâu lập dự toán NSNN. Đây là quá trình phân tích, đánh giá quan hệ giữa khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính của cấp quận, huyện để từ đó xác lập các chỉ tiêu thu chi dự toán ngân sách hàng năm một cách phù hợp. Vấn đề quan trọng hàng đầu của khâu lập dự toán ngân sách là phải tính toán đầy đủ, đúng đắn, có căn cứ các chỉ tiêu thu, chi của ngân sách quận, huyện trong kỳ kế hoạch. Trong quá trình lập phải quán triệt các nguyên tắc cơ bản: Kế hoạch ngân sách phải bám sát kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và có tác động tích cực đối với việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của quận, huyện; Phản ánh đầy đủ các khoản thu, chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức do cơ quan có thẩm quyền ban hành; phải đảm bảo tính cân đối; kèm theo bảng thuyết minh chi tiết các cơ sở, căn cứ tính toán.

Khâu II – Chấp hành ngân sách quận, huyện

Chấp hành NSNN chính là thực hiện dự toán NSNN trên cơ sở dự toán được chuẩn y. Thông qua chấp hành ngân sách, những hoạch định về chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã được thể hiện trong quá trình lập dự toán NSNN được thực hiện. Sau khi NSNN được phê chuẩn và năm ngân sách bắt đầu, việc thực hiện ngân sách được triển khai. Nội dung của quá trình này là tổ chức thu NSNN và phân phối kinh phí NSNN cho các nhu cầu đã được phê chuẩn. Việc chấp hành NS thực hiện tốt sẽ có tác dụng tích cực trong việc thực hiện khâu tiếp theo là quyết toán NSNN.

Chấp hành dự toán chi theo các nguyên tắc sau: Thực hiện phân bổ dự toán trên cơ sở các định mức tiêu chuẩn; Đảm bảo phân bổ dự toán theo đúng kế hoạch được duyệt; Triệt để thực hiện nguyên tắc thanh toán chi trả trực tiếp qua kho bạc nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của các khoản chi; Thường xuyên đổi mới phương thức cấp phát vốn của NSNN theo hướng nhanh gọn, ít đầu mối, dễ kiểm tra.

Khâu III – Quyết toán ngân sách quận, huyện

Quyết toán ngân sách là khâu cuối cùng của một chu trình ngân sách. Đó là việc tổng hợp lại quá trình thực hiện dự toán ngân sách một năm sau khi ngân sách kết thúc nhằm đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động của một năm ngân sách từ đó rút ra ưu, nhược điểm và bài học kinh nghiệm cần thiết trong việc điều hành NSNN trong những chu trình ngân sách tiếp theo.

1.3. KIỂM SOÁT THU, CHI NGÂN SÁCH CẤP QUẬN, HUYỆN:

1.3.1. Khái niệm về kiểm soát và các loại hình về kiểm soát

1.3.1.1. Kiểm soát trong quản lý

Quá trình kiểm soát là cần thiết trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người, bên trong tổ chức như toàn bộ xã hội. Kiểm soát là một chức năng của quản lý, do vậy để hiểu được khái niệm kiểm soát, chúng ta cần phải tìm hiểu về quản lý.

Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất

Theo B. S Dhillon, Enginering management, Technomic Publishing Company, Inc (1987) Kiểm soát là bao gồm các hoạt động giám sát quá trình thực hiện, so sánh với các tiêu chuẩn và chọn ra cách thức đúng. Bản chất cơ bản của kiểm soát còn được hiểu rõ hơn trong các giai đoạn chủ yếu của toàn bộ quá trình quản lý. Quá trình quản lý từ việc lập kế hoạch và xây dựng các mục tiêu có liên quan. Để đảm bảo các hoạt động, hành động mong muốn và ngăn ngừa những hành động không mong muốn thì việc kiểm soát là một chức năng không thể thiếu. Do vậy kiểm soát không thể tồn tại nếu chúng ta không có các mục tiêu, chức năng kiểm soát tồn tại như một “khâu” độc lập của quá trình quản lý nhưng đồng thời lại là một bộ phận chủ yếu của quá trình đó, chức năng này được thể hiện khác nhau tùy thuộc vào cơ chế kinh tế, cấp quản lý và loại hình cụ thể.

Kiểm soát có thể hiểu là cách thức để nắm lấy và điều hành đối tượng hoặc khách thể quản lý. Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thể hiểu theo nhiều cách: cấp trên kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc các biện pháp cụ thể, đơn vị kiểm soát đơn vị khác thông qua chi phối đáng kể quyền sở hữu và lợi ích tương ứng, nội bộ đơn vị kiểm soát lẫn nhau thông qua quy chế và các thủ tục quản lý.

Quá trình kiểm soát:

– Triển khai các mục tiêu: xác định mục tiêu cần đạt được

– Đo lường các kết quả thực hiện theo những mục tiêu đã xây dựng để có cơ sở đúng đắn so sánh và phân tích việc thực hiện và có hành động quản lý phù hợp.

– So sánh thành tích cụ thể với các mục tiêu

– Phân tích nguyên nhân chênh lệch để tính toán mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố. Cần phải xác định nguyên nhân trực tiếp và những nguyên nhân cơ bản, xác định ảnh hưởng cụ thể của những nhân tố cá biệt quan trọng. Đây là bước chủ yếu đã sử dụng những kết quả miêu tả trong 3 bước trước.

– Xác định hành động quản lý thích hợp.

– Triển khai và đảm bảo hành động được thực hiện như mong muốn.

– Tiếp tục đánh giá lại: là bước cuối cùng trong quá trình kiểm soát, đây chính là kiểm tra tiếp sự đúng đắn của việc xác định hành động cần thiết trước đây và cách thức tiến hành những hành động đó. Bước này làm rõ sự liên kết giữa chu kỳ kiểm soát trước với chu kỳ kiểm soát sau, xác định hành động quản lý tiếp đó. Việc đánh giá sau là một hành động tiếp tục phản ánh những điều kiện thay đổi, để có thêm kinh nghiệm và biết rõ hơn tất cả các nhân tố.

1.3.1.2. Các loại hình kiểm soát

Tùy theo các tiêu thức khác nhau mà chúng ta có thể phân loại các hoạt động kiểm soát, cụ thể:

(1) Căn cứ theo nội dung của kiểm soát:

– Kiểm soát hành chính: là tập trung vào các thể thức kiểm tra nhằm đảm bảo cho việc điều hành công tác ở đơn vị có nề nếp, nghiêm minh và hiệu quả. Các thao tác kiểm soát hành chính được thực hiện trên các lĩnh vực tổ chức và hành chính ở mọi cấp độ như: tuyển chọn nhân viên, xây dựng tác phong, quy trình làm việc, tổ chức thực hiện các công việc cùng với các thao tác kiểm soát quá trình chấp hành và mệnh lệnh ở đơn vị.

– Kiểm soát kế toán: kiểm soát thực hiện mục tiêu bảo vệ tài sản và đảm bảo độ tin cậy của sổ sách tài chính kế toán, kiểm soát phải đảm bảo:

+ Các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thể của quản lý.

+ Các nghiệp vụ được ghi sổ là cần thiết để giúp chuẩn bị các báo cáo tài chính đúng theo quy định và duy trì khả năng hạch toán của tài sản.

+ Các hoạt động đều được ghi nhận vào các thời điểm thích hợp, giúp cho việc thiết lập thông tin kinh tế tài chính phù hợp với các chuẩn mực kế toán, thể hiện chính xác, toàn diện nguồn lực hiện có của đơn vị và phải có sự điều chỉnh khi có những chênh lệch.

LIỆN HỆ:

SĐT+ZALO: 0935568275

E:\DỮ LIỆU COP CỦA CHỊ YẾN\DAI HOC QUOC GIA HA NOI – KINH TE\HUYNH THI KIM PHUONG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *